Một sáng tháng năm, trong lúc mặt trời lên cao trên bầu trời xanh, thì bà ẩn cư ở Tour-Roland nghe thấy tiếng bánh xe, tiếng ngựa, tiếng sắt thép ở quảng trường Grève. Bà buộc tóc trùm tai để khỏi phải nghe. Bà ngắm nhìn cái vật mà bà tôn thờ từ mười lăm năm nay, chiếc giày nhỏ này là cả vũ trụ của bà.
Sáng đó, hình như nỗi đau dội lên hơn thường lệ. Từ bên ngoài, người ta nghe bà than thở, tiếng to, đều đều, rất não lòng:
- ôi, con gái của ta! Con gái của ta! Đứa con tội nghiệp của mẹ! Mẹ sẽ không được trông thấy con nữa sao? Thế là hết sao? Với mẹ, sự việc cứ như mới xảy ra hôm qua. Trời ơi! ông đã lấy con tôi đi quá nhanh. Thà ông đừng cho nó cho tôi. Đầu gối tôi sầy ra sau mười lăm năm cầu nguyện. Như thế chưa đủ sao? Hãy trả nó cho tôi một ngày, một giờ, một phút. Lạy Chúa!
Tôi muốn con tôi. A! Mười lăm năm. Bây giờ chắc nó lớn lắm rồi.
Giữa lúc đó, những tiếng trẻ con tươi mát, trong trẻo, vui vẻ, bay qua cửa sổ xà lim. Mỗi khi trông thấy hay nghe thấy trẻ con là người mẹ tội nghiệp vội chạy lẫn vào góc tối nhất của cái nhà mồ của bà. Có thể nói bà rúc đầu vào đá để khỏi phải nghe tiếng chúng. Lần này, trái lại, bà đứng lên, háo hức nghe. Một đứa trẻ vừa nói:
- Hôm nay người ta sắp treo cổ một cô gái Ai Cập.
Bà chạy lại cửa sổ nhỏ. Nhóm trẻ cười cợt đã đi xa. Bà ẩn cư đưa mắt tìm một người đi ngang để hỏi. Bà nhìn tứ phía. Một linh mục đi đến. Thỉnh thoảng ông nhìn về phía giá treo cổ.
Cái nhìn dữ tợn, u uất. Bà nhận ra phó giám mục.
- Trình cha, người ta sắp treo cổ ai đấy?
- Ta không biết.
- Lũ trẻ vừa nói đó là một cô gái Ai Cập.
- Tôi nghĩ là phải.
Tức thì bà già phá lên cười..Phó giám mục nói:
- Bà chị ơi, bà căm thù những người đàn bà Ai Cập lắm sao?
- Vâng, tôi căm thù chúng. Chúng là những kẻ ăn cắp trẻ con, chúng đã đánh cắp bé gái của tôi, đứa con duy nhất của tôi.
Linh mục nhìn bà. Trông bà đến sợ.
Bà nói tiếp:
- Có một đứa tôi đặc biệt căm thù. Tôi nguyền rủa nó. Nó là một đứa con gái bằng tuổi con tôi bây giờ.
- Này bà chị, chính nó là đứa con gái bà sắp được thấy bị chết đấy.
Đầu linh mục cúi gục xuống ngực. ông chậm chạp đi xa.
Bà ẩn cư vặn tay, vui mừng Tuy nhiên, Phoebus không chết. Những người như ông sống dai. Khi ông luật sư của nhà vua nói với Esmeralda: "ạng ấy sắp chết", thì hoặc là vì nhầm lẫn, hoặc vì muốn đùa.
Không phải vì vết thương của Phoebus không nặng.
Linh mục đã mang Phoebus đến nhà một thầy thuốc. Suốt tám ngày ông này đã lo sợ cho tính mạng của y. Thế nhưng sức trẻ đã thắng.
Chuyện thường hay xảy ra: tạo hóa thường thích ngang nhiên cứu mạng người bệnh ngay trước mũi thầy thuốc. Còn đang phải nằm bẹp đó, anh ta đã phải chịu những cuộc thẩm vấn đầu tiên.
Điều đó làm cho anh ta rất phiền. Một buổi sáng, thấy mình đã khá hơn, anh liền để lại những chiếc cựa thúc ngựa bằng vàng của mình để trả công cho thầy thuốc và chuồn luôn. Công lý chẳng quan tâm đến anh. Các quan tòa đã có khá đủ bằng chứng để kết tội Esmeralda, tin rằng Phoebus đã chết và tất cả đều đã được khai rồi.
