Phong kiếm xuân thu

Hồi 39

Chúng tướng nghe nói thì giậm chân nói với nhau rằng: "Thầy khi bọn ta không

ra gì, ngàn quân muôn ngựa xông qua chẳng biết mấy lần, nay có cái trận nhỏ, mà

nói chúng ta đi không được?" Tôn Tẫn nói: "Không phải ta không muốn cho chúng

ngươi đi theo, cái trận này thiệt là mười phần lợi hại, trong trận phân những thiên

thần thiên tướng, chớ nói kẻ phàm nhân vào không được mà thôi, dẫu cho thần tiên

cũng khó giữ, nay ta liều chết mà vào trận này, nếu ba ngày mà không ra khỏi thì

các ngươi tâu cùng Tương Vương chúc cáo thượng thiên họa may có người tiên

xuống cứu cũng chưa biết chừng, mấy lời dặn bảo chúng ngươi mau trở về".

Nói về Tôn Tẫn coi chừng chúng tướng về rồi, quất trâu rượt theo Mao Bôn, đi

cửa phía Tây vào trận, ngưới mặt xem thấy hồn bất phụ thể, thấy năm tòa đài cao,

bốn phía vách tường bày ra tám cửa, đẩu tú ba vị Tàu quan, bốn ông nguyên soái giữ

cửa trận, Lôi Tổ đứng giữa không trung, Lục đinh, lục giáp các thần đứng trên còn

Thiên la, giám là, dưới bày địa võng, nghiêm nhặt tề chỉnh, Tôn Tẫn thúc trâu đi tới,

thấy Mau Bôn đến giữ trung ương pháp đài, xuống nai lên đài, tới cây cờ đại độc kỳ,

đốt phù niệu chú, tức thì cờ ngũ lôi trong tay Vương Tiễn cầm vùng hươi phất, làm

cho cây kim tiên của chơn hồn Vương Tiễn kêu rang rảng, tám bộ Lôi thần đều đến,

Mao Bôn dạy đáng năm cái trống, tiếng nghe vang trời động đấy, năm vị Lôi thần

bay giữa không trung, tay cầm lôi tước, còn Lôi mẫu thì lấy kiếng chiếu yêu, chớp

luôn mấy chập, Lôi Tổ cầm kim tiên, hươi múa bốn phương. Năm vụ lôi thần nổi

sấm, Đặng, Tân, Trương, Ban, Đào, Lưu, Tuân, Tất, tám soái ra oai, đều dấy thần

thông. Tôn Tẫn ngó thấy năm bộ tám soái đều dữ tợn lắm, trong lòng hoảng kinh, lật

đật vói sau lưng, rút cây cờ hạnh huỳnh và sắc lệnh thiên sư, chúng thần ngó thấy

hào quang muôn đường ửng sáng, ngũ lôi chẳng dám bay xuống, cứ giữa thinh không

qua lại tiếng sấm nổ vang không dứt, Tôn Tẫn mừng lắm, lấy hạnh huỳnh kỳ bước

xuống thanh ngưu trải trên đất mà ngồi, ngẫm nghĩ rằng: "Tuy mình không bị sấm

sét đánh nhằm, song coi thế như vậy, ắt không ra khỏi, chắc phải bị yêu đạo vây

khốn".

Nói về Mao Chơn Nhơn, thấy Tôn Tẫn có hạnh huỳnh kỳ chống đỡ ngũ lôi

không dám xuống, thì thất kinh nói: "Hèn chi thằng cụt gắt cây cơ tang trên lưng nó

luôn cả ngày, đến lúc nguy cấp, cậy nhờ hết sức, vì nó có mây tốt ngàn vững, bông

sen mươi vựng, các thần đều sợ chẳng dám xuống tay, tuy mình vây khôn cũng

không làm chi nó đặng, chẳng là nhọc mà không ích, hôm nay công phu của ta làm,

đá hư hủy rồi, song mình vây thằng cụt đâu dám thả ra, giận vì bụng nhỏ không phải

người quân tử, không độc chẳng phải đấng trượng phu". Nói rồi xuống đài cầm gậy,

lên nai ra trận, trở về dinh Tần vào đến trướng huỳnh la, ra mắt Thủy Hoàng, Thủy

