Phong kiếm xuân thu

Hồi 24

Nói về phụ họ Liêm, phu nhơn cùng tiểu thơ Tú Anh vào phòng an nghĩ một

đêm, qua ngày thứ, tiểu thơ thức dậy, chài gỡ trang điểm xong rồi, vào phòng thăm

mẹ, nói: "Con nay xin bái biệt mậu thân qua Dịch Châu báo cứu". Phu nhơn nói:

"Con mới về chưa đặng bấy lâu, lẽ đâu vội bỏ mẹ mà đi cho đành? Vả chăng chú

con là Tôn Tẫn có ba cuốn thiên thơ, lục giáp linh văn, còn không hơn Vương Tiễn

được, mà còn tài cán chi dám cùng nó đối thủ". Tiểu thơ nói: "Vì sao mẹ nung chí

khí người, mà hạ cái oai phong của mình đi vậy, nội tài phép trong bụng con có sợ

chi Vương Tiễn, dẫu nó ba đầu sáu tay đi nữa, tới nơi thì con cũng bắt đặng, ấy là lời

thánh mẫu dạy bảo con đâu dám trái. Nếu mẫu thân quyết ý, chẳng có con tới Dịch

Châu trả thù, thì con xin về núi tiên, bẩm cùng Thánh mẫu rồi con ở luôn nơi đó,

phụng dưỡng người đặng cố tu tâm học đạo". Phu nhơn nói: "Nếu con vâng lời Thánh

mẫu, thì mẹ chẳng ép cầm, vậy để mẹ đi cùng con vào triều ra mắt Thánh thượng,

xin một đạo binh mã, và ít tên dõng tướng, bảo hộ vâng chịu, Phu nhơn dạy dọn cơm

mẹ con ăn uống xong rồi, viết một tờ bổn chương. Phu nhơn mặc triều phục, mẹ con

lên kiệu vào triều, vừa lúc Triệu văn vương ra chầu. Tú Anh đứng ngoài cửa triều

chờ chi. Phu nhơn vào kim giai lạy ra mắt, trao tờ bổn chương cho quan thị ngự, dâng

lên ngự án. Văn vương coi rồi hỏi: "Phu nhân có một người con gái là học trò của bá

Thánh mẫu ở núi Bạch Huệ, học tập đao mã siêu quần, thần thông quảng đại, lời ấy

có quả thiệt chăng?". Phu nhơn tâu rằng: "Thần thiếp trước mặt đâu dám nói dối".

Văn Vương hỏi: "Liêm tiểu thơ tác chừng bao lớn, tên gọi là chi?". Phu nhơn tâu

rằng: "Con gái tôi năm nay mười bốn tuổi, tên thiệt là Tú Anh, còn đang đứng trước

cửa triều hầu chỉ". Văn Vương truyền chỉ cho vào. Tú Anh vào đến thềm đá trắng,

xưng hô ba lượt, VănVương truyền chỉ đứng dậy, Tú Anh đứng dưới đơn trì. Văn

Vương xem thấy nhan sắc nhạn sa cá nép, hoa thẹn trăng nhường, rất nên yếu như

vậy sao dám ra trận, mà trong tờ bổn chương nói cũng chưa ắt thiệt, chi bằng đòi lên

điện hỏi cho rõ ràng". Bèn truyền đòi mẹ cho họ liêm lên điện, mẹ con làm lễ xong

rồi, văn Vương truyền chỉ cho ngồi. Văn Vương ngó Tú Anh mà nói rằng: "Cha, anh

nàng giúp quả nhân vị nước an bang, danh giươn bốn biển, không dè tận trung bỏ

mạng, nay nàng tuy là phận gái dõng tướng mặc dầu, song phận đàn bàm đâu làm

nên đặng việc lớn, khi nãy phu nhân có dâng bổn nói: "Nàng ở núi tiên học tập võ

nghệ tinh thông, tài phép gồm đủ, muốn đến Dịch Châu cùng Vương Tiễn đối địch,

lời ấy quả thiệt cùng chăng?". Tiểu thơ tâu rằng: "Tôi đâu dám vọng tấu: Tôi vâng

mạng thầy xuống núi quyết ý bắt Vương Tiễn trả thù, chẳng có lời chi dám dối, đến

