tướng, khôi trắng, giáp trắng, ngựa trắng, tay cầm trường thương, cả mình đều mặt
đồ trắng, kêu lớn rằng: "Tướng kia, thông tên đã". Chương Ngươn nạt rằng: "Ta là
tướng Tần, làm chức Chiêu thảo đô đốc, đại nguyên soái, con Chương tổng nhung
tên Chương Ngươn, thằng giặc kia, mi có phải là Điền Anh không?" Điền Anh cả
giận mắng: "Tặc tử! Đã biết oai danh ta, sao còn dám cự địch, có đâu dung mi sống
đặng". Nói dứt lời, hai tay hươi thương đâm tới, Chương Ngươn thấy thế rất mạnh,
vội vàng rước đánh; hai bên đều chỗ tài anh hùng. Đánh đến mười hiệp, Chương
Ngươn sức yếu, hai tay tê mỏi, quày ngựa thua chạy, Điền Anh rượt theo, nghĩ thầm
rằng: "Ta tuy thắng luôn vài trận, mà chưa bắt sống được một người; khi nãy nắm
được Vương Tiễn, không dè bị đứt dây nịt, nên nó chạy thoát khỏi, còn tên tiểu tặc
này liệukhông khỏi tay ta, chi bằng bắt sống nó mà lãnh công". Nghĩ rồi quất ngựa
theo, hai ngựa kề nhau. Điền Anh nạt một tiếng: "Tiểu tặc, chạy đâu". Rồi với tay
bắt sống, để ngang qua lưng ngựa; Chương Ngươn dùng thế lý ngư đả đỉnh, nhúng
mình nhảy xuống. Điền Anh cả giận nói: "Tiểu tặc, còn trông thoát khỏi nỗi gì". Hai
tay ôm Chương Ngươn giơ lên, dùng thế kim kê độc lập, phụng hoàng triển sĩ, dộng
đầu xuống đất chết tươi. Binh thua về báo với Chương Hàng, Chương Hàng nghe báo
bay hồn, khóc tâu cùng Thủy Hoàng. Thủy Hoàng ngó Tử Lăng hỏi rằng: "Quốc sư
khuyên trẫm đánh đất Lâm Tri, liệu nó không tướng anh hùng, ai dè Điền Anh mạnh
dữ, thắng luôn mấy trận, nay còn kêu đánh, biết liệu làm sao?" Tử Lăng tâu rằng:
"Bệ hạ chớ lo, Điền Anh bất quá như con gà đui kia, may mổ nhằm một hột lúa mà
thôi, chớ có tài chi giỏi, để tôi ra cùng nó giáp mặt, chắc là bắt đặng trong tay".
Thủy Hoàng khoát tay nói: "Quốc sư đi không đặng đâu, nó là trăm trận trăm thắng,
còn mình thì mỗi trận đều thua; Lữ Hoán, Ngụy Báo, Cam Mậu, Vương Tiễn,
Chương Ngươn tài nghệ lẽ đâu không bằng Quốc sư, mà còn phải chết, phải thua nơi
tay nó thay, nay Quốc sư có tài chi giỏi, dám cùng nó đối địch".
Tử Lăng nói: "Tuy tôi chẳng bằng người, song có ông Hải Triều truyền cho ít vật
bửu bối, hôm nay ra đánh chắc là ngựa tới nên công". Thủy Hoàng nói: "Nếu như
vậy thì trẫm cho đi, nhưng phải hết lòng cẩn thận". Tử Lăng lãnh chỉ, cầm gậy cỡi
nai, phát pháo ra dinh bên kia Nam Phụng vương đang đứng trước trận khiêu chiến,
xảy thấy một người đạo sĩ cầm cây gậy cỡi xông ra, bèn nạt lớn rằng: "Có phải là
Kim Tử Lăng đó chăng?" Tử Lăng cười nói: "Bần đạo lúc chưa ra khỏi trướng, thì
ngỡ mi là một tay hảo hán trên trời dưới đất chi, té ra thấy mặt không dè là một
thằng con nít miệng còn hôi sữa, có tài chi giỏi là thắng luôn tám tướng, lại còn diệu
võ giương oai, nay bần đạo khuyên mi biết ta lợi hại thì xuống ngựa chịu trói cho rồi,
nếu không nghe phải chết liền trước mắt". Điền Anh nghe nói giận lắm, hét lên
rằng: "Yêu đạo sao dám nói xàm, hãy coi ta lấy đầu ngươi". Nói dứt lời hươi thương
đâm tới. Tử Lăng dùng gậy đỡ khỏi, ngựa nai qua lại, thương trượng lăng xăng, như
rồng đua cọp giỡn. Đánh đến ba mươi hiệp. Tử Lăng mệt thở ồ ồ, liệu khó bề ngăn
đỡ, đâm một trượng thua chạy, Điền Anh giận lắm, nói: "Hay cho thằng chúa mũi
trâu, mi chạy đâu cho khỏi". Liền giục ngựa đuổi nà theo.