Hoàng nghênh tiếp hỏi rằng: "Chúc mừng Chân nhân thế nào?". Mao Bôn đem việc

ngũ lôi vây khổn Tôn Tẫn, bấm lại một hồi, Thủy Hoàng nói: "Thằng cụt ấy thần

thông quãng đại, phải giữ gìn cho lám kẻo nói trốn khỏi, vả lại vây cánh nó đông

lắm, e có người tài đến cứu, hóa ra việc chẳng tốt". Mao Bôn nói: "Bệ hạ chớ lo,

trong trận, trên có thiên la, dưới có địa võng, lại có ngũ lôi gìn giữ pháp đài, dẫu có

người tài giỏi cũng không vào được. Bệ hạ chớ lo, để đêm nay đến canh ba, tôi làm

phép thì thằng cụt ấy, trong bảy ngày phải chết". Thủy Hoàng vui mừng chẳng xiết,

truyền chỉ dọn yến chay thết đãi, ăn uống xong rồi trời vừa tối. Mao Bôn từ giã đến

dinh. Kim Tử Lăng chong đèn ngồi đợi, Mao Bôn dạy từ Tử Lăng lấy ra một cây lụa

trắng, dài ba trượng sáu thước đặng làm một cây phướn kêu là Lạc hồn phong, và đề

ngày giờ sanh chân hồn của Tôn Tẫn, và dùng cây sào dài năm trượng, cắm giữa

trung ương mồ kỷ, phía trước đài ngũ lôi, dưới gốc để một cái ảng nhỏ, đựng nước

đầy, miệng bịt vải đen, phải làm cho mau. Tử Lăng dạy quân kỳ bài, làm y thức lệ,

mau mau như thổi lửa, trở về phục mạng. Mao Bôn dạy quân kỳ bài cầm cây phướn

theo vào trận. Quân kỳ bài vui mừng vâng chịu, Mao Bôn gật đầu, tưởng thầm rằng:

"Người này đại hạn đã tới rồi". Lúc ấy đêm khuya, Mao Bôn xách gậy cỡi nai, dẫn

quân vào trận, đến trung ương pháp đài, tên kỳ bài quan đều ngó thếy chẳng còn hồn

phách, bốn phương tám hướng đều những thiên binh thiên tướng, mặt xanh, đỏ, lục,

chàm, cặp mắt lườm lườm thất kinh, cả mình run rẩy, chẳng dám xem coi. Mao Bôn

đem phướn lạc hồn treo lên, còn ảng nước thì để dưới gốc phướn, kêu tên kỳ bài

biểu dựng đứng cây phướn. Tên kỳ lạc ấy chẳng khác chiêm bao, đâu rõ đem nó tế

cờ. Mao Bôn giơ lệnh bài đánh lên xảy nghe sấm nổ một tiếng, đánh xuống phước

lạc hồn, tên kỳ bải bể óc, tế cây thần phong. Mao Bôn trở lên đài xổ tóc cầm tươm,

miệng niệm chơn ngôn, đánh ba tiếng lệnh bài, bỗng thấy một vị thiên thần, mình

mặc như cụa sống, tóc đỏ râu hồng, tay cầm Hóa triêm sang, bên tả mang cung.