chừng ra trận sẽ thấy". Văn Vương nghe nói cả lòng vui đẹp mà rằng: "Tiểu thơ quả

nhiên có tài, thì nước trẫm càng thêm rạng tiếng". Rồi hỏi phu nhân vậy chớ tiểu thơ

có hứa gả nơi nào chưa? Phu nhân tâu rằng: "Cách ít năm trước, có Nam quận vương

là Tôn Tẫn, ở bên Sơn đông, đất Lâm Tri đem dây Ngọc đái đến làm lễ sinh nói cưới

cho nhau người là Tôn Yên làm vợ, song chưa động phòng huê chúc". Văn Vương

nói: "Trẫm có nghe Tôn Yên là tay hảo hán bên đất Dich Châu, vốn cháu ngoại

Chiêu Vương nước Yên, dòng dõi công thần, cành vàng lá ngọc, tài mạo thứ nhất,

thiệt xứng đôi giai ngẫu, để dẹp yên rồi, về trao trẫm sẽ làm chủ hôn, mà gả cho

Tôn Yên trẫm nay tuổi cao tác lớn, gái trái chẳng có. Vậy trẫm phong cho nàng công

chúa quý nhơn, nghĩa nữ hoàng cô (là con nuôi) gia phong chức Tảo tây hầu, ăn

lương ba ngàn thạch, bạc ròng ba ngàn lượng". Liền lạy nội thị mở kho tàng bửu, lấy

một cái kim bài, một cái áo mảng bào, một sợi ngọc đái, một cái mão tử kim khôi,

một bộ giáp vàng, một con ngựa cửu điểm đào huê mà ban cho Vương cô, và truyền

chỉ cho Quan lộc bày yến thết đãi, các quan cùng mẹ con phu nhân vào tiệc, giây

phút tiệc tan, Văn Vương hỏi Tú Anh rằng: "Nay con qua Dịch Châu, muốn dùng bao

nhiêu người ngựa?". Tiểu thơ nói: "Ba ngàn thì đủ, đến mai ngày hoàng đạo rất tốt,

con xin khởi binh". Văn Vương truyền chỉ chọn ba ngàn quân ngự lâm, cấp cho

Vương cô, và thương tướng, khôi giáp khí giới hẳn hoi đặng sáng ngày đưa hoàng cô

khởi hành, dạy rồi, lui triều vào cung mẹ con tiểu thơ lạy tạ. Phu nhơn đỡ dậy nói:

"Nay mang ơn Thánh thượng, phong cho quý nhơn hoàng cô và chức Tảo tây hầu,

binh quyền chẳng nhỏ, khôi giáp ngựa yên đủ hết, còn binh khí dùng vật chi bây

giờ?". Tiểu thơ nói: "Lúc con xuống núi, nhờ Thánh mẫu thường cho con một binh

khí, tên là tu nhung đạo, còn để ngoài huê viên ta, để con ra lấy đem vào". Tiểu thơ

nói rồi, tuốt ra huê viên, tay cầm cây đao vàng sáng giới, lạnh lùng chói mắt, quả

thiệt một cây đao báu. Tiểu thơ nói: "Để con nai nịt rồi đi thử cho mẹ coi". Nói dứt

lời, bước xuống lột hết trâm kẹp giắt trên đầu, rồi đội mão lót trong, thay áo gấm

chẹt tay, ngoài mặc giáp vàng, đội mão phụng tứ kim khỏi, nai nịt hăn hòi cúi đầu

dòm xuống, vùng tức cười. Liễu Hoàn nói: "Tiểu thơ ăn mặc, đem ra trở nên một

viên tướng rất đẹp sao lại cười chí vậy? '. Tiểu thơ nói: "Bây coi khúc trên của ta thì

giống là tướng ra trận, mà chân hãy còn mang dép thêu đi, đi sao cho tiện, bây hãy

lấy đôi giày trận cho ta". Tiểu thơ cởi dép thêu, chân mang giày trận, nai nịt xong rồi

tay cầm tú nhung đao, bước lên thềm hỏi mẹ rằng: "Con nai nịt coi thế nào?". Phu

nhân ngó thấy đẹp lòng nói: "Con là một đứa con gái nhỏ, nai nịt rồi hóa ra một viên

