(Trích tác phẩm: Sách - Đảo nguyệt quế)
(Rứt một xiềng xích sắt dễ hơn rứt một vòng hoa -Abbé Constant)
Nếu cuối đời đến với Thiên Thần của cái Chết, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không nổi loạn mà lẳng lặng đi theo nàng. Mi có quên gì không? Tôi trả lời: có lẽ không. Nhưng nếu nàng hỏi: mi có tiếc thứ gì để lại đây? Tôi sẽ trả lời: những bông hoa.
Tôi sẵn sàng và dễ dàng từ bỏ mọi thứ có trên thế gian, nhưng hỡi ôi, hoa, những bông hoa!
Thiên Thần nói: mi sẽ thấy thế giới của nhận thức còn giàu hơn thế giới của hình ảnh. Ở đó mi sẽ thấy. Điều này giống như khi mi rơi vào thiền định sâu. Đứt đoạn khỏi trái đất sẽ không có trải nghiệm nào của mi ngoài trạng thái lâng lâng phi vật chất; mi sẽ lơ lửng một cách hạnh phúc và giải thoát trong vô tận.
Trong những khoảnh khắc vĩ đại của tình yêu, khi bức tường giữa bên ngoài và bên trong sụp đổ, mi sẽ không bao giờ biết đâu là ngoài và đâu là trong, thân xác thành linh hồn và linh hồn thành thân xác.
Trong những khoảnh khắc vĩ đại của tôn giáo, khi bức tường giữa ở đây và bên kia sụp đổ, mi sẽ không bao giờ biết đâu là đây và đâu là bên kia; mi sẽ sống trong trạng thái ý thức riêng biệt về bản thân chấm dứt, mi sẽ trải qua những mức độ tinh thần hướng về Thượng Đế, và sau cùng mi đạt tới Thần, là lúc mi tới đích.
Tôi nói: Hỡi Thiên Thần Thiêng liêng! Trong đời sống của mình ta đã tham dự vào ân sủng biết tự nguyện cam lòng theo những quy luật của sự sống. Ta cứu vớt mình bằng sự sùng kính, không cần cưỡng ép hoặc thúc giục.
Giờ đây ta cũng ra đi vì cần, bởi ta mừng đã biết cam lòng, và bởi ta biết, thế giới mà ta sắp bước vào cao hơn thế gian này. Không có gí để đau đớn. Trong tim ta an bình ngự trị. Nhưng những bông hoa, ôi những bông hoa!
Khi vẫn còn là trẻ con, tôi nhớ một chân đồi, nơi có thể bước vào một thung lũng lạnh, tôi ngồi trên bức tường cạnh một ngôi nhà đổ nát, trước mắt là những bông cúc tím dại mọc trong bóng râm. Cùng lũ bạn thơ ấu xưa, chúng tôi từng bảo nhau cúc tím dại là lính Hungary, còn hoa bồ công anh là quân địch.
Chúng tôi vặt trụi hoa bồ công anh ở những nơi đến, nhưng không bao giờ làm gì với hoa cúc tím dại. Giờ đây, khi ngồi trên bức tường này tôi nghĩ, biết bao lính vệ quốc, cả một tiểu đoàn, đóng trại hoặc chuẩn bị tấn công, đã bỏ qua những trận đánh với hoa bồ công anh. Tôi mừng cho họ và mong họ chiến thắng.
Rồi lúc mười tám tuổi thì phải, có một sự kiện đặc biệt làm tôi nhớ đến. Tại sao con người lại ngắt hoa và lấy hoa để trang trí cho họ? Sự bắt buộc bí ẩn nào xảy ra khi vào tháng Ba chúng ta đi dọc suối để ngắt hoa tuyết, còn tháng Năm vào rừng hái hoa chuông, và tháng Sáu đi hái những bông hoa thuốc phiện dại và hoa lúa mì giữa những luống đất cày?
Tại sao lũ con gái vui sướng khi được tặng hoa? Tại sao có những bình hoa trong phòng, cắm đầy mai trắng mùa xuân và cúc vàng mùa thu? Tôi chỉ nghĩ đến thế lúc ấy. Và tôi quyết định sẽ nghĩ về điều này, sẽ chỉ yên lòng nếu tìm ra bí ẩn của nó. Tôi sẽ viết về tâm lí học của việc ngắt hoa.