Tử Lăng nghe tiếng lạc ngựa reo vang, thì biết Điền Anh rượt tới, vội vàng thò
tay vào túi lấy ra một vật bửu bối, vốn của ông Hải Triều thánh nhơn, luyện rèn năm
cục đá, án theo kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, chia làm năm sắc, vàng, đỏ, trắng, đen,
xanh đặt tên là Ngũ thể thần thạch. Đá xanh liệng lên, mây khói mịt mù, làm cho
tướng giặc hôn mê, đá vàng hốt bụi bay đất, đá đỏ biến lửa rần rần, đá đen hóa nên
giông gió, đá trắng đánh tướng giết, trăm phát trăm trúng, vốn là vật báu của ông
Hải Triều, lúc ở nơi Dịch Châu chưa từng dùng đến. Khi ấy truyền cho Tử Lăng, Tử
Lăng thấy Điền Anh rượt theo rất gần, trong bụng mừng lắm, bèn lấy một cục đá
trắng cầm nơi tay, miệng niệm chơn ngôn, liệng ra một cái, như vầng mây trắng. Lúc
ấy Điền Anh cứ cong lưng rượt hoài phải, xảy gặp một vầng mây trắng, ở giữa có
một cục đá lớn bằng quả trứng gà, bay tới ngay đầu, mặtmày thất sắc, cúi đầu mà
chịu; vốn thần thạch lợi hại chẳng vừa, chớ nói Điền Anh mà thôi, dẫu kim cang
bằng đồng, la hán bằng sắc, đánh nhằm cũng phải tan nát, song Điền Anh là vị thần
tiểu hao xuống phàm số chưa phải chết, nên đá đánh nhằm xương sống, kiếng hộ
tâm bể nát, đứt bay lìa, thổ huyết chạy dài. Tử Lăng nghe nai rượt tới, lúc ấy Viên
Cang, Độc Cô Giao hai tướng thấy Nam Phụng vương thua chạy, lật đật xốc ngựa ra
đánh. Trời đã tối hai bên thâu quân trở về. Viên Cang thấy Nam Phụng vương chẳng
biết đi phương nào, lật đật kéo binh về thành, tâu cùng Tương Vương. Bên kia Kim
Tử Lăng về dinh ăn mừng. Nói về Điền Anh bị thần thạch đánh nhằm, đâu chịu
không nổi, hôn mê bất tỉnh nằm sấp trên chạy dài, xảy tới làng kia tên là Ngọc Long
thôn, nơi ấy ước hơn mười cái nhà, có một toà nhà cao lớn, trước cửa quạnh hiu,
chẳng thấy một người. Ngựa long mã dừng chân đứng đó, cứ la hí hoái, xảy đâu
trong cửa chạy ra một đứa liễu hoàn, xem thấy nói: "Con ngựa trắng nhà ai, bứt
cương chạy tới cửa này". Rồi bước lại gần, xem thấy hoảng kinh, chạy nhào, kêu lớn
rằng: "Tiểu thơ ôi! Không xong, mau mau đóng cửa". Tiểu thơ nghe nói thất kinh
hỏi: "Liễu đầu, việc chi mà kinh hãi như vậy, có chuyện gì mà không xong, nói cho
ta rõ". Liễu đầu bẩm nói: "Ngoài cửa chẳng biết ngựa ai, chạy tuôn vào đó". Tiểu
thơ nạt rằng: "Đồ hư! Thứ ngựa thuở nay không từng thấy hay sao, mà làm ra tuồng
như vậy?" Liễu hoàn nói: "Con ngựa có chở một cái thây chết, bận giáp bạc, tay cầm
thương, miệng ra máu, nằm sấp trên yên, giống là một vị tướng quan chi, bị thương
chở tới nhà ta, như vậy làm sao mà không sợ". Tiểu thơ nghe nói trong bụng nghĩ
thầm rằng: "Lúc ta ở trên núi, bái biệt Thánh mẫu về nhà, thì người có dặn dò ta đôi
ba phen rằng: "Năm nay, ngày này, thángnày, có người ấu chúa bị thương chạy tới
nhà, thì ta cùng với người ấy kết duyên chồng vợ, tưởng lại không phải việc tình cờ
đâu, để ta ra coi thế nào".