tướng đường đường, tề chỉnh, thôi con hãy ra trước sân, thi diễn cho mẹ coi". Tiểu

thơ quày quả trở xuống, cầm đao đánh làm bốn cửa, trên ba, dưới bốn, bên tả năm,

bên hữu sáu; đem hết đường huê đao của bá thánh mẫu dạy truyền múa như rồng

giỡn, chẳng khác phượng xòe, ban đầu còn thấy bóng, đến sau chẳng thấy hình, phu

nhân khen ngợi chẳng cùng, nói: "Quả thiệt tiên truyền, sánh cùng chúng khác nhau

xa lắm, thôi con vào thay khôi giáp nghỉ ngơi đặng sáng ngày còn đi". Tiểu thơ từ

biệt mẹ trở về tư phòng.

Nói về phu nhân đòi tên gia tướng làm đầu dạy rằng: "Ngươi phải tuyển lựa năm

trăm gia tướng trong nhà, đến đây nghe lệnh". Tên gia tướng đầu, vâng mạng giây

phút chọn rồi, dẫn vào soái phủ, dưới nguyệt đài lại làm lễ, đứng phân hai hàng,

vòng tay nghe lệnh. Phu nhân nói: "Chúng ngươi thường mang ơn thái lão gia nuôi

dưỡng, hôm nay họ Liêm ta bất hạnh, cha con đều thác, duy còn một mình cô bay đó

mà thôi, nay muốn lãnh binh qua Dịch Châu phụ giúp, ta e nó là phận con gái, chưa

từng quen việc chinh chiến, cậy nhờ bọn ngươi hết lòng bảo hộ, sách có chữ lòng hết

dạ". Chúng tướng đáp rằng: "Bọn tôi đâu dám chẳng hết lòng, ra sức bảo hộ cô tôi,

qua Dịch Châu giao chiến". Phu nhân cả mừng dạy tên gia tướng đầu, cấp thường

bạc cho mỗi người, và cấp ngựa yên, khí giới đều đủ, đặng ngày mai khởi trình.

Chúng tướng cúi đầu tạ tiểu thơ. Qua ngày thứ, tiểu thơ thức dậy, trang điểm dồi

mài, nai nịt tề chỉnh, vào triều lạy tạ vua từ biệt. Văn Vương cả mừng bổn thân rót

ba chung ngự tửu, bưng trao cho Vương cô. Tiểu thơ quỳ xuống uống rồi, lạy tạ ơn,

trở ra khỏi triều thẳng về Tây phủ; phu nhân đã bày tiệc sẵn, tiểu thơ về dến phủ,

xuống yên vào hậu đường, lạy từ mẫu thân. Phu nhân xem thấy sa nước mắt lấy tay

đỡ dậy, lòng rất thảm thương, nói: "Con ôi! Con có đi phải giữ gìn cho lắm, hai bên

giao chiến, chẳng phải việc chơi đâu, ấy là tánh mạng rất nên quan hệ, chừng đến

Dịch Châu, phải gởi thơ về cho sớm, kẻo lòng mẹ đợi trông, mấy lời con phải ghi

nhớ vào lòng còn các việc khác không hơi nào mà dặn hết". Tiểu thơ lau nước mắt

nói: "Xin mẹ chớ lo, con trẻ biết giữ gìn lấy thân". Phu nhân dạy Liễu Hoàn rót rượu,

kỉnh tiểu thơ một chén cho tráng oai phuông. Tiểu thơ quỳ xuống. Uống rồi lạy tạ

phu nhân thót lên ngựa, dẫn chúng tướng ra khỏi phủ, Liêm phu nhân khóc ngất một

hồi rồi trở về phòng.

