NGÀY TÀN NGỤY CHÚA

Chương 48

Docsach24.com

gày 1 tháng 11 là ngày lễ của các linh hồn, La Fête du Morts - Ngày của cái chết - một ngày quốc lễ. Thật may mắn là trong tiệc cưới ngài Đại sứ đã bảo với D. Marnin rằng anh không cần phải mạo hiểm vượt đường về trong đêm và ông ấy chỉ cần anh có mặt tại khu cư xá trước buổi trưa là được. Mới buổi sáng sớm mà tiết trời đã rất nóng. Anh lái chiếc xe cọc cạch của mình đi xuyên qua những đồn điền trồng cao su và đi dọc theo bờ sông đến Biên Hòa sau đấy rẽ sang con đường mòn đi tới đường Quốc lộ số 1 trở về Sài Gòn. Năm phút sau khi xe của anh vượt qua cổng chính của một căn cứ quân sự cỡ lớn trong khu vực này, anh bỗng thấy mình đang đi song song với một đoàn xe tải chở quân loại hơn hai tấn cùng tiến về Sài Gòn vói tốc độ khoảng 40 km/giờ. Hầu như không có một chiếc xe hay một người nào đi ngược chiều với họ. Trong thùng sau những chiếc xe tải chở đầy những binh sĩ Ngụy trong trang phục dã chiến, súng tự động. Họ trông rất hăng hái, hăm hở và khi xe anh vượt qua bọn họ còn vẫy tay chào rất thoải mái.

D. Marnin chưa bao giờ được nhìn thấy một đoàn quân đông và nhiều vũ khí hạng nặng đến vậy. Anh đã đếm được khoảng hơn 103 xe chở quân, 14 thiết vận xa APC và xe kéo pháo trước khi anh vượt lên trên đoàn quân này nơi viên Tư lệnh đang ngồi trễm trệ trên chiếc xe Jeep mui trần cùng với người lái xe. Chiếc xe Tham mưu trưởng đi sau được sơn kiểu rằn ri để ngụy trang với một lá cờ ba sọc cắm ở phía bên phải ba-đờ-xốc và bên trái cắm một chiếc cờ đuôi nheo có biểu tượng của Sư đoàn 5 trên nền màu vàng. D. Marnin vẫy tay với viên chỉ huy khi xe của anh tiến ngang với họ. Người này cũng vẫy tay chào theo kiểu nhà binh và mỉm cười với anh rất thoải mái. Anh ta là một viên Đại tá quân đội Ngụy khá đẹp trai.

- Tôi là người của Đại sứ quán Mỹ - tôi là trợ lý của Đại sứ Sedgewick. Có chuyện gì vậy? - D. Marnin gào lên với anh ta bằng tiếng Pháp.

- Nous nous amusons, seulement - viên Đại tá trả lời - chúng tôi chỉ đùa vui với nhau một chút thôi.

Anh ta lại nhìn D. Marnin mà cười nhe nhởn và vẫy tay chào anh. Đó là lần đầu tiên anh được gặp Nguyễn Văn Thiệu.

Đây đúng là một tin rất có giá trị. Một trong rất nhiều lý do khiến cho Washington đã phải lo ngại về cuộc đảo chính này chính là việc CIA đã dự đoán rằng tương quan lực lượng có thể sẽ ngả về phía Chính phủ. Giả thuyết này của CIA dựa trên đánh giá cho rằng lực lượng của Quân đoàn III của tướng Tôn Thất Đính trên cương vị Tổng trấn Sài Gòn có thể sẽ nằm lại dưới trướng của ông Diệm. Theo đánh giá của các nguồn tin quân sự Mỹ thì những người âm mưu làm đảo chính chỉ có được thắng lợi nếu như tướng Đính và đặc biệt là lực lượng mạnh nhất của ông ta là Sư đoàn 5 dưới sự chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn Thiệu đứng về phe trung lập. Vậy nhưng việc D. Marnin vừa mới nhìn thấy Sư đoàn 5 đang hùng hổ kéo về Sài Gòn có thể được xem như kết cục đã rõ ràng mười mươi rồi.

Anh đánh xe vào thẳng trong sân của khu cư xá ngoại giao đoàn. Chiếc xe jeep méo mó màu đỏ nằm chắn ngang trên lối đi. Lão Mi đang đi làm lễ bên nhà thờ gần đó trong buổi lễ cầu nguyện cho các linh hồn. Cánh cửa chính vẫn để mở một cách hớ hênh. Anh leo vội lên bậc cầu thang, gõ cửa vội vàng rồi đi thẳng vào phòng đọc của ông Đại sứ. Đại tá Gascon đang có mặt tại đó. Sedgewick và Gascon sửng sốt nhìn anh một cách khó chịu, cả hai bọn họ đều không nghĩ là có người dám quấy rầy họ vào lúc này.

Trên mặt bàn là một đống với những chồng tiền piaster cao ngất nghểu. Đại tá Gascon đang đếm chúng và bó mỗi tập một ngàn bằng một dây cao su rồi ghi số xê-ri sau đó xếp gọn chúng vào trong hai chiếc va-li bằng da cũ kĩ đang để mở dưới sàn nhà. D. Marnin đã nhớ lại rằng hai tuần trước, khi dọn dẹp chiếc tủ đựng tài liệu to tướng ở góc phòng này anh đã thấy xuất hiện chiếc va-li căng phồng được dấu ở trong góc. Chuyện này là không thể quên được bởi lẽ chiếc va-li đó đã được khóa bằng hai chiếc khóa và buộc lại rất chặt bằng băng dính và một sợi dây thừng. Trên ghế ngồi ở góc phòng vẫn còn đó hai chiếc khóa và cả đống dây thừng.

- Làm cái quái gì mà xông bừa vào đây vậy? - Đại sứ Sedgewick trợn mắt quát.

- Tôi vừa lái xe từ Biên Hòa về đây. Tôi muốn báo cáo với ngài mà không làm phí thời giờ rằng hình như toàn bộ Sư đoàn 5 đã lên đường tiến về Sài Gòn. - D. Marnin vội thanh minh - tôi đã đếm được 103 xe chở quân, 14 xe bọc thép và rất nhiều pháo hạng nặng. Tất cả các binh lính đều mặc đồ dã chiến, đội mũ sắt và mang súng trường tự động.

Gascon và ông Sedgewick cùng đưa mắt nhìn nhau. Gascon thoáng nở một nụ cười trong khi ngài Đại sứ vẫn giữ nét mặt khó đăm đăm.

- Như vậy là đúng như thế rồi - Gascon nói - Tốt hơn là tôi nên xuống Bộ Tổng tham mưu ngay bây giờ. Không thể để tướng Minh chờ lâu hơn được nữa.

- Cậu nên đi ngay đi - Đại sứ Sedgewick đáp lại.

- Này anh bạn, giúp tôi một tay đi nào - Gascon nói với Marnin.