Nghĩ rồi hỏi Liễu hoàn: "Quả có thiệt con ngựa chở người chết hay không?" Liễu
hoàn nói: "Quả thiệt là người ta chết". Tiểu thơ dạy cầm đèn ra cửa ngỏ, đặng nàng
coi thử. Liễu hoàn nói: "Người chết cả mình đầy những máu, mà coi làm gì?" Tiểu
thơ nói: "Chớ sợ, chúng bây tám đứa đi theo hết cùng ta". Chúng liễu hoàn chẳng
dám trái mạng, xách lồng đèn đi trước, thẳng tới cửa ngỏ, xảy nghe ngựa ấy hí luôn
ba tiếng, liễu hoàn chỉ nói: "Con chi đó không phải ngựa sao?" Tiểu thơ bước tới,
dạy liễu hoàn giở lồng đèn giơ lên sáng giới. Tiểu thơ liếc mắt coi kỹ, thấy một viên
tướng nhỏ, giáp bạc, mao bạc, cả mình đều mặc đồ trắng, miệng ói ra máu, cặp mắt
nhắm ại, quả là một đấng nhơn tài, đường đường diện mạo, nằm sấp trên yên, trong
bụng mừng thầm, bèn dạy Thu Hương, Lạc Mai hai đứa liễu hoàn, đứa thì nắm ngựa,
đứa thì lấy thương; hai đứa liễu hoàn nghe nói thất kinh.Thu Hương nói: "Lạc Mai
chị lớn mạnh hơn thì lấy cây thương, chớ tôi cầm không nổi". Lạc Mai nói: "Thôi
nàng nắm ngựa". Thu Hương bước tới nắm hàm thiếc. Lạc Mai lại gần vói tay nắm
cây ngân thương rút xuống đưa cho tiểu thơ và nói: "Cây thương mười phần nặng
dữ". Tiểu thơ cầm đưa nơi đèn coi kỹ lại, quả thiệt một cây thương bạc, nơi cán có
khắc bảy chữ nhỏ: "Nam Phụng Vương Điền Anh chi thương. Coi rồi mừng thầm nói:
"Lời Thánh mẫu nói quả thật không sai, nay chẳng cứu người mà còn đợi ai". Bèn
dạy liễu hoàn khiêng người tướng quân nằm trên ngựa đó xuống cho nàng. Liễu
hoàn nói: "Thây người chết, khiêng xuống làm chi?" Tiểu thơ nói: "Người ấy vốn là
chú của Đương kim Hoàng Đế, con Lỗ vương tên Điền Anh, trong mình bị thương,
cũng bởi số trời khiến vậy, nay con ngựa này đem tin đến đây, ta là con của kẻ Thần
tử, chú của vua mình, mình là phận làm tôi, mà không cứu chúa, ấy có phai là tội
chết chém cả họ chăng? Hãy khiêng xuống cho mau, mặc ta liệu tính". Liễu hoàn
nói: "Người là cành vàng lá ngọc, ra trận bị thương, nếu tiểu thơ cứu người sống
đặng thì tốt, bằng không sống thì tội ấy không nhỏ đâu". Tiểu thơ giận nói: "Lũ này
muốn ta đánh sao?" Liễu hoàn sợ, áp tới khiêng Nam Phụng vương xuống ngựa, để
