Quỷ Kiếm U Linh

Hồi 13

 Đứng trước thạch môn để vào Kiếm Cung, Thế Kiệt không khỏi bồi hồi, bởi vì khi bước vào Kiếm Cung xem như chính thức rời khỏi Ác Nhân Cốc. Thế Kiệt bâng khuâng và bồi hồi, nhưng cuối cùng cũng đặt tay vào khối đá khởi động cơ quan mở cửa.

Những âm thanh rè rè phát ra như lời cảnh báo đối với Thế Kiệt. Cùng lúc với sự chuyển động của thạch môn, trong tâm tưởng Thế Kiệt cũng trỗi lên một thứ linh cảm mơ hồ cảnh báo chàng phải cẩn thận với hiểm nguy có thể chết người.

Âm thanh rè rè kia ngưng bặt thì thạch môn Kiếm Cung cũng mở toang. Ánh trăng nhờn nhợt lùa qua thạch môn rọi vào bên trong nhưng không đủ soi rõ những cảnh vật bên trong, dù vậy Thế Kiệt vẫn cảm nhận đây là chốn tuyệt địa giữa cái hư và cái thực không dành cho những ai thiếu cái tâm dũng lược của một kiếm thủ.

Chàng rút thanh Đoạn Hồn Quỷ Kiếm, hít một luồng nguyên khí căng phồng lồng ngực rồi dấn từng bước cẩn thận đi qua thạch môn. Vừa len qua khỏi thạch môn để nhập hẳn vào Kiếm Cung thì những tiếng rè rè lại phát động. Cánh cửa đá sau lưng chàng từ từ đóng lại.

Chẳng mấy chốc, khi thạch môn trở về vị trí cũ thì trong Kiếm Cung là một vùng tối dày đặc.

Bóng tối của a tỳ, bóng tối của thần chết đang rình rập những kẻ dám dấn thân vào tuyệt địa.

Tiếng rè rè im bặt, trong khi tinh nhãn của Thế Kiệt còn chưa quen với bóng tối u ám thì bất thình lình có sáu đốm sáng từ hai phía, xếp theo hình chữ phẩm, đồng loạt công kích chàng. Sự xuất hiện của sáu đốm sáng kia nhanh không thể tưởng. Thế Kiệt chỉ vừa kịp phát hiện ra chúng thì sáu đốm sáng đó đã đến rồi. Đến một kiếm thủ được thụ huấn chân truyền cái thần của Quỷ Kiếm Đoạn Hồn cũng phải rúng động tâm linh, bởi vì ngỡ sáu đốm sáng kia là sáu ảnh kiếm, vô song do sáu đại cao thủ kiếm thuật cùng thi triển ra để tước lấy cái mạng của chàng.

Sáu chiêu kiếm nhất tề xuất thủ, nhưng chỉ có một âm thanh xé gió phát ra nghe buốt cả cột sống.

Rét...

Đối phó với sáu chiêu kiếm của tuyệt địa Kiếm Cung có lẽ chẳng có thứ kiếm pháp nào trên cõi đời này khả dĩ cản phá được, ngoại trừ chính người kiếm thủ nhập vào Kiếm Cung.

Trong khoảng khắc tích tắc, trước khi sáu ảnh kiếm kia biến thân pháp Thế Kiệt thành sáu tảng thịt thì ảnh kiếm Đoạn Hồn được Thế Kiệt thi triển bằng chính tâm pháp linh ý của chính chàng. Trong nửa cái chớp mắt, thanh Quỷ Kiếm Đoạn Hồn ví như nước chảy, gió lùa, cuốn lấy sáu đốm sáng kia.

Cạch...

Ánh sáng từ sáu ngọn bạch lạp treo trên tường bất ngờ bùng lên. Ai đã thắp những ngọn bạch lạp trong Kiếm Cung. Chẳng lẽ trong tuyệt địa có người chăng? Ánh sáng từ những ngọn bạch lạp xé tan bóng tối khiến cho tinh nhãn Thế Kiệt bị lóa. Chàng còn đang ngớ ngẩn trước kỳ biến quái dị này thì cảm nhận lưỡi hái thần chết ở ngay trước yết hầu mình.