Nói về tiểu thơ lãnh năm trăm gia tướng đi đến giáo đường, điểm tể nhơn nhã, tề

cờ phát pháo, truyền lệnh kéo binh. Đi dọc đường, phép luật trang nghiêm, đến đâu

một mảy lông chẳng hề xâm phạm, đi vài ngày, tới phía Tây nam thành Dịch Châu,

quan tiền đạo bảo rằng: "Trước mặt đây, là rừng Giả Trư, núi Thê Bàn, cách thành

Dịch Châu ba chục dặm, xin tiễu thơ định liệu". Tiểu thơ hỏi: "Từ cửa núi phía Tây

qua cửa bên Đông ước đặng bao xa. Gia tướng bẩm rằng: "Từ Tây qua Đông ước tới

mười dặm". Tiểu thư truyền lệnh dừng binh, phát ba tiếng pháo an dinh lập trại,

dựng trướng huỳnh la, tiểu thơ dạy quan kỳ bài lấy một trăm năm chục vải trắng,

đem vào trướng mau. Quan kỳ bái liền khiêng một trăm thùng cấp phát cho năm

dinh, ba quân lớn nhỏ chẳng luận quan Lam Kỳ, Đốc trận, Đội trưởng, lớn nhỏ mỗi

người đều may một cái áo tang, một cái mão viên phó tướng cùng kẻ có chức phận

trong năm dinh, mỗi viên may một sợi dây đai, còn năm chục thùng nữa thì phát cho

mấy viên phó tướng cùng kẻ có chức phận trong năm dinh, mỗi dinh may một áo

tang, một sợi dây tang, dùng bạch kỳ, bạch hiệu, cả dinh đều treo mặc đồ khó, nếu

ai trái lệnh cứ quân pháp thi hành. Quan kỳ bái lãnh lệnh, đem vải chia phát các

dinh, làm theo thức lệ.

Nói về nhà Tần, ngày kia Thủy Hoàng lên trướng, nhóm đủ các quan văn võ hai

bên, Thủy Hoàng hỏi Tử Lăng rằng: "Trẫm từ lúc dấy binh, diệt trừ sáu nước, đến

Dịch Châu chẳng dè gặp Tôn Tẫn, bị thua nó luôn mấy trận, hao binh tổn mã của

trẫm rất nhiều, tuy rằng tản thiên tiễn đâm chét Tôn Tẫn rồi, song cũng chưa tưởng

giả thiệt, chẳng biết bao giờ bình đặng Dịch Châu, dục dặc lâu ngày, hao phí tiền

lương, chi bằng rút binh về nước, sau sẽ chinh phạt". Tử Lăng tâu rằng: "Diệt trừ sáu

nước đó, nguyên vì ý trời đã định. Tôn Tẫn bất quá nghịch trời làm bậy, nay bị Điện

tây hầu bắn chết, đem tôi xem thiên tượng, chẳng thấy sao bổn mạng Tôn Tẫn, chắc

chết chẳng sai, nếu Dịch Châu không có người đó, thì phú Yên Sơn sức dễ như thổi

lửa. (Nguyên Tử Lăng xưng rằng: Có tài quan tinh vọng đẩu, nào hay Tôn Tẫn lại

biết phép dời sao, mà che mất vì sao bổn mạng của mình, Tử Lăng coi không thấu

đặng).

Lúc ấy Vương Tiễn bước ra quỳ tâu rằng: "Trong dinh Tôn Tẫn mặc đồ tang chế,

một ngày khóc ba lần, rõ chắc Tôn Tẫn chết thiệt, tôi thăm nghe đến giờ tỵ, tôi xin

ra giựt thây, đem về nhà mà trả thù một gậy, dẫu có ngàn binh muôn ngựa cũng trối

kệ, tôi giết nó chẳng còn một đứa, liệu trong dinh nó đâu có người cao danh tướng,

nội ngày nay thì Dịch Châu ắt lấy được như chơi". Thủy Hoàng nghe tấu, lòng rất vui

mừng nói: "Cũng nhờ hai vị lập công". Vua tôi còn đang bàn luận, bỗng có quân

thám thính vào báo rằng: "Chẳng biết một đạo binh ở đâu kéo tới núi Thê Bàn, rừng

Giả Trư nổi pháo anh dinh, nên tôi phải vào báo". Vương Tiễn nghe nói tâu rằng:

"Xin bệ hạ chớ lo, để tôi sai tướng đến núi Tây Sơn thăm nghe cho minh bạch".