nằm dưới đất Tiểu thơ nói: "Tám đứa bây, bốn đứa mạnh thì khiêng điện hạ đi, còn
hai đứa xách lồng đèn, một đứa dắt ngựa, một đứa vác thương, hãy đi theo ta". Xuân
Mai nói: "Một người chết ở ngoài, khiêng đem vào trong, chắc đem ra hậu huê viên
nơi đất trống mà chôn đó". Lạc Mai nói: "Thôi chẳng cần nói nhiều lời, khiêng phứt
đi cho rảnh". Nói rồi áp lại nhau lại khiêng, kẻ khiêng đầu, người đỡ chân, dắt ngựa
cầm thương, đi tuốt vào nhà. Chúng liễu hoàn cười nói với nhau rằng: "Cô ta thấy
dượng nên dạy khiêng vào nhà". Tiểu thơ giận mắng: "Chúng bay chớ nói xàm, mau
nhẹ tay để xuống giường, cơi khôi giáp, chiến bào, để nằm sấp xuống, lấy mền đắp
lại". Rồi dạy Hạ Liên đi thỉnh phu nhân tới. Giây phút phu nhân đến nơi. Tiểu thơ
mời ngồi rồi đem lời Thánh mẫu dặn dò, tỏ cáo cho mẹ nghe: "Nay con đem thây
người vào nhà để nằm trên giường". Phu nhân nói: "Tuy lời Thánh mẫu ứng nghiệm
song chẳng biết thế nào, nếu có việc chi bất trắc, ắt là họa chẳng nhỏ đâu". Tiểu thơ
nói: "Mẫu thân chớ lo, để con coi lại sẽ biết".
Nói dứt lời bước tới nhẹ tay giở mền, coi kỹ thấy trên xương sống, có dấu thương
bằng miệng chén, sưng cao hai tấc. Tiểu thơ nói: "Dấu thương tuy nặng, con trẻ điều
trị mạnh liền". Bè dạy Xuân Mai múc một chén nước, giây phút đem vào, tiểu thơ
lấy cái hồ lô của bà Thánh mẫu cho, giở ra lấy hai hoàn thuốc: Một hoàn đỏ, một
hoàn trắng. Tiểu thơ lấy hoàn thuốc trắng, hòa vào với nước thoa nơi dấu thương, rồi
lấy hoàn đỏ hòa vào nước, đỡ dậy cạy răng cho uống. Thiệt là thuốc tiên mầu diệu,
giây phút, dấu sưng tiêu hết, thuốc uống thấu vào tam quan, thông ra cứu khiếu,
chẳng đầy nửa khắc. Nam Phụng Vương nằm trên giường nghiêng mình kêu lớn
rằng: "Hay cha chả, hay cho yêu đạo, mi dùng tà thuật mà đánh ta như vậy". Phu
nhân bước tới giở mền nói: "Thiên tuế mới mạnh, xin an nghỉ, chớ nên giận dữ".
Điền Anh nghe nói, mở mắt xem thấy một tốp con gái, ở giữa có một bà già. Nam
Phụng Vương đứng dậy hỏi rằng: "Người là người vậy, khá phân cho ta rõ? Ta nhớ
lúc ra trận đánh giặc, bị thằng yêu đạo bên Tần, dùng tà thuật đánh hôn mê bất tỉnh,
vì làm sao mà đến chỗ này, chỗ này là tên đất gì, nhà của ai hãy nói cho ta biết?"