Mặc dù cảm nhận như vậy, nhưng với một phản xạ gần như chính xác đến hoàn hảo, Thế Kiệt trở vỏ kiếm đâm thẳng tới trước.

Chát...

Hổ khẩu tả thủ cầm vỏ kiếm tê rần, rát buốt, nhưng Thế Kiệt đã kịp định thần để có thể suy luận chuyện gì xảy ra. Chung quanh chàng không một bóng người, nhưng trên vách đá Kiếm Cung ngay chỗ sáu ngọn bạch lạp đang cháy là sáu lưỡi kiếm không có chuôi ghim đứng vào đầu những ngọn bấc. Chính những lưỡi kiếm đó đã tạo ra những tia lửa khi chạm vào vách đá để đốt những cây bạch lạp. Còn trước mũi giày của Thế Kiệt là một ngọn trủy thủ xanh rờn, chính nó đã tạo ra cảm giác chết chóc khi sáu ngọn bạch lạp kia bùng cháy.

Một cạm bẫy hoàn hảo chỉ để dành cho những kiếm thủ vượt ra ngoài cảnh giới của những kiếm chiêu tầm thường.

Thế Kiệt buông một tiếng thở ra. Chỉ mới bước qua cửa Kiếm Cung mà đã đối mặt với cái bẫy cực kỳ nguy hiểm này thì qua được Kiếm Cung sẽ còn bao nhiêu thử thách nữa, mà mỗi thử thách là một cạm bẫy a tỳ dành cho chàng.

Dù đã vượt qua thử thách đầu tiên, nhưng Thế Kiệt vẫn nhận hao lực vô cùng. Mồ hôi xuất ra đọng trên trán chàng, phản chiếu ánh sáng từ những ngọn bạch lạp trông như những hạt ngọc lưu ly.

Hít một luồng chân khí căng phồng lồng ngực, Thế Kiệt tiếp tục dấn bước theo hành lang tiến về phía trước. Chỉ đi độ mươi trượng, chàng lại đối mặt với cánh cửa thứ hai.

Thoạt một chút lưỡng lự, Thế Kiệt mới khởi động cơ quan mở cửa.

Thế Kiệt bước vào gian thạch thất đó. Cánh cửa đá sau lưng chàng cũng nhanh chóng khép lại. Trong gian thạch thất này chất đầy những bộ khô cốt nằm rải rác, cùng với những thanh kiếm đã rỉ sét. Cảnh tượng đó khiến Thế Kiệt rùng mình. Khác hẳn với gian ngoài kia, thạch phòng này như một cái ngục kiên cố không có lối ra, khiến cho những kẻ bước vào phải hoang mang.

Trên vách đá trước mặt là một đôi mắt to như hai cái chén đang trổ những hung quang xanh rờn chằm chằm nhìn Thế Kiệt. Đôi mắt ma quái kia như đang muốn hớp lấy cái thần của chàng. Nhưng chính đôi mắt đó cũng đang khuyến khích chàng hãy đến đối nhãn với nó...

Mùi ẩm mốc, cùng với khí lạnh tỏa ra từ những bộ khô cốt, khiến Thế Kiệt rùng mình.

Chàng đảo mắt nhìn qua một lượt khắp gian thạch phòng, đâu đâu cũng có những bộ khô cốt đã mục nát, chứng tỏ những người ở đây đã vượt qua cửa thử thách thứ nhất, nhưng họ đành chấp nhận một cái chết trong gian thạch phòng thứ hai này. Một điều nữa khiến Thế Kiệt lưu tâm là tất cả những thanh kiếm đã rỉ sét kia đều được tuốt ra khỏi vỏ, nửa chừng. Hình như những kiếm thủ này vừa tuốt kiếm thì đã mất mạng rồi. Ngay phía trước đôi mắt ma quỷ trên vách đá là một phiến đá mà cách sắp xếp phiến đá kia là một thách thức cho những ai bước vào gian thạch phòng đầy tử khí này.

Dù không biết chắc chuyện gì sẽ xảy ra với mình, nhưng Thế Kiệt đâu thể chỉ đứng yên một chỗ, bởi phía sau chàng cũng không có đường tháo lui.