Tay phụ tá chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn giúp Gascon đếm số tiền - tất cả là ba triệu piaster - rồi buộc chúng lại thành từng cục. Gascon ghi cẩn thận tổng số tiền của từng cục cũng như số xê-ri lên trên một tời giấy màu vàng rồi nhét toàn bộ số tiền này vào trong một chiếc va-li. Phải mất đến hơn mười phút họ mới có thể làm xong mấy việc này. Khi họ đang làm, Đại sứ Sedgewick đi tới đi lui trong phòng một cách sốt sắng. Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, Đại tá Gascon sách chiếc va-li lên đem tới trụ sở Bộ Tổng tham mưu ở sân bay Tân Sơn Nhất, ngay sát trụ sở của Bộ Tư lệnh quân viện, nơi đang được tướng Minh “lớn” sử dụng như Bộ chỉ huy tiền phương của ông ta.

- Này David, tôi không muốn cậu hiểu sai những gì đã xảy ra ở đây - Đại sứ Sedgewick phân bua khi Gascon vừa ra khỏi phòng - toàn bộ số tiền này là phục vụ cho các mục đích nhân đạo. Trong trường hợp có điều gì bất chắc xảy ra, nó sẽ được sử dụng cho việc giải quyết các khó khăn mà gia đình các tướng lĩnh đó gặp phải. Còn toàn bộ chuyện này là vấn đề của người Nam Việt Nam. Từ đầu đến cuối, chúng ta vẫn khẳng định rằng các tướng lĩnh có quyền quyết định những gì mà họ cho là cần thiết. Vai trò của chúng ta là tập hợp các thông tin và không được cản trở những người có trách nhiệm khi họ cho là đúng. Cậu có hiểu điều tôi đã nói không nhỉ?

- Vâng, thưa ngài. Tôi rất hiểu. - D. Marnin trả lời. Và thật sự anh đã nghĩ đúng như thế.

Anh nhận lệnh tiếp theo là quay trở lại phòng làm việc, nắm mọi diễn biến đang xảy ra và giữ liên lạc với Đại sứ Sedgewick, báo cáo cho ông ta những gì cần thiết nhưng không được gây áp lực đối với ông ta bằng những chi tiết vụn vặt. Anh còn có trách nhiệm phải viết nhật ký sự kiện nữa. Gascon tới Bộ Tổng tham mưu chỉ vài phút sau khi D. Marnin đi vào phòng làm việc của ông Đại sứ và ngồi thu lu bên chiếc máy điện thoại màu xanh, một chiếc máy vẫn được sử dụng để liên lạc về tất cả các vấn đề được cho là tuyệt mật nhất nhưng không được sử dụng các tài liệu ở dạng mật mã.

Cuộc điện thoại đầu tiên là của Gascon. Anh ta báo về rằng tướng Minh “lớn” cho anh ta biết rằng ông ta đột nhiên phải thay đổi nhân sự bởi vì Đại úy Quyền, Trưởng phòng Tác chiến hải quân (CNO) đã bị bắn một phát vào đầu từ phía sau bởi người phó của anh ta tên là Lãm. Vụ ám sát này cũng bị ném vào quên lãng cùng vô số những vụ ám sát khác xảy ra sau đó. Chẳng còn ai đứng ra xét xử những kẻ đã chủ mưu gây ra chuyện này.

Đại tá Gascon là người dễ tính nên anh ta cũng chẳng câu nệ mà chấp nhận luôn đề nghị của tướng Minh là sử dụng luôn hệ thống liên lạc của người vừa bị ám sát ở phòng CNO để giữ liên lạc với Trưởng mạng lưới CIA, nơi sỹ quan Barney Maher luôn túc trực ở đầu dây bên kia. Đường dây liên lạc này được thiết lập từ tháng 8 sau khi âm mưu đảo chính không thành công với mục đích nắm được tình hình nếu như đảo chính xảy ra. Anh chàng Gascon gọi luôn đến trụ sở của CIA và nói:

- Tôi cần thêm một ít Whiskey.

Anh chàng Maher, vừa mới đi nghỉ theo thời hạn ở Băng Cốc về được mấy ngày nên quên sạch các tín hiệu liên lạc báo cáo tình hình của các điệp viên. Chính vì thế, khi Gascon gọi cho anh ta, anh ta thảm nhiên trả lời:

- Mày nói cái chó chết gì đấy hả Frank? Bây giờ mới có 11 giờ sáng. Còn quá sớm để uống Whiskey vào lúc này mãnh ạ.

Gascon điên tiết quá đành gác máy điện thoại xuống và gọi thẳng đến cho Marnin.

- Cậu có thể làm ơn gọi điện cho thằng bạn ấm đầu của tôi và nói cho nó hiểu là cái gì đang diễn ra được không - anh ta nói - cậu hãy bảo nó rằng cậu đã báo cáo với ông Lớn và tôi về những gì cậu nhìn thấy trên xa lộ hồi sáng nay và rằng mọi việc cần phải được triển khai theo kế hoạch báo động khẩn cấp CRITIC.

- Vâng thưa ngài. Tôi sẽ làm như vậy - D. Marnin nghiêm túc trả lời.

Anh đang rất lo lắng cho Lily và nghĩ là mình cần phải gọi điện cho ông Curly Bird ở khách sạn Caravelle, noi rất gần khu vực có đụng độ nếu một khi chiến sự xảy ra, để thông báo cho ông ấy và cho ông ấy biết rằng chuyến bay chiều tới Paris có thể sẽ bị hoãn lại. Thế nhưng anh vẫn quyết định không nên gọi làm gì. Anh thầm nghĩ là trên đời này sẽ còn có nhiều điều tồi tệ hơn so với việc bị kẹt lại trong một khách sạn với Lily vào một buổi sáng đầu tiên của tuần trăng mật.

D. Marnin gọi điện thẳng đến Trưởng lưới điệp báo CIA và nói lại tình hình. Sau đó, anh gọi điện tới cho Tom Aylward qua điện thoại nội bộ và báo cho anh ta tất cả những gì đang diễn ra. Bộ Tư lệnh quân viện đã nâng cấp báo động sau khi một vài thông tin từ các đơn vị chủ lực báo về rằng có dấu hiệu đồng loạt chuẩn bị cho một nhiệm vụ gì đó, nhưng vào lúc này họ vẫn chưa có tin tức nào xác định rằng cuộc đảo chính đã bắt đầu. Theo lời Aylward, việc đầu tiên mà tướng Donnelly phải quyết định là khi nào thì gửi thông báo khẩn cấp qua kênh liên lạc của lực lượng Quân đội Mỹ để công bố nâng cấp tình trạng khẩn cấp lên mức màu xám. Điều này sẽ giúp cho tất cả công dân Mỹ biết về sự náo loạn đang treo lơ lửng trên đầu họ và cảnh báo họ không nên đi ra ngoài đường cũng như tránh những địa điểm nhậy cảm. D. Marnin vội thông báo lại điều này với ông Đại sứ nhưng ông ta lại lo ngại rằng nếu làm vậy sẽ chẳng khác nào thông báo cho phía ông Diệm, cho nên ông ta đã yêu cầu tướng Donnelly tạm ngừng thông báo nâng cấp sẵn sàng chiến đấu cho tới khi nào lực lượng đảo chính đã bắt đầu áp sát dinh Tổng thống.