Vương Tiễn bèn lui về dinh, sai vương Bôn đến đó xem coi. Vương Bôn lãnh lệnh đề

đao lên ngựa, dẫn một trăm quân phất cờ nổi pháo, tuốt đến cửa núi Sơn Tây, cách

dinh chẳng xa, xem thấy trong dinh ròng những bạch kỳ, bạch hiệu, ba quân đều

mặc đồ trắng, trong lòng sanh nghi, chẳng biết binh mã xứ nào mà đến, đang lúc coi

ngó, xảy có quân giữ cửa dinh. Triệu xem thấy, nạt lớn rằng: "Đây là chỗ gì? Mà mi

dám đứng đó dòm ngó, sao chẳng đi đi, ta bắn tên xuống chết bây giờ". Vương Bôn

nghe nói, dừng ngựa hươi đao, chỉ quân cửa mà nói rằng: "Bọn ngươi là binh mã xứ

nào, mà dám đóng dinh trại ở đây, mau mời chúa tướng bây ra cho ta hỏi". Quân vào

báo nói: "Có binh Tần tới thăm nghe tin tức, xin mời tiểu thơ ra nói chuyện". Tiểu

thơ tryền lệnh quân binh lớn nhỏ, sắm sửa nhổ dinh, đến cửa tây thành Dịch Châu hạ

trại. Truyền lệnh rồi, mặc giáp đội mão, đề đao lên ngựa, dẫn tám viên phó tướng

và năm trăm gia dinh, phát pháo phất cờ xông ra cửa dinh. Vương Bôn nghe tiếng

pháo nổ, biết là tướng giặc ra trận, thấy hai cây cờ trắng, tám viên phó tướng, năm

trăm gia đình, phò một vị thiếu niên nữ tướng, lịch sự vô cùng:

Mang giáp liên hườn dậm thủy tinh,

Mão vàngbốn phụng chói nên kinh,

Lưng eo, mặt trắng ai bì kịp.

Miệng nhỏ môi son quả rất xinh,

Giày đóng bông quỳ đi dưới cẳng,

Quần màu hoa liễu mặc trong mình,

Nhắm coi niên kỳ vừa hai bảy,

Thiệt gái tướng quân đáng chủ binh.

Vương Bôn ngồi trên ngựa khen thầm rằng: "Cha chả, con thiếu niên nữ tướng

này làm sao mà mặt mày tươi tốt, quốc sắc thiên hương, nếu ta bắt được nó đem về

dinh, thì tâu cùng Tần vương cho ta kết làm chồng vợ, mới phỉ lòng ao ước, song

chẳng biết nó là con gái nhà ai, để ta hỏi coi cho biết. Bèn hươi đao chi tiểu thơ mà

nạt rằng: "Nữ tướng kia! Hãy xưng tên". Xem thấy trước mặt một viên tướng nhỏ,

mặc giáp vảy rồng, cỡi ngựa hồng, tay cầm kim bối đao, coi rồi hươi đao chỉ lại hỏi

rằng: "Thằng mặc đồ đỏ kia! Mi muốn hỏi tên Hoàng cô hay sao? Hãy lóng tai mà

nghe cho rõ, ta là con gái Liêm nguyên soái, tướng của Văn Vương nước Tirệu, sắc

phong Nghĩa nữ Hoàng cô, chức Tảo Tây hầu, cô mi đây họ Liêm tên Tú Anh, vâng

chỉ lãnh binh tới DịchChâu trợ chiến". Vương Bôn nghĩ thầm rằng: "Vốn là binh mã

thành Hàn Đang lúc ta ở Giới Bài nước Triệu, nghe rằng: "Nơi Tây phủ, có một đứa

con gái, bị gió bay mất, khi con này đây chăng!" tiểu thơ nói: "Tướng kia mi họ tên

ta, sao không xưng tên mi ta rõ? '. Vương Bôn cười rằng: "Tiểu thơ muốn biết tên tôi,

tôi chẳng phải người nào lạ đâu, vốn con nuôi Điện Tây hầu, họ Vương tên Bôn".