Chơn nhơn nói: "Xin cậy oai ra sức tôn thần, giữ cây lạc hồn phong, chớ để người

vào ăn trộm". Mao Bôn lấy bùa đốt, miệng niệm chú bắt sao, xảy thấy sao bôn

mạng Tân Tẫn xa lìa khỏi ngôi, bay lên xuống gần muốn rớt, Mao Bôn cả giận, rút

bửu kiếm chỉ lên, đánh luôn ba tiếng lệnh bài, nạt lớn rằng: "Bổn mạng tinh, sao

chẳng xuống, còn đợi chừng nào?". Xảy thấy một ánh sao sáng ngời, chói mắt vùng

bay xuống, rồi quành trở lên. Mao Bôn lấy gươm chỉ nạt rằng: "Nghiệt chướng! Mi

còn muốn đi đâu, mi ỷ có hạnh huỳnh, cả gan dám đến phát trận, bất quá mà giữ

đặng xác thịt thai phàm đó mà thôi, chớ có giữ đặng sao bổn mạng của mi đâu, ta cứ

một ngày ba giờ, thỉnh lôi bộ đánh chơn hồn ngươi cho tan hết, ta làm cho ngươi bảy

ngày phải chết". Nói rồi lấy vải đen bịt miệng ảng, để cái tháp ngũ lôi thần đè lên

mà trấn vì sao bổn mạng của Tôn Tẫn. Mao Bôn đánh lệnh bài, đốt bùa chú, giữa

không trung vẹt mây bay xuống một vị anh linh thần mặt như trăng tròn, đầu bạc như

sương, cỡi nai cầm gậy, đến đài nghe lệnh. Mao Bôn cúi mình nói: "Nay có sao bổn

mạng Tôn Tẫn đè dưới thần tháp, e có người tài vào trận mà ăn cắp sao bổn mạng,

thả trở về đi chăng, xin cậy tinh chủ (là chúa các vì sao trên trời) hết lòng xem giữ,

nếu để sơ thất, thì cừ thẩn thơ biếm trách". Tinh chủ nghe rồi, liền đi coi giữ. Mao

Bôn đứng trước mặt Vương Tiễn nắm cây cờ ngũ lôi trong tay. Vương Tiễn hươi phất

ba lần, giơ lệnh bài lên, bỗng nghe tiếng sấm nổ vang, hồn thiệt Vương Tiễn là Phổ

Hóa thiên tôn cỡi kỳ lân bay xuống trước đài. Mao Bôn nói: "Xin cậy tôn thần, nay

có Tôn Tẫn vào trận dùng cờ hạnh huỳnh che thân, ngũ lôi không dám hại nó, bần

đạo vâng phép thần thơ lập lập một cây lạc phong, trên có tám chữ chơn hồn Tôn

Tẫn, xin cậy Thiên tôn sak tôi lộ cứ giờ tý, ngọ, dậu, trong bảy ngày đánh chết hồn

phách Tôn Tẫn, chẳng được trái lệnh". Thiên tôn vâng chỉ, bay đứng không trung

vừa lúc nửa đêm giờ tý, cầm kim tiên hươi trên cân phướn một cái, ngũ lôi đều dấy

thần oai, nhắm phướn lạc hồn đánh xuống. Tôn Tẫn ở dưới đài vùng lạnh mình một

cái, Mao Bôn cả mừng, bới đầu đội mão xuống pháp đài, ra khỏi trận về dinh, qua

đến giờ ngọ, vào trận lên đài bắt ấn làm phép, lấy lệnh bài giơ lênh. Phổ Hóa thiên

tôn cầm kim tiên hươi hai cái, ngũ lôi đánh xuống cây cờ, Tôn Tẫn ở dưới đài cũng

lạnh mình một cái, đến giờ đậu cũng làm như vậy, một ngày ba giờ đánh luôn ba lần,

Tôn Tẫn trước mắt tối đen, sau lưng pháp lạnh, trong bụng thất dài nói rằng: "Ta

tướng có cờ hạnh huỳnh hay đỡ, các thần chẳng dám xuống bây giờ một ngày ba giờ

nó làm sấm sét đánh ta như vậy, hao tổn tinh thần, mạng ta ngày phải chết!".