Vào lúc đó, lực lượng tiền tiêu của Sư đoàn 5 cũng đã tập hợp được ở gần sân bay Tân Sơn Nhất. Đại úy Aylward nói với anh rằng cậu ta có thể nhìn thấy bọn họ qua khung cửa sổ ở phòng làm việc của mình. Gascon thông báo rằng Đại tá Tung, người đứng đầu lực lượng đặc nhiệm trung thành với ông Diệm và ông Nhu đã bị bắt và bị hành quyết giống như Đại úy Quyền. Chừng mười phút sau, vào lúc 1 giờ chiều, Gascon lại gọi điện cho Maher và nói rằng tướng Minh - lo ngại rằng việc hành quyết ở CNO và cái chết của Đại tá Tung có thể đã bị phát giác và lệnh báo động đã được Phủ Tổng thống ban xuống - điều này đã khiến cho kế hoạch phải được tiến hành sớm hơn hai giờ so với trước. Cuộc tấn công vào Sài Gòn đã bắt đầu.

Đại sứ Sedgewick đang ăn trưa khi D. Marnin gọi điện tới báo cáo tình hình. Khi anh đọc cho ông ta ở đầu dây bên kia về nội dung của hai bức điện thông báo khẩn cấp CRITIC, anh có thể nghe rõ tiếng nhai rau ráu và tiếng nuốt ừng ực, có thể ông ta đang ăn cần tây hay một thứ gì đó rất giòn. Cuối cùng ông ta nói:

- Được rồi. Cứ thế là được. Hãy giữ liên lạc với tôi. Nhưng phải nhớ là đừng làm phiền tôi bằng những chi tiết vụn vặt đấy.

Sau khi cuộc tấn công bắt đầu được chừng mười phút, Helen Eng cũng có mặt tại phòng làm việc. D. Marnin, sung sướng reo lên rằng cô ấy đúng là người luôn luôn có mặt đúng lúc mà mọi người cần đến cô. Đây đúng là sự giúp đỡ quý báu - tiếng điện thoại đổ liên hồi với đủ các đối tượng gọi đến từ mấy người đồng nghiệp đang nổi cáu vì không ai trả lời hay cơ quan khác trong ngoại giao đoàn hay từ những phóng viên ở tận đẩu tận đâu xa như tận Sedney cũng gọi đến. Đại sứ Sedgewick từ chối không trả lời điện thoại với bất kỳ ai. Chỉ trừ trường hợp của phóng viên Mandelbrot, người gọi đến cho anh vào lúc 1 giờ 30 phút.

- Xin lỗi nhé Billy, điện thoại ở khu cư xá ngoại giao đoàn đã bị cắt. Ông Đại sứ chỉ nhận các cuộc điện thoại qua văn phòng này thôi, và chúng tôi không thể nối máy cho cậu vào lúc này được.

- Nghe này, thằng cha lọ mọ kia, cậu hãy gọi ngay cho ông ấy bây giờ đi! không phải là năm phút nữa mà phải gọi ngay bây giờ ấy! Hãy nói với ông ấy là tôi muốn nói chuyện với ông ấy. Tôi đã ngồi đây để đợi câu chuyện này đến cả tháng nay rồi và tôi không thể đợi thêm một phút nào nữa đâu.

D. Marnin gọi điện tới cho ông Đại sứ và ông này tỏ vẻ rất khó chịu vì bị “quấy rầy” nhưng cái chính là phóng viên Mandelbrot vẫn luôn đúng. Ông ta đã chấp nhận một trường hợp ngoại lệ với báo New York Times và hai người đã trao đổi với nhau suốt hơn hai mươi phút. Quả thực trong mấy ngày tiếp theo, cuộc đảo chính - hay cuộc cách mạng này đã được tờ báo đó mô tả là thành công rực rỡ hơn bất cứ một sự kiện nào khác kể từ lần tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cu-ba. Trong sự kiện này, Đại sứ Sedgewick đã tự thể hiện mình như một vị Đại sứ Mỹ thành công nhất kể từ Đại sứ Benjamin Franklin.

Lúc 1 giờ 30 phút, Đại tá Gascon gọi đến báo rằng Ủy ban đảo chính đã công bố kế hoạch tập hợp thành một Hội đồng các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa và tập hợp tại trụ sở của Bộ Tổng tham mưu. Lần lượt từng người trong số bọn họ bị bắt buộc lên phát biểu về quan điểm của mình về cuộc đảo chính. Trong hoàn cảnh như vậy, việc phản ứng của phần lớn số người này là đồng tình ủng hộ cuộc đảo chính thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả các tuyên bố đó đều được ghi âm lại và được kiểm duyệt rất kỹ trước khi đưa đi phát sóng. Trong số này vẫn còn có nhiều lực lượng, đơn vị có các sỹ quan chỉ huy cảm thấy quá lờ mờ và do dự nên đã cử cấp phó của mình phát biểu thay. Điển hình nhất là trường họp của Tư lệnh Lực lượng không quân (trong tương lai chính là Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, Tư lệnh lữ đoàn tác chiến đường không, Tư lệnh Lực lượng Hải quân Lục chiến và Tư lệnh lực lượng đặc biệt (Viên Tư lệnh cũ đã bị bắn chết).

Đến 1 giờ 40 phút, Đại úy Aylvvard gọi điện tới nói rằng Lực lượng nổi loạn đã chiếm được và phong tỏa sân bay Tân Sơn Nhất đối với tất cả các chuyến bay đến và đi cho tới khi nào có thông báo tiếp theo. Lúc này vẫn chưa có sự phản kháng nào được công bố. Trong khi đang nói chuyện, anh ta bảo D. Marnin chờ máy rồi vội quay lại ngay sau chưa đầy ba mươi giây và cho anh biết rằng tướng Bích đã gọi điện báo cho tướng Stillwell, Tư lệnh Bộ Tư lệnh tác chiến của Quân đội Mỹ rằng Quân lực Việt Nam Cộng hoa đã quyết định lật đổ Chính phủ hiện thời. Viên Đại úy cũng cho biết thêm rằng ngay khi đó, tướng Donnelly cũng đã kịp thời cho công bố ngay lập tức lệnh nâng cấp sẵn sàng chiến đấu lên mức báo động màu Xám. Lệnh này được áp dụng cho tất cả các đối tượng là người Mỹ không kể là các quân nhân hay thường dân.

Lúc 2 giờ chiều, Aylward cũng đã nhận được các báo cáo của hầu hết các cố vấn quân sự Mỹ trong các đơn vị chủ chốt đang đóng quanh Sài Gòn gửi về. Hầu hết các đơn vị trực thuộc lực lượng quân chính quy đều đang đứng về phía các tướng lĩnh hoặc giữ thái độ rất thụ động. Tướng Cao, Tư lệnh Quân đoàn IV và cũng là cựu đồng nghiệp của Đại tá John Henry Mudd được xem là viên tướng duy nhất vẫn còn muốn dựa vào Chính phủ. Thế nhưng cấp phó của ông ta và hai viên Tư lệnh Sư đoàn tác chiến chủ lực trong vùng tác chiến của anh ta lại ủng hộ cuộc đảo chính. Aylward nói rằng, theo đánh giá của MACV thì dường như đám tướng lĩnh đã cao tay hơn rất nhiều.