Thế Kiệt nhìn đôi mắt ma quái trên vách đá, nghĩ thầm:

− “Mình chỉ có mỗi một cách bước đến phía trước.”.

Với ý nghĩ đó, Thế Kiệt tra thanh Đoạn Hồn Quỷ Kiếm vào vỏ rồi cẩn trọng bước đến bên phiến đá. Ánh sáng xanh rờn từ đôi mắt tỏa ra làm lóa mắt chàng. Nhắm mắt lại một lúc định thần, Thế Kiệt bước lên phiến đá. Khi chàng vừa yên vị, đôi mắt quỷ trên vách đá chợt trở nên sinh động vô cùng. Khi Thế Kiệt đối nhãn với đôi mắt đó thì có cảm tưởng mình đang đối nhãn với một đại kiếm thủ, mà thần nhãn của người đó đã luyện đến cảnh giới có thể lấy mắt mà giết người.

Tâm của Thế Kiệt thoáng một chút rúng động, và theo phản xạ tự nhiên Thế Kiệt đặt tay vào đốc kiếm Đoạn Hồn Quỷ Kiếm. Khi tâm tưởng chàng nảy sinh ý niệm dụng Quỷ Kiếm phá đôi mắt quỷ trên vách đá thì hình ảnh những thanh kiếm chưa kịp tuốt ra khỏi vỏ tái hiện trong ý niệm, và nhanh chóng biến thành một lời khuyến dụ đối với chàng.

Thế Kiệt nheo mày:

− “Sư phụ muốn mình vào Kiếm Cung không phải để mình biến thành những bộ khô cốt này.”.

Ý nghĩ đó khiến cho tâm định của chàng từ từ bình ổn trở lại. Sự bình ổn của tâm tưởng khiến thần trí Thế Kiệt đột nhiên sáng suốt vô cùng.

Chàng từ từ ngồi xuống phiến đá trong tư thế kiết đà mà suy ngẫm.

Điều gì xảy ra ở trong gian thạch phòng này khi những kiếm thủ kia rút kiếm? Tất cả đều rút kiếm và tất cả đều biến thành những bộ khô cốt mục rữa. Họ đã đối phó với ai, với cái gì, ngoại trừ đôi mắt ma quái trên vách kia?

Càng suy nghĩ, Thế Kiệt cảm nhận mình đang tiến dần đến cái ý ẩn dấu của những người lập ra gian thạch phòng này.

Chàng tự hỏi tiếp:

− “Trong gian thạch phòng này, ai là đối thủ của ta? Ai? Những bộ khô cốt này ư, không, ta chỉ có thể biến thành như họ mà thôi. Vậy ai là đối thủ?”.

Câu hỏi đó cứ chập chờn trong tâm tưởng chàng, bất chợt Thế Kiệt ngẩng mặt nhìn thẳng vào đôi mắt quỷ trên vách đá. Ngồi trên phiến, đối nhãn với đôi mắt quỷ trên vách, tinh nhãn của chàng lóa hẳn đi. Thế Kiệt có cảm tưởng hai mắt mình rát buốt bởi ánh sáng xanh lè từ đôi mắt quỷ kia phát ra.

Thế Kiệt giật mình. Chính lúc đó chàng mới thẩm thấu vì sao có đôi mắt trong gian thạch phòng này và trong đôi mắt quỷ kia ẩn tàng một lời khích đối với chàng.

Thế Kiệt lẩm nhẩm nói:

− Đối nhãn.

Thế Kiệt suy nghĩ như vậy, hào khí bốc lên, trong đầu thầm nghĩ:

− “Thế Kiệt không thể làm mất uy vũ của Giang Kỳ sư phụ. Mình đã là chủ nhân của Đoạn Hồn Quỷ Kiếm thì đôi mắt kia đâu có thể cướp được cái thần của mình chứ?”.

Với ý niệm đó, Thế Kiệt định tâm từ từ ngẩng mặt nhìn lên đôi mắt quỷ. Ánh sáng xanh biếc, chói lòa từ đôi mắt quỷ tỏa ra đập vào tinh nhãn Thế Kiệt khiến chàng lóa cả mắt, chẳng còn nhìn thấy gì cả. Trước mắt Thế Kiệt bây giờ chỉ có một vùng ánh sáng ma quái, đầy những ảo giác kỳ lạ.