Phu nhân nói: "Chỗ này là huyện Định Hào, làng Ngọa Long, chồng tôi là Lý Mục,
bị chết nơi Dịch Châu, sanh được một gái tên là Phù Dung". Bèn đem việc Nam
Phụng Vương nằm trên lưng ngựa, chạy tới trước phủ, Phù Dung cho thuốc, tỏ hết
mọi điều. Điền Anh nghe nói, hỏi: "Tiểu thơ sao biết tôi bị thương đến đây?" Phu
nhân nói: "Con gái tôi từ lúc nhỏ, theo bà Thánh mẫu học nghề, Thánh mẫu thấy
chồng tôi chết, cho nên sai xuống núi lại dặn rằng: Năm nay, tháng này, ngày này,
biểu con tôi phải ở nhà cứu giá, lúc đầu chẳng tin, không dè Vương gia bửu giá đến
đây, con gái tôi vâng lệnh Thánh mẫu, chẳng tỵ hiểm nguy, đem thiêntuế về nhà,
linh đơn cứu trị, may được an toàn quý thể". Điền Anh nghe nói mấy lời, chẳng khác
chiêm bao mới tỉnh, vội vàng đứng dậy, lạy bốn lạy tạ ơn tiểu thơ cứu mạng. Phu
nhân lật đật cản lại nói: "Tôi có một lời tỏ cáo, chẳng biết Vương gia khứng dung
nạp chăng?" Điền Anh nói: "Phu nhân ra ơn cứu mạng, có điều chi mà tôi chẳng
vâng nghe". Phu nhân nói: "Con gái tôi vâng lời Thánh mẫu dặn dò, năm nay sao
hồng loan chiếu mạng, nếu quý nhân thiên tuế chẳng hiềm diện mạo xấu xa, xin cho
nó gởi phận nâng khăn sửa trấp, chẳng biết thiên tuế khứng chăng?" Điền Anh nói:
"Tiểu thơ có công cứu mạng, chẳng biết lấy chi đền bồi, lại mong nhờ phu nhân
thương tưởng, dám đâu chối từ". Phu nhân cả mừng nói: "Ngày nay là ngày tốt giờ
lành, đốt đèn huê chúc, rồi theo thiên tuế tới Lâm Tri báo cừu". Điền Anh nói: "Xin
vâng lời dạy". Phu nhân hối dọn dẹp cỗ bàn, giao bôi hiệp cẩn. Chúng liễu hoàn
cười nói thầm: "Tốt thay cho nàng tiểu thơ ngàn vàng, gặp được người chồng xinh
tốt, mau mắn như vậy". Rồi ở đó một đêm động phòng huê chúc, vầy duyên loan
phụng, hiệp hòa cầm sắt. Qua ngày thứ thức dậy, tiểu thơ cùng Điền Anh cáo lạy trời
đất, tạ ơn phu nhân. Phu nhân lên Ngân An điện đòi gia tướng tới trước mặt dặn
rằng: "Ta tưởng ông bây khi trước, bị thác nơi nước Tần, nay Tiểu thơ cùng Điện hạ
nước Tề, vầy duyên phu phụ, chúng người hãy vì nước mà ra sức, một là trả ơn nước,
hai nữa bắt Vương Tiễn trả thù cho ông bay". Chúng gia tướng nghe dạy, lật đật sắm
khí giới ngựa yên, đến ngày thứ ba, đặng bảo hộ Tiểu thơ qua Lâm Tri, Phu nhân
dạy rồi, trở vào hậu đường, mẹ con gần lúc phân ly, chẳng khỏi một phen căn dặn.
Đây nói về vua Tần lên trướng, Tử Lăng tâu rằng: "Bần đạo nhờ phước lớn Bệ
hạ, đánh Điền Anh thua chạy, làm cho nó phải mất nhuệ khí, hôm nay ra trận, quyết
lấy tờ hàng của Tương Vương". Thủy Hoàng mừng nói: "Quốc sư làm thành công
đặng sớm, thiệt rất may cho trẫm". Tử Lăng từ giã xuống trướng cầm gậy cỡi nai dẫn
năm trăm binh mã, phất cờ phát pháo, xông ra khỏi dinh, có quân thám mã vào báo.