Lúc 2 giờ 40 phút, Gascon thông báo rằng các đơn vị chiến đấu đã di chuyển đến các vị trí áp sát Phủ Tổng thống, doanh trại của lực lượng bảo vệ Phủ Tổng thống và trụ sở của Bộ Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm. Họ cũng đã chiếm được Bộ Tư lệnh Hải quân, hai đài phát thanh, trụ sử của cơ quan bưu chính, viễn thông, điện tín để có thể phong tỏa mọi thông tin liên lạc với thế giới bên ngoài.

Lúc 3 giờ chiều, Tổng thống Diệm đã gọi điện cho tướng Bích và nói rằng ông ta sẵn sàng thành lập Chính phủ mới và tuyên bố thay đổi nhân sự. Tướng Bích trả lời:

- Tại sao ngày hôm qua ông không nói với tôi điều này chứ? Còn bây giờ, ngài Tổng thống ạ, mọi thứ đã quá muộn rồi.

Vài phút sau đó, Ayiward lại gọi tới nói rằng Sư đoàn 7 đang kiểm soát khu vực phía Bắc vùng đồng bằng và phòng thủ cho Sài Gòn từ phía Nam và phía Tây cũng đã tham gia vào cuộc đảo chính. Lực lượng này đã phong tỏa toàn bộ các con đường đến Sài Gòn trên hướng này. Đại tá Bob Phillips cho biết, cố vấn quân sự của tướng Nguyễn Khánh, Tư lệnh Quân đoàn II báo cáo rằng tướng Khánh đã tuyên bố ủng hộ cuộc đảo chính, nhưng cũng rất thất vọng vì trước đó ông ta không biết tí nào về nó. Đại úy Aylward còn cho biết thêm hiện ông Diệm và ông Nhu đang cố gắng một cách tuyệt vọng để tập hợp các lực lượng trung thành với họ. Theo đó, họ đã cố gắng kêu gọi tất cả các đơn vị chủ lực trong lực lượng Quân lực Cộng hòa nhưng không thành công. Các tướng lĩnh luôn sát cánh bên nhau.

Các nhân viên Đại sứ quán có thể nói được tiếng Việt đã được phái đi khắp thành phố với một thiết bị liên lạc vô tuyến điện sóng cực ngắn. Đến lúc 3 giờ 30 phút chiều, lưới điệp báo của CIA thông báo rằng toàn bộ các vị trí then chốt trong thành,phố đã bị rơi vào sự kiểm soát của lực lượng cách mạng. Lực lượng thuộc Sư đoàn 5 và một tiểu đoàn Hải quân Lục chiến đã bao vây Phủ Tổng thống. Khoảng 4 giờ kém, Aylward gọi điện tới cho biết Quân đoàn I vẫn tiếp tục giữ thái độ im lặng. Tư lệnh Quân đoàn này, tướng Đỗ Cao Trí đã đáp máy bay đến Đà Nẵng để tránh phải tiếp xúc với Ngô Đình Cẩn hiện vẫn đang ở Huế.

Đúng 4 giờ chiều, Gascon báo về Đại sứ quán rằng tại trụ sở của Bộ Tổng tham mưu hiện có ít nhất 15 tướng lĩnh đang tập hợp ở đây. Nơi này điên loạn như một bệnh viện tâm thần, với đa số người trong bọn họ đang đi đi lại lại và chờ đợi để được ai đó bảo cho họ biết là họ phải làm gì và chẳng ai trong số đó dám rời khỏi đấy. Họ đã thiết lập một đường dây liên lạc với ông Diệm. Mỗi ngưòi bọn họ đều đã nói chuyện với ông ấy và khẳng định rằng họ hoàn toàn ủng hộ cuộc đảo chính và bảo Tổng thống rằng ông ấy không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng phe đảo chính. Tướng Minh “lớn” là người cuối cùng nói chuyện với ông Diệm và ông Diệm đã từ trối nói chuyện với viên tướng này.

Lúc 4 giờ 30 phút, cô Helen Eng ra hiệu cho D. Marnin cầm lấy ống nghe. Ở đầu dây bên kia là Tổng thống Ngô Đình Diệm.

- Ngài đấy à, phải không thưa Tổng thống? - D. Marnin hỏi.

- Là cậu sao Marnin? - ông ta đáp lại.

- Vâng, tôi đây - anh nói - tôi hy vọng là các ngài vẫn khỏe.

- Vâng, tôi khỏe - ông ta trả lời, rồi sau đấy cố nén một tiếng thở dài - ít nhất là vào lúc này.

Ông ta đề nghị được nói chuyện với ngài Đại sứ, người mà D. Marnin đã gọi điện tới trên một đường dây khác. Đại sứ Sedgewick chỉ thị cho Helen Eng giám sát toàn bộ cuộc gọi và ghi lại tất cả những gì được trao đổi.

- Điều này rất quan trọng đấy - ông Đại sứ nhấn mạnh - Làm ngay đi.

Điện số 860

Từ: Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn Gửi: Ngoại trưởng.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963 - 5 giờ chiều.

Mật - Khẩn cấp - Giới hạn nơi gởi đến - Sài Gòn

Đại sứ Sedgewick Báo cáo Ngoại trưởng.

Lúc 04 giờ 30 phút, Tổng thống Diệm đã gọi điện đến. Sau đây là toàn bộ nội dung cuộc trao đổi trên:

Diệm: Có một số đơn vị Quân lực đã tổ chức một cuộc đảo chính và tôi muốn biết thái độ của Mỹ về vấn đề này?

Sedgewick: Tôi cảm thấy mình không có đầy đủ các thông tin để có thể trả lời ngài ngay lúc này được. Tôi đã nghe thấy tiếng súng, nhưng tôi vẫn chưa nắm được tất cả các thông tin cụ thể. Thêm vào đó, bây giờ mới chỉ là 4 giờ 30 sáng ở Washington và Chính phủ Mỹ có thể cũng chưa nắm được tình hình này.

Diệm: Nhưng ngài nhất định phải có ý tưởng chung nào đó chứ. Suy cho cùng thì tôi vẫn là người đứng đầu nhà nước. Tôi đã cố gắng làm tròn bổn phận của mình. Bây giờ tôi muốn làm trách nhiệm đến đâu và cần phải làm gì là cần thiết. Tôi vẫn tin vào trọng trách của mình hơn tất cả mọi thứ.

Sedgewick: Chắc chắn là ngài đã làm hết trách nhiệm của mình. Tất cả chúng tôi đều rất ngưỡng mộ lòng quả cảm và những đóng góp vĩ đại của ngài cho đất nước của ngài. Không có ai có thể cướp đi của ngài cái công trạng của tất cả những gì mà ngài đã làm. Bây giờ đây, tôi thật sự lo ngại về sự an toàn của ngài. Tôi đã đọc một bản báo cáo nói rằng ngài và em trai mình đã đề nghị được an toàn ra khỏi đất nước này nếu như ngài từ chức. Ngài có nghe rõ điều này không nhỉ?

Diệm: Không (tạm dừng), ngài có số điện thoại của tôi rồi chứ.

Sedgewick: Có. Nếu như tôi có thể làm bất cứ điều gì để bảo toàn tính mạng cho ngài, hãy gọi điện cho tôi.