Phoebus không trốn đâu xa. Hắn tìm lại đơn vị của mình đang đồn trú tại Queue-en-Brie trong Ile-de-France, ngay gần Paris.
Hắn chẳng thích ra mắt trong vụ này. Hắn có cảm giác mơ hồ hắn là một nhân vật lố bịch.
Mặt khác, hắn hy vọng câu chuyện không bị tiết lộ. Queue-en-Brie xưa là nơi lưu trú rất vô vị, một cái làng của những người thợ bịt móng ngựa, những người vắt sữa bò, tay nứt nẻ. Một dãy nhà lụp xụp và những nhà gianh bám hai bên đường.cái. Phoebus nhanh chóng chán ngấy và mò về Paris. Hắn định bụng sẽ đến thăm một cô gái sống gần nhà thờ Đức Bà, một cuộc viếng thăm ong bướm.
Thoạt đầu, gã không để ý đến đám đông đang xúm xít trước cổng nhà thờ. Nhưng rồi tiếng ồn ào làm cho óc tò mò của hắn bị kích thích. Gã hỏi:
- Tiếng ồn ào này là gì thế?
- Tôi không biết. - Ai đó trả lời. - Hình như một mụ phù thủy sắp phải đền tội trước nhà thờ.
Viên đại úy tưởng vụ Esmeralda đã kết thúc nên không xúc động lắm.
Quảng trường trước nhà thờ lúc đó có vẻ gì thảm đạm kỳ lạ. Một đám rất đông kéo đến từ các phố lân cận, đứng chật quảng trường. Sân trước nhà thờ để trống, một hàng rào dày đặc cảnh binh và lính đứng giữ trật tự. Lối vào thì do lính cầm kích mang quân hiệu của giám mục canh gác. Nhưng cửa lớn của nhà thờ thì đóng kín.
Giữa lúc đó, đồng hồ nhà thờ điểm mười hai tiếng. Tiếng xôn xao mãn ý lan trong đám đông.
Tiếng đồng hồ thứ mười hai vừa dứt thì tiếng hoan hô vang dậy trên sân quảng trường, trên các cửa sổ, trên các mái nhà.
- Cô ta kia!
Một chiếc xe bò có kỵ binh vây kín, tiến vào quảng trường. Đội tuần phòng mở một lối đi.
Cạnh xe bò, cưỡi ngựa đi kèm là một số chức sắc của tòa án. Sĩ quan quân cảnh dễ nhận ra nhờ trang phục đen của họ. Jacques Charmolue đi đầu.
Trên chiếc xe định mệnh, người con gái ngồi, tay bị trói quặt ra sau lưng. Cô mặc sơ-mi. Mớ tóc dài lòa xòa trên vai.
- Giê xu! - Một cô gái nói với Phoebus. -Đ úng là cô gái bô-hê-miêng xấu xa có con dê.
Viên đại úy dán mắt vào chiếc xe bò. Gã tái mặt.
Nhưng đoàn người ngựa buồn thảm đã đi qua quảng trường giữa tiếng reo hò. Chiếc xe bò đến sân trước nhà thờ. Nó dừng lại trước cổng giữa. Đoàn hộ tống dãn ra hai bên. Đám đông im lặng. Giữa sự im lặng trang trọng đó, hai cánh cửa lớn quay trên gông ken két. Một điệu hát trầm, vang, đều đều, bay ra từ nhà thờ. Đó là bài thánh ca dành cho người chết. Cái nhìn và ý.nghĩ của Esmeralda dường như mất hút trong nhà thờ. Môi cô mấp máy như đang cầu nguyện.
Khi tên phụ việc cho đao phủ lại gần Esmeralda giúp cô xuống xe bò, hắn nghe thấy cô lẩm bẩm khe khẽ: Phoebus.
Người ta cởi trói tay cho cô, đưa cô xuống xe cùng với con dê đang be be lên vui vẻ vì cảm thấy được tự do. Cô đi chân đất trên quảng trường. Sợi dây trên cổ kéo lê sau lưng.
Tiếng hát trong nhà thờ ngừng. Một chiếc thập tự vàng và một dãy nến lay động trong bóng tối. Lát sau, xuất hiện một đoàn dài linh mục và trợ tế trịnh trọng tiến về phía người chịu tội.
- ồ, lại là hắn. - Cô gái nhìn người đi đầu nói khẽ.