Nói về Yên Đơn công chúa bệnh cành trầm trọng, uống thuốc không giảm chút

nào, mở mắt không thấy Tôn Tẫn, liền hỏi Tôn Yên rằng: "Chú mi thưa với ta vào

triều này đã mấy ngày?". Tôn Yên nói: "Được ba ngày". Yên Đơn dạy rằng: "Người

vào triều thăm nghe coi chú mi làm việc gì mà ba ngày không thấy về?". Tôn Yên

vâng lệnh ra khỏi phụng các, tuốt đến ngọ môn vừa lúc Tương Vương lên điện, bàn

luận việc quân tình, nhắc rằng: "Á phụ vào trận đã ba ngày sao chẳng thấy về?".

Bổng thấy Tôn Yên lên điện triều bái. Tương vương nghiêng mình nói: "Ngự đệ

đứng không ở phụng các mà hầu, đến đây ra mắt trẫm có việc chi chăng?". Tôn Yên

tâu rằng: "Vâng mệnh tổ mẫu tôi sai đến, hỏi thăm chú tôi làm việc chi, bây giờ ở

chỗ nào?". Tương vương nghe hỏi nhíu mày nói: "Ngự đệ hỏi á phụ, trẫm không giấu

chi, vì á phụ phá trận đã ba ngày mà chưa thấy về, kiết hung còn mất không lường,

lòng trẫm chẳng an". Tôn Yên nghe nói giận lắm, trợn mắt nói rằng: "Vì sao một

thằng yêu đạo dám hại chú tôi, bệ hạ chớ lo, để tôi đến đó bắt Mao Bôn tra hỏi chú

tôi ở chổ nào?". Nói rồi nhảy hét như sấm, vừa muốn xin vua ra trận, Tương vương

khuyên rằng: "Ngự đệ không nên giận dữ, trẫm tưởng chú ngươi ba tai năm nạn đều

qua khỏi hết, liệu không đến nỗi bị hại, nau ngự đệ đến phá trận thì việc ấy cũng

không gấp gì? Nếu quý nhân trong giây phút có việc chi bất trắc, thì không có chú

cháu ngươi ở đó, biết liệu làm sao? Chi bằng ngự đệ trở về Đơn phụng các, phụng

dưỡng quý nhân để trẫm sai người dọ thăm tin tức á phụ, như vậy mới được lưỡng

toàn". Tôn Yên đương lúc dụ dự chưa quyết, xảy thấy các vị ấm tập bước ra tâu

rằng: "Lúc Nam quận vương ra đánh, bị Mao Bôn dẫn vào trận, khi ấy chúng tôi đều

xin theo ngươi phá trận, mà Nam quận vương không cho, nói: "Trong trận ấy đều

những thiên binh thiên tướng, người phàm vào không được, và người có dặn chúng

tôi rằng: "Nếu ba ngày người không ra khỏi trận, thì tâu cho bệ hạ rõ, xin bệ hạ

thành tâm, đốt hương khấn vái, thỉnh người tiên xuống phàm, thì mới cứu được, ấy là

lời của Nam quận vương lúc ra đi, dặn bảo như vậy". Tương Vương nghe nói rất

mừng nói: "Ngự đệ thôi chớ phiền lòng, trẫm tưởng chú ngươi cùng Kim nhãn Mao

Toại quen nhau rất hậu, vậy để trẫm đốt hương thỉnh Mao chơn nhơn xuống núi mà

cứu á phụ thì chẳng khó chi". Tôn Yên tâu rằng: "Nay bệ hạ không cho tôi phá trận,

thì tôi cũng chẳng dám gượng đi, song hôm nay là ngày thứ ba, xin chúa thượng

thành tâm, đốt hương cần thỉnh người tiên xuống cứu chú tôi, là việc rất gấp". Tương

vương nói: "Thôi ngự đệ hãu về để trẫm liệu toan". Tôn Yên trở về Đơn Phụng các.

Nói về Tương vương dạy bày hương án, vái lạy trời đất, tức thì một làn khói hương

bay bổng trên không. Trị nhựt công tào đưa tới núi Thanh thạch động Nhàn âm.