Diệm: Tôi sẽ cố lập lại trật tự xem sao đã.

Ký tên

Đại sứ: Sedgewick.

Lúc 4 giờ 50, đài phát thanh Sài Gòn đã phát sóng trở lại và cho công bố Bản thông cáo của Hội đồng tướng lĩnh. Họ đã phải hành động “bởi vì những khó khăn trong tình hình kinh tế và bởi vì Ngô Đình Nhu, một mặt giả vờ chống lại bọn Cộng sản, nhưng mặt khác lại cố gắng bắt liên lạc vói bọn chúng... Quân lực Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được tình hình trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Quân đội đều nhất trí đứng lên yêu cầu ông Diệm phải từ chức”.

Lúc 5 giờ và lúc 5 giờ 30, Hội đồng các tướng lĩnh lại kêu gọi anh, em họ Ngô Đình từ chức. Tướng Minh đe dọa ông Nhu rằng Phủ Tổng thống sẽ bị oanh tạc nếu như họ không chịu đầu hàng, cả hai lần này, ông Diệm đều từ chối nói chuyện với tướng Minh - một dấu hiệu của sự khinh rẻ và điều đó đã khiến cho viên tướng này tức điên lên được.

- Tướng Minh “lớn” - Gascon kể - đang nổi giận như một người đàn ông thực sự. Họ đã ra lệnh cho Đại tá Thiệu bắt đầu cuộc tấn công. Hay nói đúng hơn là họ phải gào lên với thằng cha này vì hắn ta vẫn chưa làm gì cả. Họ đã hứa với hắn ta rằng khi Phủ Tổng thống bị chiếm, hắn ta sẽ trở thành tướng Thiệu chứ không còn là Đại tá Thiệu nữa.

Đúng 6 giờ tối, cuộc oanh tạc vào lực lượng bảo vệ ở Phủ Tổng thống bắt đầu với những loạt đạn pháo bắn lien tục ba mươi giây một lần. Đại sứ quán chỉ cách đó có ba tòa nhà và ngôi nhà chính cứ rung lên bần bật sau mỗi lần loạt đạn rơi xuống. Các cuộc tấn công bằng đạn cối chỉ thật sự bắt đầu vào lúc 7 giờ 15 phút, khi các tướng lĩnh đều tin là ông Diệm, ông Nhu cùng chỉ huy lực lượng bảo vệ Phủ Tổng thống nhất định không chịu đầu hàng.

Gascon lại gọi điện đến vào lúc 9 giờ và cho biết không còn dấu hiệu bắn trả từ phía Phủ Tổng thống mà đây có thể xem như một dấu hiệu của chiến thắng. Ở Bộ Tổng tham mưu, sâm banh đã được mở ra chúc mừng.

Bầu không khí ở Đại sứ quán Mỹ cũng có vẻ rất vô tư vào lúc ấy. Ngoài Helen Eng và D. Marnin còn có khoảng 20 nhân viên khác trong toà nhà này. Phần lớn trong số họ đều đã trèo lên mái nhà để xem một màn trình diễn ngoạn mục - bởi vì từ chỗ này họ có thể nhìn thấy Phủ Tổng thống bị oanh kích ở ngay trước mắt. Vài người trong số họ còn xách theo mấy chai rượu Turkey Bourbon trắng và rót ra những cái chén nhựa mỏng mời nhau. Đa số đều cười rú lên kinh hãi mỗi lần một quả đạn pháo rơi xuống gần hơn. Thế nhưng D. Marnin không thể cười được. Anh đang nghĩ tới ông Diệm, ông Nhu và quan trọng hơn là người bạn Đinh Triệu Dã đang bị kẹt giữa Phủ Tổng thống bị vây hãm.

Đại sứ Sedgewick gọi điện tới vào lúc 9 giờ 30 phút để thông báo rằng., ông ta sẽ đi ngủ và dặn anh không được quấy rầy “giấc ngủ quý giá của ông ấy” trừ khi “mái trần nhà ông ấy chuẩn bị đổ sập xuống” mà anh không thể chống nó lên hộ ông ấy được. D. Marnin cũng vội vã báo cáo lại tình huống trong ngày cho ông ấy một lần cuối cùng trước khi ông ấy không còn muốn nghe thêm cái gì nữa. Trong góc phòng nời anh ngồi báo cáo, anh vẫn nghe thấy tiếng đạn pháo từ phía Sư đoàn 5 rít lên trong không trung rồi nổ tung khi chạm vào mái nhà bên Phủ Tống thống.

- Nếu như cậu có thể xử lý được thì cậu cũng đừng có quấy rầy tôi đấy nhé - Đại sứ Sedgewick nhắc lại - tối nay tôi không muốn mất ngủ một chút nào hết. Ngày mai ta sẽ còn rất nhiều việc để làm đấy.

D. Marnin vẫn tiếp tục đợi báo cáo tham mưu cuối cùng về ông Diệm và ông Nhu nhưng chẳng thấy gửi đến. Lực lượng bảo vệ Phủ Tổng thống vẫn tiếp tục chống lại quân của ông Thiệu, một người khá thận trọng vì không muốn có thêm tổn thất về người nào. Trước hay sau thì hai anh, em Ngô Đình Diệm cũng sẽ phải đầu hàng hoặc là bị trúng đạn mà chết. Chẳng việc gì phải vội vàng vào lúc này. Trong khi ấy, tay Gascon cũng gọi điện đến thông báo rằng có rất nhiều bà vợ, bạn gái đã tới Bộ Tổng tham mưu để chúc mừng những người chiến thắng. Trong Đại sứ quán, không khí tuy có kém náo nhiệt hơn nhưng cũng rất ồn ào vì toàn bộ các nhân viên được tung đi từ sáng bây giờ đều đã quay trở về báo tin mừng rằng không có gì biến động lớn xảy ra ở Sài Gòn ngoại trừ vụ tấn công vào Phủ Tổng thống

Lúc 10 giờ, Aylward báo cáo rằng doanh trại của lực lượng bảo vệ Phủ Tổng thống cũng đã ra hàng. Chỉ còn duy nhất Phủ Tổng thống đang nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ.

- Mọi thứ đã kết thúc và chỉ còn lại tiếng reo hò thôi - Aylward nói.

- Không hẳn vậy đây - D. Marnin trả lời - Vẫn còn ngài Tổng thống và ông Nhu đấy thôi.

- Đúng thế. Chúng ta nên đưa bọn họ ra khỏi đấy.

- Thế cậu đã bố trí việc đó chưa?

- Chưa. Nhưng mà máy bay riêng của ngài Đại sứ đã được tiếp nhiên liệu đầy đủ và phi công cũng đã sẵn sàng rồi bây giờ chỉ còn đợi lệnh nữa thôi. Chúng tôi cũng đã hỏi và được trả lời dứt khoát là phải luôn sẵn sàng nhưng phần còn lại phải là do cánh chính trị bên chỗ các cậu phải quyết định. Đấy là lệnh do chính sếp cậu nói cách đây chừng hai mươi phút đấy.

Điện số 678

Từ: Ngoại trưởng Gửi: Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn

Mật - Khẩn cấp. Ngày 02 tháng 11 năm 1963 - lúc 12 giờ 35 phút chiều.