Thật vậy, đó là phó giám mục. ông tiến lên, đầu ngoặt về phía sau, mắt nhìn thẳng, mở trừng trừng, hát kinh giọng khỏe nhưng trông ông xanh xao.
Esmeralda tái xanh không kém, khi cô thấy người ta đặt vào tay cô một cây nến nặng, màu vàng đã thắp.
Một mình Dom Claude lại gần. ông kêu lên bằng một giọng u uất cái công thức đáng sợ kết thúc những buổi lễ buồn thảm kiểu này. Đó là hiệu lệnh quy ước cho tên đồ tể. Dân chúng quỳ xuống.
Phó giám mục quay lưng lại người chịu tội, đầu gục xuống ngực, tay khoanh lại. ông nối tiếp đoàn tùy tòng.
Cô gái bị kết tội đứng lặng chờ người ta quyết định đời cô. Cô gái khốn khổ lúc trèo lên chiếc xe bò định mệnh đưa cô đến chốn cuối cùng, có lẽ đã tiếc đời đến đứt ruột. Cô ngước đôi mắt đỏ sọc lên nhìn trời, nhìn đất, nhìn đám đông, nhìn những ngôi nhà... Thình lình cô thét lên một tiếng ghê rợn. Trong lúc tên phụ việc của đao phủ túm chặt khuỷu tay cô, thì xa kia, ở một góc quảng trường, cô thoáng thấy người ấy, hắn, bạn cô, hắn, vị chúa của cô: Phoebus!
Quan tòa đã nói dối. Đúng là hắn. Cô không thể nhầm được. Hắn đứng kia, sống sờ sờ trong bộ chế phục choáng lộn của hắn, lông mũ trên đầu, kiếm ngang lưng.
Cô gào lên:
- Phoebus! Phoebus! Cứu tôi!
Cô muốn vươn về phía hắn cánh tay run run của mình, nhưng cánh tay bị trói chặt..Một ý nghĩ chợt lóe lên. Cô nhớ là mình bị kết tội là đã giết Phoebus de Châteaupers.
Cho đến lúc này cô đã chịu đựng tất cả, nhưng đòn cuối cùng này quả phũ phàng. Cô ngã xuống mặt đường, bất tỉnh.
Charmolue hô:
- Lôi nó lên xe bò. Kết thúc đi!
Chưa ai để ý thấy, trong phòng tranh trưng bày tranh các vua, có một khán giả kỳ lạ. Hắn đã quan sát tất cả, trơ trơ ra đó. Người ta có thể nhầm y là một máng nước, không một cái gì lọt qua mắt y. Ngay từ lúc đầu, khi không ai chú ý, y đã buộc chặt một sợi chão lớn có thắt nút vào một cây cột của phòng tranh. Một đầu dây chão buông thõng xuống bậc thềm lên xuống bên dưới.
Làm xong, y lặng lẽ đứng nhìn, chợt những tên lính hầu sắp thi hành lệnh của Charmolue thì hắn nhảy qua lan can của phòng tranh, lao đến hai tên đao phủ, hạ gục chúng bằng hai quả đấm nặng trịch, nhấc bổng cô gái Ai Cập một tay như đứa trẻ nhấc con búp bê. Chỉ một cái nhún, y nhảy trở vào nhà thờ, nâng cô gái trên đầu, miệng hô lớn: "Asile!" (nơi trú ẩn bất khả xâm phạm - ND).
Đám đông hô theo:
- Asile, asile!
Hàng ngàn tiếng vỗ tay làm sáng lên con mắt độc nhất của Quasimodo, vui vẻ và kiêu hãnh.
Charmolue sững sờ. Quả vậy, trong phạm vi nhà thờ Đức Bà, nữ phạm nhân thành bất khả xâm phạm. Nhà thờ là nơi trú ẩn. Mọi luật pháp của con người đều mất hiệu lực trước ngưỡng cửa nhà thờ.
Quasimodo dừng lại dưới cổng lớn. Y túm chặt cô gái bằng bàn tay đầy chai, rất thận trọng như sợ cô bị gẫy.
Phía dưới, quần chúng nhảy lên, hào hứng.
Sau mấy phút chiến thắng, Quasimodo vào sâu trong nhà thờ.
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô! - Dân chúng gào lên. Tiếng hoan hô dậy đất ấy khiến bà già ẩn cư sửng sốt. Bà vẫn đợi chờ, mắt đăm đăm nhìn cái giá treo cổ..