Lúc ấy Kim nhân Mao Toại đang ngồi trong động, xảy có một vầng khói hương

bay đến, rõ biết công việc thất kinh than rằng: "Tam ca, tham luyến hồng trần chẳng

khứng về núi Thiên Thai tu lòng dưỡng tánh, bởi vậy nên đến Dịch Châu, mà mang

khổ sở đã nhiều, lẽ thì về núi mới phải, vì sao lại đến Lâm Tri mà mắc tai nạn, hôm

nay bị vây tại trận Ngũ lôi, trong bảy ngày tánh mạng không còn, nếu ta đóng cửa

chẳng quản đến việc người, như vậy thì dứt tình giao kết, vậy thì ta phải xuống hồng

trần, song cũng khó cứu người ra khỏi trận đặng". Tính đi nghĩ lại, sầu não muôn

phần, Khoái Vân Thông đứng một bên xem thấy, bước tới hỏi rằng: "Sư phụ vì cớ

chi, ủ mặt mày châu như thế?" Mao Toại nói: "Hiền đồ chưa rõ, vì Quản Văn sư bá

của ngươi ở đất Lâm tri giáp chiến, gây đánh Mao Bôn, nên Mao Bôn làm họa lớn,

vì Mao Bôn bày ra trận Ngũ lôi thần binh, vây người trong trận trước mắt sờ sờ, bác

ngươi bảy ngày phải chết". Văn Thông nói: "Nếu bác có nạn sao thầy chẳng đi cứu

giúp?" Mao Toại nói: "Ta đã về núi rồi, lẽ đâu trở xuống hồng trần nữa sao? Vả lại

bác ngươi làm việc sai lầm, khổ vì cãi trời làm trái, nay bị trong trận Ngũ lôi, một

mảy ta không hiểu biết, dẫu xuống đó cũng khó cứu đặng ấy là tại người làm người

chịu, từ đây về sau, như muốn gặp nhau thì trong giấc chiêm bao mới thấy". Văn

Thông nói: "Nếu thầy chẳng thông trận phép, mà không cứu đặng người, sao chẳng

thỉnh ít vị tổ sư xuống núi cứu giúp?". Mao Toại nói: "Nay ta biết thỉnh ai bây giờ,

duy cậy người ta một hai lượt mà thôi, cũng vì tam ca mà ta cậy người ta chẳng biết

mấy lần, nay làm sao mà cậy người đặng nữa?" Văn Thông nói: "Nếu vậy bác tôi

chết không người cứu rồi". Mao Toại nói: "Song còn một cái đường này, ta không đi

nữa đặng, để ta viết ít chữa cho ngươi đ, ta tưởng bác người ngày thường cùng Bạch

Viên ưa nhau rất thiết, vậy ngươi đem thơ ta đến khe Nhạn Sầu, mượn lão viên lên

núi Vân Tịch, thỉnh Vương Thuyền, Vương Ngao, anh em va, một người là sư phụ,

một người là sư thúc, ta đi thỉnh va sợ e không tiện". Văn Thông nói: "Như vậy thì

thầy viết thơ cho mau đặng tôi đi". Mao Toại bèn lấy văn phòng tứ bửu, tức khắc

viết thơ, trao cho Văn Thông. Văn Thông lãnh thơ ra khỏi động, bay bổng trên

không.

Nói về Tôn Yên về Đơn Phụng các, thấy bọn cung nữ đều ở trong các hầu hạ,

bèn bước tới giường ngó thấy quý nhân mặt như giấy vàng, lưỡi cứng miệng xanh, sa

nước mắt, than thở. Tôn Yên vội vàng quỳ xuống bẩm rằng: "Tổ mẫu không nên

thương cảm, có cháu về đây". Quý nhơ nhướng mắt ngó thấy vội vàng hỏi Tôn Yên

rằng: "Người thám nghe chú ngươi nay ở chổ nào?" Tôn Yên thấy bà nội hỏi, thì

chẳng dám giấu, thưa rằng: "Chú tôi đang bị họa lớn đến mình, nay mắc trong trận

Ngũ lôi mất còn chưa biết, khi nãy tôi ở trong triều, thăm nghe rõ ràng như vậy".