Lệnh của Ngoại trưởng gửi tới Đại sứ Sedgewick.

Liên quan đến công điện CRITIC 11.

Điều then chốt quyết định thái độ của cộng đồng quốc tế và quan trọng nhất là công luận Mỹ và phản ứng của Quốc hội đối với cuộc đảo chính này sẽ phụ thuộc rất lớn vào hành động của các tướng lĩnh. Phải nhận thấy rằng ngài cần phải thận trọng và xử sự thật thông minh để bảo đảm tham vấn cho các tướng lĩnh có những bước đi đúng đắn. Chúng tôi cũng hiểu là đây hoàn toàn là vấn đề nội bộ của người Việt Nam và các tướng lĩnh tỏ ra biết đâu là đích đến và làm thế nào để thực hiện được điều đó và có thể không cần đến sự cố vấn nào khác hay là chỉ làm nó nếu được yêu cầu. Dù sao, để định hướng cụ thể, chúng tôi hy vọng rằng bọn họ sẽ thực hiện đúng một số điểm sau đây.

1. Quyết tâm thực hiện mục tiêu theo đuổi cuộc chiến tranh này với một sức mạnh mới.

2. Hạn chết thấp nhất sự trả thù mang tính cá nhân.

3. Mở một hành lang an toàn cho những người trong gia đình họ Ngô Đình được sống lưu vong.

4. Đối xử một cách nhân đạo đối vói những người bị bắt.

5. Hạn chế thấp nhất việc kiểm duyệt và mở rộng tối đa quyền tự do báo chí.

6. Áp đặt lệnh thiết quân luật trong thời gian ngắn nhất.

7. Khuyến khích công bố việc sẵn sàng thiết lập lại quan hệ giữa Việt Nam Cộng hòa với các nước bạn bè và các tổ chức quốc tế.

Ký tên

Ngoại trưởng: Rusk.

Theo đúng những chỉ thị từ Đại sứ Sedgewick, D. Marnin thấy là không cần phải làm phiền ông ấy bằng bức điện này và nó có thể đợi đến sáng sớm ngày hôm sau. Tuy nhiên, anh vẫn gọi điện đến cho ngài Bilder và ngài Sabo rồi Đại tá Gascon và đọc cho họ nghe toàn bộ bảy điểm cơ bản nhất của bức điện này. Phản ứng của Gascon là khác hẳn với thái độ của Phó phòng DCM và Tham tán chính trị. Ông ta chỉ tặc lưỡi lấy lệ rồi cho qua. D. Marnin nghe thấy có vẻ như tay này đã chếnh choáng vì men sâm banh, một thứ chắc chắn đang bày la liệt ở Bộ Tổng tham mưu nên anh hỏi lại:

- Tôi nói vậy buồn cười lắm hay sao?

- Đồ con lừa ơi, đó chẳng qua là nguyên tắc của thói quan liêu thôi - quên mẹ nó đi. Bức điện ấy của Bộ Ngoại giao chẳng mang ý nghĩa cứt gì cả. Cậu có biết bức điện ấy có nghĩa gì không? nó chẳng có ý nghĩa chó chết gì hết.

- Này, anh đang nói về cái gì đấy hả?

- Điểm thứ ba đã có trong đầu tôi rồi. Chúng tôi có thể nghe thấy đạn pháo đang san phẳng tất cả mọi thứ ở trong Phủ Tổng thống. Và cậu biết cái gì xảy ra mỗi khi một khẩu pháo tự hành ấy gầm lên không?

- Anh nói xem nào - D. Marnin nói.

- Mỗi một tiếng nổ như vậy, các tướng lĩnh lại nâng ly của mình lên và chúc mừng bằng sâm banh. Và cậu có biết sao không? Bởi vì họ hy vọng rằng một mảnh đạn nào đó trong những viên đạn pháo ấy sẽ cắt phăng cái hộp sọ của Ngô Đình Diệm đi cho rồi. Liệu cậu có nghĩ là những tay này muốn ông ta sống lưu vong ở Băng Cốc hay ở Paris để đợi cho đến khi bọn họ đổ nháo nhào xuống cả hay không?

- Tôi đã nhận lệnh từ ngài Đại sứ Bascombe Sedgewick. Khi ông ấy bảo tôi làm gì thì tôi làm điều đó và trước đây chưa từng có chuyện này. Đến bây giờ, tôi có chỉ thị để nói với mấy tay ấy rằng đây là việc của người Việt Nam và rằng họ phải tự quyết định cách giải quyết vấn đề chính trị của họ. Và điều gì xảy ra với ông Diệm đi nữa cũng là một vấn đề chính trị.

D. Marnin nghĩ thế là đã xong. Anh lại ngồi xuống và cẩn thận viết từng lời nói của Gascon xuống tờ biên bản màu vàng rồi đặt nó lên mặt bàn mà ngắm nghía. Anh nghĩ đi, nghĩ lại rồi cầm máy điện thoại quay số báo cho ngài Đại sứ, nhưng rồi anh lại dừng lại và cho rằng tốt nhất anh nên gác máy trước khi cái chuông ở khu cư xá kịp kêu. Anh đã quyết định không quấy rầy giấc ngủ quý báu của Đại sứ Sedgewick. Dù sao đó cũng là cách kinh điển trong cái hoàn cảnh tiếng đạn pháo từ phía Phủ Tổng thống nghe chát chúa vọng lại như thế này. Hai anh em nhà đó chắc là đã chết rồi cũng nên. Mỗi lần đạn nổ, đồ đạc trong căn phòng của ngài Đại sứ nơi anh đang ngồi lại rung lên bần bật. D. Marnin đã phải tháo hết mấy bức tranh treo trên tường đặt xuống nền nhà.

Lúc 10 giờ 30, ông Nguyễn Đình Thuần, Bí thư của Phủ Tổng thống kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (cho tới lúc này, ông Diệm vẫn giữ chức Bộ Trưởng Quốc phòng), người chịu trách nhiệm trực tiếp điều hành Bộ Quốc phòng gọi điện tới. Các tướng lĩnh đã hạ lệnh rằng tất cả những người đang giữ vị trí cao trong Chính phủ Diệm phải ra hàng ngay lập tức. Những người này đều không muốn bị đối xử như quân địch. Ông Thuần muốn biết là ông ta nên làm gì vào lúc này - đầu hàng hay cố gắng tẩu thoát. Ông ấy muốn nói chuyện với ngài Đại sứ bởi vì đây là vấn đề giữa sự sống và cái chết. Ngài Bilder, người vừa quay lại sau bữa tối để làm báo cáo tổng hợp về cuộc đảo chính bây giờ cũng đã về nhà. Anh John Mecklin trở thành quan chức cao cấp nhất còn lại trong phòng chỉ huy của Đại sứ quán. Giống như tất cả các thành viên khác trong Phái bộ Mỹ, anh Mecklin là người khá thân với ông Nguyễn Đình Thuần, một con người luôn ngưỡng mộ và đặc biệt quý trọng những người bạn Mỹ. Hơn thế nữa, ông ta còn là ứng cử viên mà ông Diệm đã chọn cho chức Thủ tướng. D. Marnin chuyển vội ống nghe cho anh Mecklin.