Tiểu thơ hỏi: "Vậy mi có phải là tướng của anh ta ở Giới Bài nước Triệu, làm chức

Tiên hành quan, là Vương Bôn chăng?". Vương Bôn gật đầu nói: "Phải". Tiểu thơ

giận lắm mắng rằng: "Đồ phản tặc, mi chẳng biết hết trung dân nợ nước, lại đầu

thuận Vương Tiễn chịu làm con nuôi mà hại anh ta thác, hôm nay gặp ta, sao chẳng

xuống ngựa chịu trói cho rồi, mà trở lại cật hỏi ta, tình thiệt khó dung". Nói dứt lời

giục cương xông ra trước trận, hươi tù nhưng đao lẹ như chớp, nhắm đầu Vương Bôn

chém sả, Vương Bôn đỡ khỏi, cười nói: "Tiểu thơ hãy dừng tay, chẳng biết thuận trời

thì còn, nghịch trời phải mất, đất Tây đại Tần vương ứng vận đương hưng, gồm thâu

sáu nước, thành Dịch Châu này, cha con họ Tôn đều bị chết sạch duy còn sót một

mình Tôn Tẫn đó mà thôi nay đã bị tản thiên tiễn giết rồi, trước mắt rõ thấy nước

mất nhà hư, sớm tối đây chẳng còn, nàng có giúp nó cũng tốn công vô ích, chi bằng

y theo ta, là lời như vàng đá, nàng hãy xuống ngựa cùng ta vào dinh quy thuận chúa

ta, nàng là con nuôi Văn Vương, còn ta là nghĩa tử tây hầu, của nhà xứng đáng,

tướng mạo vừa đôi, đặng cùng ta kết nên chồng vợ, vầy nghĩa phụng loan, thì được

chồng sang vợ quý, chẳng biết ý tiểu thơ thế nào?". Tiểu thơ nghe nói mày liễu dựng

lên, mắt hạnh tròn vo, mắng rằng: "Đồ phản tặc, sao dám buông lời ô uế". Nói rồi

tay hươi đao nhắm đầu Vương Bôn chém xuống. Vương Bôn rước đánh đánh đến hai

mươi hiệp phép giết nó cho xong hơn. Nghĩ rồi đâm bậy một dao bỏ chạy. Vương

Bôn rượt theo. Tiểu thơ mừng thầm, lật đật lấy ra một cái, kêu là tu tiên bài, gõ luôn

ba tiếng lớn, xem thấy cả trời mây đen cuồn cuồn, Tiểu thơ kêu lớn rằng: "Cầu tử!

Chớ chạy, coi thiên binh ta bắt mi". Vương Bôn đang rượt nghe nói thiên binh liền

quay đầu thấy giữa thanh không một đội thần binh khôi giáp rỡ ràng, đao thương

nhấp nháng đều những huỳnh cân lực sĩ áp lại vây đánh, làm cho Vương Bôn hồn

phách đều bay, té nhào xuống ngựa. Tiểu thơ quày ngựa hươi đao chặt làm hai khúc,

rồi đốc tám tên phó tướng cùng gia đình, dẫn ba ngàn quân ngự lâm hai khúc, rồi

đốc tám tên phó tướng cùng gia đình, dẫn ba ngàn quân ngự lâm rượt giết binh Tần,

như gió thổi lá bay, tợ mưa tuôn hoa rụng, rượt qua khỏi núi bên đông, xem thấy dinh

Yên treo đồ tang khó, văng vẳng nghe tiếng khóc, tiểu thơ nghĩ thầm rằng: "Có khi

tam thúc mình quả bị tản thiên tiễn bắn chết rồi". Bèn truyền lịnh nổ pháo an dinh,

Tiểu thơ ngầm nghĩ rằng: "Tuy tam thúc mình đã chết, song cũng có người quyền

chưởng ba quân, chi bằng ta tới dinh người coi cho minh bạch, rồi sau đó ra vào

thành ra mắt tổ mẫu cũng chẳng muộn gì". Nghĩ rồi cởi giáp, mình mặc đồ trắng,

dẫn vài tên gia tướng tới trước cửa dinh, kêu lớn rằng: "Bây hãy vào báo cho Chúa

soái hay, con gái Tây phủ Liêm tướng quân là Tú Anh tiểu thơ, đem binh đến trợ

chiến cùng họ Tôn có nghĩa hôn thân (là nghĩa sui gia) xin vào yết kiến". Quân vào

báo, Tôn Tẫn nghe báo cả mừng nói: "Té ra cháu dâu ta đến đó", liền dạy mở cửa

rước vào, quân nhân ra cửa, quỳ xuống thưa rằng: "Nam quân vương dạy thỉnh quý

nhơn vào". Tiểu thơ nghe nói hồ nghi nghĩ thầm rằng: "Chú ta là Nam quân vương

đã chết rồi, vì sao lại có Nam quân vương nào nữa, thôi ta hãy vào trong thì rõ".

