hưu-ni Dhammananda (Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh) đã du học tại Ấn Độ và Canada. Bà đã trải qua 32 năm dạy học tại Khoa Triết Học & Tôn Giáo ở trường đại học nổi tiếng Thammasat, Thái Lan. Bà đã ly dị, có ba con trai đã trưởng thành và ba cháu nội.
CHATSUMARN KABILSINGH:
Cuộc đời bà đã chuyển hướng năm 2000 khi bà thọ nhận Bồ-tát Giới tại Phổ Quang Sơn ở Đài Loan. Năm sau đó, 2001, bà đã thọ nhận giới sa-di ni tại Tích Lan. Năm 2003, bà thọ giới tỳ-khưu ni cũng tại Tích Lan.
Chatsumarn Kabilsingh là con gái của Voramai Kabilsingh. Bà là người tranh đấu tích cực cho nữ quyền. Bà dạy thiền và thường tổ chức các khoá tu dành riêng cho nữ giới tại Thái Lan.
°
° °
Mẹ tôi xuất gia làm nữ tu (mae chi) cách đây ba mươi sáu năm, lúc tôi được mười tuổi. Bà đã biến nhà chúng tôi thành một ngôi chùa. Dần dần các nữ tu khác đến ở với bà. Đến cuối năm đầu tiên, chúng tôi có độ hai mươi người. Họ đắp y màu vàng nhạt.
Quyết định trở thành nữ tu của mẹ tôi là đỉnh điểm của nhiều yếu tố. Khi cha tôi còn là một dân biểu, mẹ tôi thường đi theo ông. Bà là ký giả. Khi đi theo ông để tường thuật về các sinh hoạt ở thôn quê, bà đã thấy nhiều trẻ em nghèo. Chúng là tương lai của đất nước, nhưng lại không được ai giúp đỡ gì cả. Bà quyết định thành lập một viện mồ côi. Bà cũng thích hành thiền. Bà đã đạt được một tầng thiền cao nào đó. Bà tin rằng nếu trở thành người tu, bà có thể giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu hơn.
Tôi còn quá trẻ để thích hay không thích việc mẹ tôi trở thành nữ tu và việc biến nhà thành chùa. Nhưng tôi nhớ lại cảm giác khó chịu khi mẹ đến trường tôi học vì tôi không biết phải giải thích chuyện này với các bạn học như thế nào. Mẹ tôi luôn là người mà lời nói của bà trở thành luật lệ trong nhà và chúng tôi chỉ việc làm theo bất cứ điều gì bà muốn. Tôi đã tham gia vào việc tụng kinh và tất cả mọi hoạt động trong chùa. Tôi đã lớn lên trong một hoàn cảnh như thế.
Khi chúng tôi dọn đến nơi này, mẹ tôi mở trường và chị tôi phụ giúp bà. Đó là ngày mà trường học mở ra cho công chúng. Lúc đầu chúng tôi có rất ít học trò, độ ba mươi em. Bây giờ chúng tôi có bốn trăm em. Khi học sinh nghỉ hè, chúng tôi dành nơi này cho phụ nữ đến tu thiền.
Chúng tôi đã từng có một cô nhi viện. Có năm người chúng tôi phải chăm sóc cho tám mươi người, vừa trẻ em vừa nữ tu. Sau ba mươi lăm năm chúng tôi đang bước vào thời kỳ suy thoái, vì mẹ tôi trở nên già yếu. Bà từng rất tích cực hoạt động, nhưng cách đây ba năm bà đã ngưng tất cả mọi hoạt động bà đã từng tham gia. Trong suốt ba mươi hai năm, mỗi tháng bà đều xuất bản một tờ nguyệt san. Năm ngoái, bà đã ngã bệnh và không còn ngồi dậy nổi nữa. Cô nhi viện đã đóng cửa cách đây mười năm. Vì nó đã trở nên một gánh nặng cho mẹ tôi, trong khi tôi chưa sẵn sàng để thay thế cho bà.