Thế Kiệt không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng trong tâm tưởng chỉ mỗi một ý niệm phải vượt qua ảo giác kỳ dị lạ lùng này. Mặc dù tự động viên mình như vậy, nhưng tinh nhãn của chàng đã bắt đầu có cảm giác rát buốt bởi thứ ánh sáng xanh rờn ma quái kia. Thứ ánh sáng của ánh mắt thần chết, bắt chàng phải khuất phục. Càng lúc Thế Kiệt càng cảm nhận mắt mình rát bỏng như ai đó đang đổ nước sôi vào con ngươi, còn trong đầu thì vang lên những tiếng ù ù. Tưởng chừng chỉ trong chốc lát nữa thôi đầu chàng sẽ vỡ tung như những bọt bong bóng.

Chính lúc này, Thế Kiệt mới liên tưởng đến thác nước trong Ác Nhân Cốc. Đúng, chàng đã từng ngồi dưới dòng thác cuồng nộ đó để kiểm chứng ý thần Quỷ Kiếm của Giang Kỳ, và hiện tại thì đối nhãn với cái hư ảo mơ hồ.

Chính sự liên tưởng đó hun đúc trong tâm Thế Kiệt một dũng khí kiêu hùng. Chàng mặc nhiên với những cảm giác do đôi mắt ma quái kia đang hành hạ thần trí lẫn tinh nhãn của mình, mà vẫn nhìn chằm chằm vào nó.

Thời khắc trôi qua thật chậm chạp, cho đến khi Thế Kiệt đã quen với cảm giác đang chịu đựng thì tinh nhãn của chàng đã biến đổi. Tinh nhãn của Thế Kiệt như hấp thụ cái thần kỳ dị của đôi mắt trên vách đá, cái thần đó khiến bất cứ ai đối nhãn đều phải hồn siêu phách lạc. Trong sự thay đổi trong tinh nhãn của Thế Kiệt, thì mắt chàng cũng đã từ từ nhìn xuyên qua vùng ánh sáng xanh nhờn nhợt.

Thế Kiệt mỉm cười nói:

− Ngươi đã thua.

Đúng, chàng đã thắng đôi mắt quỷ kia. Bởi giờ đây, Thế Kiệt đã có thể thấy rõ mồn một phía trước mặt mình hình ảnh đôi mắt khắc trên vách đá, mà chính là giữa hai con ngươi là hai dấu ấn thủ.

Thế Kiệt thở hắt ra một tiếng khi những cảm giác rát bỏng của tinh nhãn biến mất cùng những âm thanh ù ù trong đầu. Chàng từ từ đứng lên, tiến thẳng đến bức vách đá, rồi thản nhiên áp song thủ của mình vào hai dấu ẩn thủ trong con ngươi đôi mắt quỷ.

Ánh sáng xanh rờn vụt tắt, và Thế Kiệt chỉ khẽ dụng một chút sức đã mở được cánh cửa chẳng khó khăn gì. Chàng rời khỏi gian thạch phòng u ám trong sự hoan hỷ, phấn chấn cao độ. Mặc dù đã rời được gian thạch phòng đối nhãn kia nhưng Thế Kiệt vẫn thấy mình phất mất khá nhiều tâm cơ và sức lực mới có thể ra khỏi Kiếm Cung.

Thế Kiệt bước vào gian phòng thứ ba. Gian phòng này hoàn toàn khác hẳn với hai gian phòng trước. Nó được trang hoàng lộng lẫy, ánh sáng thông qua những ô cửa tò vò phía bên trên hắt vào những giá đèn kiến tạo bằng khối ngọc Dạ Minh Châu để thắp sáng. Chỉ có thể tả đây là chốn thư phòng tráng lệ của các bậc đế vương đời trước.

Khi cánh cửa thông qua gian ngục phòng đối nhãn đóng lại thì Thế Kiệt tưởng chừng như mình lạc vào một cảnh giới khác, không còn tử khí, không còn vẻ ảm đạm, u ám như những gian phòng trước. Chính điều đó khiến chàng phải ngơ ngác và ngạc nhiên.