Giây phút vào đến thanh sa đại trướng, ngước mặt xem thấy, ngồi trên trướng một vị

vương gia, mặc áo bào xanh, đi giày da cá, bên mình có để hai cậy gậy trầm hương,

thiệt rõ là Nam quận vương Tôn Tẫn. Tiểu thơ xem thấy nghiêng mình cúi lạy thưa

rằng: "Tam thúc công ơ ûtrên, cháu dâu là Liêm Tú Anh xin ra mắt". Tôn Tẫn nói:

"Cháu đến đây có việc chi chăng?". Tiểu thơ bèn đem việc lão mẫu sai xuống núi,

và Văn Vương phong làn nghĩa nữ hoàng, cô kiêm chức Tảo tây hầu lãnh binh đến

đây giữa đường gặp giết Vương Bôn mà thuật kết lại. Tôn Tẫn vui mừng chẳng xiết,

nói: "Nếu cháu đến đây thì có lo chi Vương Tiễn chẳng chết". Tiểu thơ nói: "Vậy

chớ trong dinh Tam thúc, vì cớ sao mà cư tang đái hiếu như vậy?". Tôn Tẫn nói:

"Chú bị tản thiên tiễn hại chết, may nhờ Mao Toại cứu sống, nhơn đó mai danh ẩn

tích làm kế khóc tang, đặng bắt Vương Tiễn, chẳng dè nay cháu đem binh đến giúp,

thì ắt có ngày việc lớn thành công". Bèn dạy gia tướng đưa quý nhân vào thành, ra

mắt Tổ mẫu. Tiểu thơ từ biệt ra khỏi dinh, lên ngựa cửu điểm đào huê, chúng tướng

phò hộ vào thành, đưa đến phủ Đô úy ra mắt Yên Đơn công chúa, cùng hai vị Cao

Lý phu nhơn.

Nói về binh Tần thua chạy về dinh, vào báo cùng Vương Tiễn. Vương Tiễn nghe

báo cả kinh, kêu luôn vài tiếng, khóc rống lên rằng: "Tiếc thay! Ta ở Giới Bài nhìn

con làm nuôi, có lòng trông bầu bạn trọn đời, chẳng dè ngày nay tử vu phi mạng, ta

nguyện sẽ bắt tiện tỳ chặt làm muôn khúc, mới hết nư giận".

Nói về Tôn Tẫn lên trướng, quân giữ cửa báo nói: "Có Tôn tướng quân hầu

lýnh". Tôn Tẫn cho vào, Tôn Yên vào lạy ra mắt, rồi bẩm rằng: "Cháu vâng mạng

tạo tác binh xa ba trăm cái, nay đã hoàn thành tâu cung Chiêu Vương rằng: "Đến

mùng ba tháng 10 là ngày huỳnh đạo, thì đệ linh cữu cha anh cùng cháu ta chôn nới

túc Tức Mặc, xin cậy người cho hai mươi bốn tên thầy chùa, hai mươi bốn tên đạo sĩ

đưa lýnh cữu, và xin thánh thượng dẫn văn võ trong triều đưa ra một đỗi, rồi cháu về

phủ bẩm cùng Tổ mẫu và Mẫu thân hay rằng: "Ngày mồng ba tháng10 thì tống táng,

phải truyền cho gia đình bất kỳ trai gái, lớn nhỏ đều mặc đồ trắng để tang, ngồi kiệu

trắng, sắm sanh lễ vật sẵn sàng, chẳng đặng chậm trễ". Tôn Yên cỡi ngựa vào thành,

tâu cùng Chiêu Vương và vào bẩm Tổ mẫu đến ngày mồng 3 tháng 10 thì tống táng

linh cữu.