Yên Đơn công chúa nghe rồi khí giận ngăn ngang, đàm lên chận cổ, thở không đặng,

giây phút tắt thở. Tôn Yên khóc lóc kêu vang, hồi lâu chẳng tỉnh mối hay rằng:

Đường chín suối ríu ríu đi luông không trở lại, lật đật sai cung nhơ vào tâu. Tương

vương và Củng quốc mẫu đến tới Đơn Phụng các khóc rống một hồi, tẩm liệm xong

xuôi, quàn nơi điện bạch hổ, ra biểu dự quần thần, cư tang đái biếu bảy ngày. Tôn

Yên quỳ tạ ơn Tương Vương.

Nói về Khoái Văn Thông lãnh thơ Mao Toại, vẹt mây bay đến Nhạn Sầu giảng

thấy trước động có vài con khỉ nhỏ, đang trững giỡn, đứa thì nhảy trên đá, đứa

chuyền trên cây. Văn Thông than thở nghĩ thầm rằng: "Nam Cực tiên ông thiệt

không ý chủ, vì sao một con vượn trắng, cũng cho nó vào bậc tiên làm làm nhơ

nhuốc đạo tu hành, chẳng kỳ Thiên tiên, địa tiên, tàng tiên cho đến tám động, non

biển, chẳng hề có một cái cửa nào, mà không có tiên đồng, bạch hạc, thanh loan ở

giữ, duy cái Nhan Sầu giảng này, đều là bầy khỉ giữ động, vậy thì ta biết kêu nó

bằng sư huynh, hay là đạo hữu bây giờ". Văn Thông còn đang suy nghĩ, trong động

có một con khỉ, thấy người lùn thì lấy tay ngoắc, kêu mấy con khỉ kia mà nói rằng:

"Chúng bây coi vậy gì, ở đâu lăn tới đó?" Mấy con khỉ đứa thì nói cục thịt, đứa thì

nói trứng, lại có vài con khỉ nhỏ chóa mắt, vác mỏ thiên lôi, cười ha hả mà nói rằng:

"Không phải cục thịt, cũng không phải trứng, ấy là một người lùn". Bầy khi la lên

một tiếng, chạy tới phủ vây Văn Thông, đứa thì níu áo, đứa thì lột mão. Văn Thông

nạt lớn lên rằng: "Không được vô lễ, mau vào thông báo: Núi Thanh Thạch động

Nhàn Âm, Kim Nhãn Mao Toại sai người đem thơ đến đây". Bầy khỉ nghe nói đều

giản ra hết, chạy vào báo Mã Linh, vượn già dạy thỉnh nói đều giãn ra hết, chạy vào

động, mời ngồi, khỉ nhỏ bưng trà pha ướng. Văn Thông liếc mắt thấy một con vượn

cái già, thì nói thầm rằng: "Vì sao thầy ta tới chổ này mà nói chuyện với loài súc

sanh như vậy". Còn đang ngẫm nghĩ thấy con vượn già hỏi rằng: "Tiên trưởng đến

đây có việc chi?" Văn Thông cúi mình đáp rằng: "Tôi mang thơ thầy tôi đến mời

Bạch Viên tiên trưởng". Vượn già hỏi: "Có phải Kim nhãn Mao Toại không?" Văn

Thông nói: "Phải". Vượn già nói: "Mao chân nhân mời con ta làm việc gì?" Văn

Thông nói: "Vì bác tôi là Tôn Bá Linh,. Bị khổn trong trận ngũ lôi, thày tôi tu hành

ít, không đủ sức cứu nên sai tôi đến thỉnh Bạch Viên tiên trưởng xem tường". Vượn

già nói: "Té ra Tôn tam ca có nạn, chân nhân của ngươi không dám xuống núi, muốn

thỉnh con ta đi cùng, tưởng cũng không nên việc, vậy có thơ trao ta xem thử". Văn