Ngay giữa gian đại sảnh phòng là một chiếc ngai sơn son thếp vàng. Trên chiếc ngai vàng là một bô khô cốt vận trường y đã biến màu bởi thời gian. Thế Kiệt không khỏi tò mò, lần bước đến bên chiếc ngai vàng có bộ khô cốt.

Chàng càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra trên tay trái bộ khô cốt là hai pho tượng kim thân La Hán ngọc lưu ly, tay phải còn lại là chuôi một lưỡi kiếm.

Chàng buột miệng nói:

− Người này là ai, tại sao trong tay có hai pho tượng kim thân La Hán ngọc lưu ly mà sư phụ không biết?

Thế Kiệt suy nghĩ một lúc rồi nhìn bộ khô cốt nghĩ thầm:

− “Không lẽ chính người này là chủ nhân Kiếm Cung? Nếu vậy thì giữa sư phụ và y, ai là người vào Kiếm Cung trước? Y hay sư phụ?

Thế Kiệt suy nghĩ mông lung:

− Có lẽ sư phụ mình vào Kiếm Cung trước người này.

Chàng vừa thốt ra câu nói thì bỏ ngay ý niệm đó, bởi kịp nhận ra hai chữ triệt “Kiếm Vương” đập vào mắt. Hai chữ Kiếm Vương được khắc thật tinh xảo trên tấm kim bài đeo trước ngực bộ khô cốt.

Kiếm Vương ư?

Thế Kiệt đâm ra bối rối với những phát hiện của mình. Chàng chợt chú nhãn đến ống tay áo của Kiếm Vương rồi nghĩ thầm:

− “Xem chừng tư thế của người này tịch diệt rất thanh thản và có chuẩn bị trước. Nếu đã có chuẩn bị thì chắc có để lại bút.”.

Với ý nghĩ đó, Thế Kiệt trang trọng ôm quyền xá bộ khô cốt, nói:

− Vãn bối là Lệnh Thế Kiệt, truyền nhân của Đoạn Hồn Quỷ Kiếm, nghe theo chỉ huấn của sư phụ, vãn bối vào Kiếm Cung, mong tiền nhân chỉ giáo.

Thế Kiệt vừa nói vừa hành đại lễ.

Khi chàng ngước lên thì chạm mắt ngay vào bức di cảo trong ống tay áo trường ý. Thế Kiệt thầm nghĩ:

− “Đúng như mình đoán.”.

Chàng không ngần ngại liền lấy bức di cảo trong ống tay áo ra xem.

“Kiếm Vương thủ bút Bổn nhân đã từng ngao lãm giang hồ võ lâm, để chọn người có căn cơ thần trí tiếp thụ kiếm ý của bổn nhân. Nhưng bổn nhân vô cùng thất vọng bởi chỉ gặp những kẻ vô tâm, vô ý, vô căn và vô thần. Trong lúc thất trí, bổn nhân bất ngờ gặp được pho thập nhị kim thân La Hán Lục ngọc phật của Thiền Không đại sư. Bí mật của mười hai pho tượng kim thân La Hán có liên quan đến kho báu liên thành của Trụ Vương. Bổn nhân quyết định dụng mười pho kim thân La Hán cùng với lưỡi Quỷ Kiếm Đoạn Hồn để tìm kẻ truyền nhân. Chỉ có những kẻ truyền nhân của lưỡi Quỷ Kiếm mới có thể vào được Kiếm Cung, tiếp nhận hai pho tượng còn lại để tìm ra kho báu của Vua Trụ.”.

Đọc đến đây Thế Kiệt ngớ cả người.

Chàng lắc đầu:

− Vậy là sư phụ chưa từng đặt chân đến đây. Chuyện này như thế nào?

Chàng buông một tiếng thở dài đọc tiếp:

“Kiếm Giáo ra đời từ đó. Nhưng chẳng bao lâu sau, chính lưỡi Quỷ Kiếm và mười pho tượng kim thân La Hán đã gây ra đại họa cho những giáo chúng Kiếm Giáo. Tất cả các phái trên giang hồ hợp nhất đến Kiếm Giáo đại đường để đoạt mười pho tượng kim thân La Hán và lưỡi Quỷ Kiếm. Trong nội tình Kiếm Giáo thì nảy sinh tranh đoạt, nhưng bổn nhân đã thề để mặc cho thiên hạ tranh đoạt với nhau để tìm truyền nhân thụ huấn thần ý kiếm pháp.”.