- Chào ngài Bí thư - Mecklin trả lời - nghe tiếng của ông là tôi vui rồi. Chúng tôi đã rất lo lắng về sự an toàn của ông. Bây giờ tôi có thể làm gì cho ông đây nhỉ?... vâng, tôi hiểu, vâng, tôi biết rồi... well, ngài Bí thư ạ, điều này đã đẩy tôi vào tình huống khó khăn lắm. Cá nhân tôi luôn có quan điểm riêng về những vấn đề mà tôi có thể giúp ông, nhưng ở đây đúng là chẳng có chỗ nào tốt hơn ở nhà ông bây giờ đâu. Ông biết những gã này đấy. Tất cả bọn họ đều làm việc cho ông. Làm sao tôi có thể khuyên ông liệu có nên tin vào họ hay không chứ?... Vâng, tôi biết đây đúng là vấn đề sống còn với ông... Tôi xin lỗi, nhưng nói vậy là ông hàm ý rằng bằng cách nào đó chúng tôi đã liên quan đến cuộc đảo chính này... Không phải vậy đâu thưa ngài. Không phải thế. Tất cả những gì mà chúng tôi biết là đều nghe trên đài thôi... Vâng, ngài Bí thư ạ tôi hiểu là với ngài là như vậy. Nhưng tôi bảo đảm với ngài là tất cả những gì mà chúng tôi biết là đều được nghe từ đài thôi.

Ông Thuần vẫn không chịu đặt ống nghe xuống mà còn chỉ cho anh Mecklin một cách cương quyết rằng cá nhân ông ấy chứ không phải là người khác nói, trên cương vị là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng luôn hiểu rằng đám tướng lĩnh ấy sẽ chẳng thể tụt xuống giường được nếu không có sự giúp đỡ của người Mỹ. Thế nhưng Mecklin vẫn chặn họng ông ấy lại bằng câu:

- Tất cả những gì chúng tôi biết đều nghe từ trên đài cả.

Anh ta cứ phải nhắc đi nhắc lại câu nói ấy đến hơn chục lần và cuối cùng thấy không thể thuyết phục được nữa, anh ta đành trả lời:

- Chúc ngài ngủ ngon, ngài Bộ trưởng - nói xong anh ta gác vội ông nghe lên chiếc điện thoại một cách run rẩy.

D. Marnin đưa cho anh cốc rượu Turkey trắng còn một chút ở trong và chạy vội đi tìm một chiếc cốc nhựa sạch. Anh Mecklin buồn bã đưa cái chai lên miệng uống một hơi hết sạch những gì còn lại bên trong. Từ trước đến nay, chưa bao giờ D. Marnin thấy một người đàn ông lại có thể biểu lộ sự xấu hổ và ngượng ngùng với lương tâm mình một cách tuyệt vọng đến như vậy. Sự thật - một thứ gì đó dường như quá nặng nề đã bắt đầu đổ xuống mỗi người trong cái Đại sứ quán này. Bỗng nhiên, Marmin chợt nhớ ra rằng anh phải ra khỏi phòng làm việc. Một lần nữa anh lại cố lê bước theo mấy bậc cầu thang leo lên mái nhà để thoát khỏi các bầu không khí ngột ngạt của máy điều hòa với hy vọng có thể được hít hơi thở ban đêm của thành phố miền nhiệt đới này. Trên đó, có khoảng hơn hai mươi người khác - các nhân viên ngoại giao, sỹ quan an ninh, thư ký, nhân viên mã hóa, lính Hải quân Lục chiến. Trước mặt ở phía dưới họ vẫn là thành phố Sài Gòn với những đại lộ rộng thêng thanh, những bóng cây đầy ma hoặc. Những ngọn đèn đường vẫn còn tắt ngấm. Chỉ còn những ánh chớp phát ra từ những trái đạn pháo lười nhác rơi vu vơ vào trong Phủ Tổng thống - chỉ vài phút mới có một quả. Tiếng súng vọng lại nghe chát chúa, xé nát màn đêm ảm đạm.

Mặc dù chẳng cần phải làm vậy nhưng mọi người vẫn cố thì thầm cho nhau nghe. Mỗi người trong số họ đều theo đuổi những ý nghĩ riêng của mình, nhưng với những người có trách nhiệm, có kinh nghiệm thì đều hiểu rằng họ đang được chứng kiến những sự kiện động trời có một không hai. D. Marnin bỗng nhớ rằng con vẹt xám Châu Phi Antoine mà anh đã hứa với Lily là anh sẽ chăm sóc nó cho đến khi cô ổn định được cuộc sống ở Paris chưa được ăn gì từ sáng đến giờ. Anh đã nghĩ là mình có thể ngủ lại trên cái ghế tựa trong phòng làm việc của ông Đại sứ nhưng đến giờ anh lại quyết định rằng đây có thể là cơ hội tốt để quay về nhà cho con vẹt ăn và tắm rửa, thay quần áo. Anh chỉ mất ba phút để lái xe qua những con phố vắng lặng để về đến nhà.

Khi vào đến phòng khách thì Đinh Triệu Dã bước tới chào anh vồn vã. Anh bật vội chiếc đèn bàn lên.

- Anh không vui vì gặp tôi ở đây đúng không - Dã nói với một nụ cười buồn thảm hại - người đầu bếp của anh để tôi vào nhà.

- Anh đợi tôi ở đây lâu chưa?

- Khoảng ba tiếng rồi.

- Tôi đã rất lo cho anh - D. Marain nói - mỗi lúc nghe tiếng đạn pháo nổ ở bên đấy, tôi lại sợ là nó rơi trúng anh rồi.

- Trận pháo kích không nguy hiểm lắm. Họ không cố tình giết chết chúng tôi mà chỉ muốn dọa cho chúng tôi sợ và bắt chúng tôi phải ra đầu hàng thôi.

- Thế ngài Tổng thống sao rồi?

- Ông ấy vẫn ổn. Cả cậu Nhu nữa. Đám tướng lĩnh vẫn nghĩ là chúng tôi còn đang ở trong Phủ Tổng thống. Chúng tôi có thể kiểm soát được họ qua những cuộc trao đổi trên sóng radio của họ, còn họ lại không biết chuyện ấy. Khi chúng tôi ra đến ngoài, cậu Nhu cho là chúng tôi nên chia nhau ra vì như thế mỗi người chúng tôi sẽ có cơ hội lớn hơn để trốn thoát nếu chúng tôi không đi cùng nhau. Cậu ấy và ngài Tổng thống cứ khăng khăng là tôi phải tự xoay sở lấy một mình. Tôi không phải là người nổi tiếng nên có thể trốn ra nước ngoài và đợi cho đến khi mọi chuyện yên ổn.

- Thế còn họ thì sao?

- Cậu Nhu nói rằng chúng tôi nên chia nhau ra, một người nên trốn đến vùng đồng bằng gặp tướng Cao, người khác nên chạy đến Quân đoàn II, tới gặp tướng Nguyễn Khánh ở Pleiku hoặc chạy ra Huế tìm cậu Cẩn. Cậu Nhu nghĩ rằng, ngay cả khi một người trong số họ có bị bắt thì bọn họ sẽ không giết được nếu như những người khác vẫn còn sống.