Thông lấy thơ đưa ra. Vượn già tiếp lấy xem. Thơ rằng:

Từ Yên Sơn cách biệt em trở lại núi hoang, chẳng dè vua Tề đốt hương thấu đến mới

hay Tôn Bá Linh bị hãm trong trận Ngũ lôi, nhờ có hạnh huỳnh kỳ hộ thể, mới khỏi

bị hại, song Mao Bôn bắt sao bổn mạng, mỗi ngày đều sai ngũ lôi tới đánh, qua bảy

ngày hồn phách đều tan hết, lẽ ra em phải xuống núi Vân Tịch mà thỉnh anh em

Vương Thuyền, vì ngày trước em có trộm linh đơn của người, chắc là kí vị chẳng

hòa, e khó mà thỉnh đặng, vậy xin tiên gia chịu phiền đến núi tiên cầu thỉnh anh em

Vương Thuyền lo chước giải vây, nhờ đức tái sanh, khỏi nơi nước lửa, lên cõi thiên

đường thì em đội ơn vô cùng".

Mao Toại cúi lạy

Vượn già coi rồi sa nước mắt mà nói rằng: "Té ra Tôn ân nhân có nạn, lẽ phải

đến cứu, tiên trưởng chớ lo, chờ con tôi về, sẽ sai nó xuống". Văn Thông hỏi: "Lệnh

lang đi đâu?" Vượn già nói: "Nó đi hái thuốc trong rừng chẳng bao lâu sẽ về". Còn

đang nói chuyện, ngó thấy Bạch Viên vào động, đến trước thạch sàng, lạy ra mắt

mẹ, quay lại ngó thấy Văn Thông thì mừng rỡ cười mà rằng: "Cách biệt tiên trưởng

đã lâu, nay đến có việc chi chăng?" Văn Thông tỏ hết một hồi, vượn già nói: "Có thơ

của Mao chân nhân đâu". Bạch Viên tiếp thơ coi rồi, cả kinh thấy sắc, trong bụng

dùng dằng khó tính. Vượn già nói: "Nếu tam ca con có nạn, thì con phải xuống núi

cứu người". Bạch Viên nói: "Trong trận ngũ lôi này, một mảy tôi không rõ biết làm

sao mà cứu được?" Vượn già nói: "Con phá trận không được thì phải mau tới ông

Quỷ cốc mà thương nghị". Bạch Viên nói: "Con không đi được vì lúc trước Tôn tam

ca ở Dịch châu dùng trận hỏa công, đốt Vương Tiễn thua, Kim Tử Lăng đi thỉnh

Ngụy Thiên Dân, bày trận kim sa tru tiên trận, đánh tam ca rớt xuống hầm. Khi ấy

con lãnh tờ ai biểu của vua Chiêu vương đi thỉnh quỷcốc, Quỷ cốc chẳng chịu xuống

non, con dùng kế gạt hai anh em người xuống đất Dịch Châu, mới cứu tam ca khỏi

trận, hôm nay lại mắc họa này, biểu con đi thỉnh người chắc là người không chịu

xuống". Vượn già nghe nói phừng phừng lửa giận, mắng rằng: "Đồ súc sanh bất

hiếu. Nhớ lại lúc trước ta có bệnh nặng, con tính đi ăn trộm tiên đơn, rủi bị Tôn tam

gia bắt đặng, người nghe con có lòng hiếu, tha con khỏi chết, và cho ba trái đào tiên,

đem về cứu mẹ, tuy con nơi trận kim sa trận âm hồn có công lao chút đỉnh, nay ân

nhân bị khốn, tánh mạng khó giữ, lẽ nào ngồi xem chẳng cứu, nếu con chậm trễ

không đi, ta đánh một gậy chết cho rồi để làm chi đồ phụ nghĩa" Bạch Viên thấy mẹ

đòi đánh, túng phải ra đi.