Thế Kiệt thở dài lắc đầu.

Chàng đọc tiếp:

− “Vậy bất cứ ai vào được gian đại sảnh phòng này thì trở thành truyền nhân của ta.

Dụng kiếm mà phát dương quang đại, lập bá trên giang hồ để xứng với hai chữ Kiếm Vương đời thứ hai.”.

Thế Kiệt lắc đầu nhìn bộ khô cốt của Kiếm Vương, lẩm nhẩm nói:

− Tiền bối vì chữ danh, nhưng cuối cùng cũng đâu vượt qua được cõi sinh tử luân hồi.

Vãn bối đành phụ lòng lão tiền bối mà không tiếp nhận thỉnh ý của người. Vãn bối chỉ mạn phép mượn người hai pho tượng kim thân La Hán, sau khi hoàn thành đại nguyện với sư phụ sẽ đem trả lại cho người.

Thế Kiệt khấn xong hành đại lễ trước di thể của Kiếm Vương.

Một kỳ biến mà Lệnh Thế Kiệt không sao ngờ tới được, khi trán chàng vừa chạm xuống sàn đá hoa cương, thì ngay phía sau lưng di thân Kiếm Vương một tấm vải lụa trắng từ trên nóc thạch phòng xổ xuống. Thế Kiệt vừa ngạc nhiên vừa ngớ ngẩn, nhưng rồi cũng kịp đoán ra đây là sự sắp xếp của Kiếm Vương.

Chàng nhìn lên tấm lụa trắng.

Dòng chữ thảo với những nét bút như rồng bay phượng múa đập vào mắt chàng.

“Vô hình kiếm ý”.

Cả một tấm lụa với phạm vi non mười thước vuông mà chỉ vỏn vẹn có mỗi dòng chữ đó thôi, bắt Thế Kiệt phải tò mò dán mắt vào tấm lụa. Không biết sao, tấm lụa chỉ mỗi hàng chữ “Vô tình kiếm ý” như có hấp lực nào đó buộc Thế Kiệt không thể rời mắt khỏi đó.

Chàng có cảm giác đầu óc mình bỗng trở nên trống rỗng đến lạ lùng. Và chỉ còn đọng lại mỗi một điều duy nhất, đó là câu hỏi:

Vô hình kiếm ý là gì?

Kiếm thì phải có chiêu, có bài, nhưng tấm lụa kia chẳng có khẩu quyết gì cả ngoài mỗi một dòng chữ kia mà thôi. Mặc dù vậy, nhưng chính sự kỳ bí đó khiến Thế Kiệt không sao rời mắt nhìn chỗ khác được.

Càng nhìn chăm bằm vào tấm lụa, Thế Kiệt càng cảm nhận có điều huyền bí nào đó mà Kiếm Vương đã nghiệm ra muốn gởi gắm lại, nhưng lúc này Thế Kiệt chưa hiểu được thần ý của Kiếm Vương. Điều này cũng đúng thôi, bởi trong nhất thời dù Thế Kiệt có thông minh đến đâu cũng khó mà thấu đáo ngay cái thần ý của tiền nhân đã thành danh.

Bất giác Thế Kiệt chú nhãn đến đốc kiếm trên tay Kiếm Vương. Tự dưng trong tâm ý của chàng nảy sinh một ý niệm.

Tại sao Kiếm Vương chỉ giữ lại chuôi kiếm?

Câu hỏi cứ vẩn vơ trong đầu Thế Kiệt. Chàng buột miệng lẩm nhẩm nói:

− Nhất định Kiếm Vương phải có ẩn ý gì trong sự biến kỳ lạ này.

Mặc dù nghĩ như vậy, nhưng Thế Kiệt vẫn không lĩnh hội được ẩn ý của vị chủ nhân Kiếm Cung.

Buông một tiếng thở dài, rồi chàng tự nói với mình:

− Dù sao mình cũng là người duy nhất bước qua cửa Kiếm Cung.