- Làm vậy không được đâu - D. Marnin trả lời - Sư đoàn 7 đã đầu quân cho đám tướng lĩnh rồi và họ đang phong tỏa toàn bộ các hướng phía Nam và phía Tây Sài Gòn. Tướng Cao sẽ không thể kiểm soát được vùng đồng bằng lâu nữa đâu. Còn tướng Nguyễn Khánh cũng gia nhập vào đám đảo chính rồi.

- Ngài Tổng thống sẽ không bỏ mặc em trai mình đâu. Ông ấy nói rằng đám tướng lính rất ghét cậu Nhu và sẽ giết chết cậu ấy. Cơ hội duy nhất của cậu Nhu là khi cả hai người bọn họ đi cùng với nhau. Tổng thống nói rằng: “Chúng tôi đã luôn sát cánh ở bên nhau trong suốt những năm qua vậy thì tại sao chúng tôi lại phải chia rẽ nhau vào lúc nghiêm trọng này?”

- Niềm tin của tôi ơi! Cái đó rất hay, rất hay - con vẹt Antoine bỗng thốt lên.

Hai người cùng gượng cười. Nhưng tiếng cười ấy dường như càng làm cho Dã đau thắt ruột hơn và anh ta suy sụp hoàn toàn, khóc nậc lên và toàn thân như đổ gập xuống. D. Marnin rót cho bạn mình thêm một cốc rượu mạnh.

- Liệu các anh có giúp họ được tị nạn không? - Dã hỏi anh sau khi đã nguôi cơn xúc động.

- Tôi không biết - đến lượt D. Marnin buồn bã trả lời.

- Các anh có thể cho chúng tôi bay ra khỏi đất nước này không? Ông Đại sứ đã nói với ngài Tổng thống rằng chúng tôi sẽ có một lối thoát an toàn nếu như ông ấy từ chức.

- Vâng - nhưng vào lúc đó ông ấy chưa chắc chắn là liệu cuộc đảo chính có thành công hay không. Nếu như tôi có...

- Tôi biết rồi. Đó cũng chính là lý do vì sao tôi đến đây. Nhưng anh có quyền quyết định đâu cơ chứ.

- Theo như tôi đoán thì ông Đại sứ sẽ làm tất cả những gì mà ông ấy có thể để tránh xa ngài Tổng thống.

- Cậu Nhu cũng nghĩ y như thế. Cậu ấy nghĩ là ông Sedgewick muốn tất cả chúng tôi đều phải chết, chừng nào mà chúng tôi còn sống thì đám tướng lĩnh sẽ xem việc họ nắm quyền lực chỉ mang tính tạm thời.

- Tôi không biết Đại sứ Sedgewick nghĩ gì, nhưng tôi biết là ông ấy muốn sự can dự của Mỹ tỏ ra càng ít bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu, (khi nói điều này, D. Marnin lại nghĩ tới cuộc nói chuyện của anh Mecklin với ông Thuần qua điện thoại). Xin lỗi, chờ tôi một lát.

D. Marnin chạy đi cho con vẹt ăn, tắm táp qua loa một lát rồi thay quần áo. Và khi làm những thứ này, anh luôn nghĩ xem mình có thể làm gì để giúp Dã. Anh biết rằng bên CIA đã sẵn sàng đưa ra nước ngoài gần chục người ủng hộ ông Diệm trong trường hợp họ bị các tướng lĩnh bắt được hoặc xấu hơn thế. Liệu rằng họ có chấp nhận làm như vậy với trường hợp của Dã.Với ông Diệm và ông Nhu, qua Aylward anh cũng đã biết rằng chiếc chuyên cơ của ngài Đại sứ đã được chuẩn bị sẵn sàng và có thể cất cánh vào bất cứ lúc nào. Chỉ cần một cuộc điện thoại của anh gọi tới nói rằng anh đang làm theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao thì có thể nhanh chóng đưa tất cả bọn họ đến nơi an toàn nếu như họ còn sống. Nhưng nếu anh làm như vậy, Đại sứ Sedgewick sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho anh. Anh biết điều đó. Nó sẽ đồng nghĩa với dấu chấm hết cho sự nghiệp còn quá non trẻ của anh. Anh vò đầu, bứt tai nghĩ đi, nghĩ lại và cuối cùng đi đến quyết định đây là trách nhiệm mà ông Đại sứ phải làm.

Thế nhưng để tránh làm phiền Đại sứ Sedgewick - người chắc chắn sẽ nổi giận lôi đình nếu bị đánh thức vào giờ này - D. Marnin cũng đi đến quyết định thật trung thành với nguyên tắc là sử dụng kênh liên lạc bảo mật, gọi điện tới báo cáo cho ngài Bilder báo cáo về hoàn cảnh của Dã và xin chỉ thị của ông ấy xem anh nên gọi điện cho ngài Đại sứ hay cho ông Smith, Quyền trưởng lưới điệp báo của CIA.

- Không thể thế được - ngài Bilder trả lời dứt khoát sau khi đã nắm được tình hình - Cậu hãy cố gắng đuổi thằng Dã ra khỏi nhà cậu đi. Tôi sẽ làm phần còn lại. Đừng nghĩ đến chuyện đánh thức ông Đại sứ vào lúc này. Tôi đã đọc chỉ thị của Bộ Ngoại giao rồi. Để nó đấy tôi xử lý cho.

Dã vẫn đang ngồi ở phòng khách và nắm chặt cái ly trên tay một cách sốt ruột mặc dù anh vẫn chưa uống một chút nào từ nãy đến giờ. Anh cũng không hề thay đổi tư thế ngồi như vậy từ lúc D. Marnin đứng dậy.

- Dã này, tôi chỉ có thể nói với anh điều này. Anh luôn luôn được chào đón nếu anh muốn ở đây đến lúc nào cũng được - D. Marnin nói rất thành thật.

- Người đầu bếp của anh đã nhìn thấy tôi nên chẳng có gì có thể bảo đảm là không còn ai khác biết thêm về điều đó. Hơn nữa, tôi nghĩ là anh và Đại sứ quán của anh sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều nếu tôi bỏ đi đâu đấy.

D. Marnin không thể phủ nhận điều đó cũng như không thể nhắc đến việc xin tị nạn. Và anh còn phải quay trở lại nơi làm việc nữa.

- Tôi sẽ không còn ở đây lúc anh quay về nữa đâu -Dã nói - Nhưng tôi muốn gọi mấy cuộc điện thoại. Và tôi không thể rời khỏi đây trước khi trời sáng. Tôi đã mang theo mấy bộ quần áo bà ba mà tôi đã chuẩn bị cho những tình huống khẩn cấp. Tôi sẽ cố gắng dấu mình trong đám đông ngay khi trời vừa sáng.

Họ bắt tay nhau lần cuối cùng. Điều cuối cùng mà D. Marnin nghe được khi anh ra khỏi nhà là tiếng nhại lại của con vẹt Antoine:

- Ma foi, c'est très inte ’ressant - Niềm tin của tôi ơi, cái đó rất hay.