Tương Vương nghe báo, nói: "Nay không tướng giỏi, lấy ai ngăn cự, xin á phụ mở
lòng từ bi, ra phép thần thông, dẹp lui binh Tần, Trẫm cám ơn đức khôn cùng". Tôn
Tẫn bèn tâu: "Điền Anh bị nạn, song gặp kiết hóa lành, chẳng bao lâu người ắt trở
về, có tôi ở đây, nào lo chi binh Tần bá vạn". Nói chưa dứt lời, xảy có nội thị quy tâu
rằng: "Nương nương vào điện". Tương Vương nghe nói đứng dậy, Củng quốc mẫu
nói: "Thiếp ở cung Chiêu dương, nghe binh Tần xâm phạm bờ cõi, Vương thúc tổ bị
thác nơi trận, nước nhà có nạn đao binh, thiếp chẳng dám ngồi xem, tình nguyện ra
trận, giết lui binh Tần, mà trả thù cho Vương thúc tổ". Tương Vương nói: "Ngự thê
(là vợ vua) biết một, mà chẳng biết hai, chớ khi binh Tần Thủy Hoàng phá đốt Dịch
Châu, nước Yên binh hùng tướng mạnh còn không cự nổi, huống chi Kim Tử Lăng
có yêu pháp tà thuật, khó hơn có được, trẫm khuyên ngự thê nghỉ an ở trong cung thì
hay hơn, còn việc nước nhà dụng binh không làm nhọc lòng đến đàn bà đâu?" Nương
nương nghe nói tâu rằng: "Thiếp chẳng phải chẳng biết hành binh giao chiến, lúc
trước ở nơi Củng gia trang (là xóm họ Củng) cứu giá, sau lại nơi trận minh vân từng
rõ tài nghệ, chẳng phải tôi khoe miệng, có sợi chi, binh Tần đông bá vạn đi nữa, tôi
giết nó chẳng còn manh giáo, nếu Bệ hạ chẳng cho, thì tôi xin chết trước mặt Bệ hạ,
quyết chẳng nỡ ngồi xem giặc Tần". Tương Vương hoảng kinh nói: "Ngự thê không
nên gấp, để trẫm cùng á phụ liệu toan". Tôn Tẫn nói: "Bệ hạ chớ lo, bần đạo xin bảo
hãnh quốc mẫu ra trận bắt thằng yêu đạo". Tương Vương cả mừng nói: "Nếu á phụ
khứng giúp, thì trẫm cao gối chẳng lo".
Tôn Tẫn nói: "Quốc mẫu ra đánh, để tôi lén bày một trận phụ giúp nên công".
Tương Vương hỏi: "Vì sao gọi rằng lén bày, nói cho trẫm rõ". Tôn Tẫn nói: "Hễ là
hành binh bố trận, phải phân môn hộ, noi theo luật lệ, hoặc bày phương hướng, hoặc
núp trong rừng, Kim Tử Lăng vốn là học trò Hải Triều, nếu dụng phép tầm thường,
không vây nó được, nay tôi phân phát binh mã theo Quốc mẫu, đi trước giả tiếng bảo
phò ra trận, lén bày trận bát môn kim tỏa, dầu cho quỷ thần cũng không biết được,
làm thình lình ắt Tử Lăng không chỗ ngăn ngừa, trong một trận khá đặng thành
công". Tương Vương cả đẹp, Tôn Tẫn dạy Viên Cang dẫn năm trăm binh theo Quốc
mẫu ra trận, đứng hướng chánh Đông, và lấy hườn linh đơn này mà ngậm trong
miệng, hễ nghe giục trống thì đi vòng qua cửa Tây, giả dạng thâu binh, rồi dẫn binh
trở lại hướng chánh Đông đứng đó, hễ nghe pháo nổ, liền nhả linh đơn, ngăn đón Tử
Lăng chẳng cho chạy thoát, và sai Độc Cô Giao dẫn năm trăm binh, theo Quốc mẫu
giữ phía Nam, và lãnh hườn linh đơn này, ngậm vào miệng làm y như Viên Cang
một cách, mà ngăn đón Tử Lăng; còn Triển Lâm, Triển Phụng, hai người dẫn năm
trăm binh, theo phò Quốc mẫu và lãnh linh đơn của ta, cũng làm như Viên Cang, hễ
nghe trống đánh thì Triển lâm đứng phía Tây, Triển Phụng đứng phía Bắc, chớ cho
Vương Tiễn chạy thoát, còn Ngô Ứng, Ngô Khôn, Mã Ngươn, Giải Hiếu, bốn tướng
đều lãnh năm trăm binh, theo Quốc mẫu ra trận, làm y như Viên Cang, mỗi người
đều lãnh một hườn linh đơn ngậm vào miệng, Ngô Ứng thì giữ phía Đông Bắc, Ngô
Khôn giữ phía Đông Nam, Mã Ngương giữ phía Tây Nam, Giải Hiếu giữ phía Tây
Bắc. Điều khiển xong rồi, các tướng chia ra bốn phương mai phục.