Thốt xong câu đó, Thế Kiệt trở bộ tiến về phía thạch môn. Không khó khăn lắm để chàng mở thạch môn tiến vào một hành lang được lót bằng đá hoa cương. Theo hành lang đó, Thế Kiệt đi luôn một mạch đến một cánh cửa đá khác.

Nhìn cánh cửa đá, Thế Kiệt hỏi thầm:

− “Phía sau cánh cửa này là gian thạch phòng gì nữa đây?”.

Chàng nhìn lên thạch môn thấy dấu ấn thủ in rõ mồn một.

Không một chút ngần ngại, Thế Kiệt tự áp bản thủ của mình vào dấu ấn thủ. Bàn tay Thế Kiệt vừa vặn với dấu ấn thủ trên thạch môn, và nó tự động lún vào một đốt tay.

Thạch môn nhích động và từ từ rút lên trên. Phía sau cánh cửa đá là một hành lang hun hút, nhưng lại có gió từ phía đối diện lùa vào.

Băng luôn vào hành lang thì tự nhiên thạch môn sụp xuống đóng lại sau lưng chàng.

Dù chưa biết hành lang này sẽ dẫn mình đến đâu, nhưng Thế Kiệt vẫn đoán được đây là khai lộ để chàng rời Kiếm Cung. Bởi chỉ có khai lộ mới có những luồng gió mát như vậy.

Rít một luồng chân ngươn căng phồng lồng ngực, Thế Kiệt trổ khinh pháp siêu phàm thoát đi.

Đang lướt đi chợt Thế Kiệt cảm nhận một luồng khí chưởng mãnh liệt từ bên ngoài ào ào ập tới trước mặt mình. Luồng khí chưởng kia có công lực phá mãnh liệt, cày xới cả mặt đá lót hành lang. Thế Kiệt điểm mũi giày đạp trên sóng chưởng thoát ra ngoài cửa.

Khi vừa thoát ra, Thế Kiệt nhận ra một lão nhân vận hồng y, tóc bạc trắng, dung diện khắc khổ đang vận kình phát chưởng đánh vào hang động.

Lão nhân thoạt sững sờ, thu hồi song thủ khi thấy Thế Kiệt với bộ pháp siêu phàm cắt một đường vòng cung đạp trên sóng chưởng của lão.

Thế Kiệt vừa trụ bộ, lão nhân đã lên tiếng:

− Xem ra Đoạn Hồn Quỷ Kiếm Giang Kỳ đã vượt bậc hơn ngày xưa quá nhiều đó.

Lão vừa thốt xong câu nói đó thì cũng kịp nhận biết người đối mặt với mình không phải Quỷ Kiếm Giang Kỳ, liền hỏi lại:

− Tiểu tử, ngươi không phải Giang Kỳ.

Thế Kiệt ôn nhu đáp lại:

− Vãn bối là Lệnh Thế Kiệt, đồ đệ truyền nhân của sư phụ Giang Kỳ.

Lão nhân gật đầu nhìn chàng từ đầu đến chân:

− Giang Kỳ xem ra cũng biết chọn đồ đệ đó chứ.

Lão dấn đến hai bộ:

− Tiểu tử cho lão phu biết Đoạn Hồn Quỷ Kiếm Giang Kỳ có ở trong Kiếm Cung không?

Chắc chắn là có chứ?

− Vãn bối mạn phép hỏi lão trượng là ai, sao lại kiếm sư phụ của vãn bối?

− Tiểu tử như ngươi thì không thể biết được ngoại hiệu của lão phu rồi. Nhưng Giang Kỳ ắt đã nói với ngươi về lão phu.

Thế Kiệt nhìn thẳng vào mắt lão nhân:

− Nghe lão trượng nói, vãn bối có thể đoán được lão trượng là một trong năm người:

Khoái Kiếm Giang Mão, Nam Quân Gia Hầu, Bắc Thần Thôi Kỳ Lân, Đông Độc Âu Trung Thừa, Tây Kỳ Thạch Khởi.

Chàng vừa nói xong, lão nhân cất tiếng cười khanh khách. Lão cắt tràng tiếu ngạo, nhìn lại Thế Kiệt:

− Thế tiểu tử đoán lão phu là ai?

Lão vừa hỏi câu đó vừa rút thanh nhuyễn kiếm đeo bên hông hoành ngang trước ngực.