Khi còn hoạt động tích cực, mẹ tôi vừa là giám đốc điều hành vừa là cố vấn cho trường học và cho cô nhi viện. Còn các tu nữ thì cũng vừa dạy học vừa chăm sóc cho các em mồ côi. Chúng tôi cũng tự trồng trọt lấy. Một khu đất rộng của chùa được dùng để trồng lúa và chúng tôi trồng đủ lúa cho nhu cầu của mình. Tôi đang suy tư về sự suy thoái của chùa. Chúng tôi đã làm gì sai? Đó là lý do tại sao tôi quan tâm đến việc tổ chức các khóa tu thiền, việc tu tập để hiểu Pháp học và Pháp hành hơn.
Mẹ tôi giống như một nhà lãnh đạo tâm linh, nhưng đã đi quá nhanh đến nỗi bà bỏ bạn đạo lại phía sau khá xa. Ít người hiểu bà đang làm gì. Họ làm việc, lao động chung với bà nhưng không cùng chung chia sẻ được tâm và trí. Đây là điều khiếm khuyết mà tôi thấy được trong tổ chức này. Chúng tôi phải làm việc cật lực chung với nhau, bất cứ tôi làm điều gì thì các đệ tử của tôi phải hiểu rõ điều đó và cùng làm với tôi.
Đã nhiều lần tôi có cảm giác mình phải trở thành nữ tu. Đến lúc đó, tôi phải rất chắc chắn về điều này. Một khi được xuất gia tôi sẽ không hoàn tục, đó phải là nguyện ước của cả đời. Tôi không thể thối lui vì tôi phải làm gương. Là người tu sĩ thì phải làm gương tốt, nếu không thì thà đừng xuất gia ngay từ đầu. Tôi đang đợi đúng lúc khi mà cơ bản đời sống tôi đã đủ vững chắc, khi tôi có đủ tài chánh và địa vị xã hội. Tôi cảm thấy đời tôi giống như một tam giác. Tôi cũng muốn các con tôi đủ sức tự lập. Chồng tôi đã biết điều đó ngay từ đầu. Khi ông hỏi cưới tôi, tôi đã nói rằng ước nguyện của tôi là trở thành nữ tu.
Chúng tôi đã có cơ sở ở đây và các cư sĩ lo việc ăn uống, phục vụ cho chúng tôi. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng. Khóa thiền đầu tiên có độ một trăm lẽ tám người. Không được thành công so với những gì tôi dự đoán, nhưng nhiều thiền sinh rất hoan hỷ với khoá tu. Nhiều người đã đạt được điều gì đó. Dường như sau khoá tu, họ trở nên tự tin và an lạc hơn, thật cũng đáng công. Trong khóa thiền đầu tiên tôi để ra ba ngày khác nhau: ngày đầu dành cho sự buông xả, ngày thứ nhì để xây dựng tâm từ và ngày cuối cùng là học cách tha thứ.
Điều mà tôi hướng dẫn rất căn bản nên tôi chưa cần đi vào chi tiết. Chúng tôi làm hai việc cùng một lúc: hướng dẫn các thiền sinh và để họ tự tu. Chúng tôi sẽ có các cuộc họp nhóm, khá thường xuyên để rèn luyện các thiền sinh, để họ có thể trở thành các giảng viên. Lúc đó họ có thể dạy trong khu vực của họ, trong khắp nước.
Chúng tôi muốn nhóm lên những ngọn lửa khắp đó đây, và hy vọng nó sẽ tạo sức mạnh cho nữ giới. Khóa học ở đây là làm thế nào để trở nên một người Phật tử tốt có hiểu biết về pháp học và pháp hành. Các thiền sinh sẽ trở thành những hành giả thực hành Giáo Pháp giỏi với một chút nữ tính. Tôi cũng hy vọng là họ sẽ tham gia vào các công tác xã hội. Khóa tu là rèn luyện để hiểu biết. Chúng ta phải biết vấn đề của mình và khổ đau mà ta đã vô tình gây cho kẻ khác. Thường thì chúng ta chỉ biết riêng phần của mình, vì thế chúng tôi cố gắng giúp các thiền sinh tự biết mình tốt hơn và tự cải thiện ngỏ hầu phục vụ xã hội tốt hơn. Không phải chỉ cho bản thân chúng ta; khóa học này giúp chúng ta phục vụ người khác tốt hơn.