Lão bẻ cong lưỡi kiếm, rồi bất ngờ bung ra. Một luồng khí kiếm bắn ra, cắt một đường thẳng tắp trước mũi giày Thế Kiệt.

Mặc dù thấy lão nhân biểu diễn khí kiếm để áp chế tinh thần mình, nhưng Thế Kiệt vẫn dửng dưng. Lão nhân thoạt cau mày vì thái độ thờ ơ của Thế Kiệt.

Chàng nhìn lão nhân, bình thản nói:

− Bây giờ vãn bối có thể nói lão trượng chính là Khoái Kiếm Giang Mão.

− Tiểu tử đã nhận ra lão phu?

− Chỉ có một đại kiếm thủ thần kỳ như lão trượng mới có thể thi triển được kiếm khí.

Khoái Kiếm Giang Mão vuốt râu, mỉm cười:

− Tiểu tử nói nghe rất hạp thính nhĩ lão phu. Vậy ngươi đã biết lão phu là Khoái Kiếm Giang Mão sao còn chưa vào báo với Giang Kỳ ra gặp lão phu?

Lão nhún vai nhìn Thế Kiệt:

− Lão phu biết lúc này Giang Kỳ đã bị trúng độc, khó có thể đứng vững trước thanh khoái kiếm của lão phu nên mới sai tiểu tử ra hầu tiếp.

Lão chắc lưỡi:

− Giang Kỳ tệ quá. Đưa đồ đệ ra thế mạng mà không chịu trao báu vật kim thân La Hán.

Lão phu tiếc cho tiểu tử đã chọn lầm một vị sư phụ.

− Lão trượng không hiểu được sư phụ rồi, nên mới thốt ra câu đó.

Khoái Kiếm Giang Mão tròn mắt:

− Lão nói sai sao?

Thế Kiệt gật đầu:

− Lão trượng đã nói sai.

− Lão phu không thể nói sai được.

Thế Kiệt lắc đầu:

− Nhưng lần này lão trượng đã nghĩ sai, và cũng nói sai, chính vì thế mà vãn bối không còn coi Khoái Kiếm Giang Mão là một đại kiếm có thể sánh ngang với sư phụ được.

− Ngươi dám vọng ngôn với lão phu? Hãy vào gọi Giang Kỳ ra đây nộp báu vật kim thân La Hán cho lão phu nếu tiểu tử muốn bảo toàn cái mạng của ngươi.

Thế Kiệt lắc đầu:

− Vãn bối có thể hầu tiếp tiền bối.

− Ngươi ư?

− Đúng như vậy.

Giang Mão nheo mày lắc đầu, rồi ngửa mặt cười khành khạch. Lão vừa cười vừa nói:

− Lão phu nực cười quá. Giang Kỳ ơi Giang Kỳ, sao ngươi lại nỡ đem đồ đệ tay còn chưa nắm vững đốc kiếm ra làm trò cười cho lão phu chứ.

Bất thình lình Thế Kiệt lấy một bức kim thân La Hán của Kiếm Vương đặt ngay xuống phía trước mình. Chàng nhìn Giang Mão:

− Tiền bối cũng có một bức tượng kim thân La Hán chứ?

Giang Mão vừa nhác thấy pho kim thân La Hán, hai con ngươi chợt sáng rực, tỏ thái độ thèm thuồng ra mặt.

Thế Kiệt nhìn lão trang trọng nói:

− Vãn bối thừa lịnh sư tôn đánh cuộc với tiền bối.

− Vậy ư?

Thế Kiệt gật đầu.

Giọng lão hứng khởi nói:

− Thế thì lão phu thắng chắc rồi.

Giang Mão giễu cợt nhìn Thế Kiệt nói:

− Nói thế thôi, chứ lão phu cho phép ngươi trở vào trong đó. Chỉ cần để lại pho kim thân La Hán là đủ rồi. Lão phu không nỡ lấy cái mạng của ngươi đâu.

Giang Mão vừa dứt lời thì bất ngờ có một người lướt đến với khinh thuật nhanh ngoài sự tưởng tượng. Kẻ đó cất giọng eo éo:

− Lão tặc quỷ có phần thì lão Thạch này cũng có phần chứ.