Tất nhiên lúc đó tôi chả biết mảy may gì về tâm lí học. Tôi chỉ hiểu, linh hồn đi ngắt hoa. Tại sao? Tận hôm nay tôi cũng không biết. Chắc có một cái gì họ hàng giữa chúng.
Một người nào đấy càng có vẻ linh hồn, càng là hoa. Đàn bà. Đặc biệt là bọn con gái. Thiếu nữ. Trẻ em. Đặc biệt là trẻ sơ sinh. Những cái tên con gái: Iboly (Hoa Tím), Rozsa (Hoa Hồng), và tên đàn ông nữa: Nárcisz (Tóc Tiên).
Từ bấy đến nay đã hai mươi lăm năm trôi qua, nếu nhớ lại ước nguyện thuở ngồi trên bức tường, tôi lại cảm thấy mình cần phải trả món nợ này.
Việc đầu tiền cần nói đến là tên của hoa. Tên của hoa là những từ đẹp nhất. Trong tiếng Hungary, cũng như trong tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc Latin. Tôi tiêu khiển nhiều buổi chiều hoặc buổi tối, đặc biệt vào mùa đông, cạnh lò sưởi, vào việc kiếm tìm tên hoa trong các từ điển để ngây ngất thưởng thức. Nhiều lần tôi tìm cho chúng những hình ảnh minh họa hoặc cả một câu chuyện.
Tôi chỉ nói một ví dụ. Một lần vào mùa xuân, tôi tìm thấy ở hướng bắc, nơi có bóng râm và kín đáo một bông hoa trắng. Dù ngay từ thời học sinh tôi ưa thích các từ tên hoa, nhưng tôi không biết tên loài hoa này.
Nó lớn lên giữa những cái lá của hoa chuông, lá của nó có lông tơ, giữa năm, sáu, thậm chí bảy cánh nhung mềm trắng là một nhị vàng. Hương của nó? Nói thế nào nhỉ? Hơi nồng, thoảng, như kiểu hương hoa huệ, nhưng ngọt và nhẹ hơn, tinh tế, tươi mát, như thể không vương tính vật chất. Tên Latin của nó là Anemona, tôi gọi nó là Anemona Trắng.
Tôi biết một nơi đầy loại hoa này. Giữa tháng Năm tôi đến nơi đó, lần thăm viếng này mang rất ít tính chất trần gian. Tôi cúi đầu xuống bụi hoa, có cảm giác năm mười tám tuổi mình đã gặp người con gái suốt đời mình mong gặp, nàng thiếu nữ, thơ ngây như con trẻ, tóc vàng, da trắng như cánh hoa Anemona, chuyện trò với tôi, từ đôi môi thoảng mùi hương dịu. Tình yêu, tôn giáo, cái đẹp, linh hồn hòa hợp, như sự hoàn thiện của một khát vọng không bao giờ thỏa mãn.
Hương và tên hoa này ngay lập tức, cũng từ bấy đến nay làm tôi nhớ đến sông LÉTHE (ở thế giới bên kia), nhớ đến nước của dòng sông "Lú" theo truyền thuyết Hi Lạp cổ. Có một quan hệ gì đấy giữa cái tên, hương, màu trắng tinh khiết của hoa Anemona và sự lãng quên: niềm hạnh phúc, có một thức uống bằng sự bí ẩn lạnh giá của nó gột sạch những kỉ niệm của tôi, để tôi có thể lại bắt đầu sống một lần nữa, như thể sinh ra lần đầu.
Mùa thu tôi đến nơi ấy lần nữa, cây hoa bọc trong một khối bông trắng đặc biệt, tôi bắt gặp những đôi mắt nhỏ li ti, như thể một đội quân nhỏ sinh ra từ cái phôi hoa. Cực kì mong manh, Tôi cứ bần thần mãi, sao cây hoa có thể quấn những đứa con của mình vào chiếc chăn bông trắng, nhẹ, ấm áp đến thế, để khi mùa đông đến, chúng chui vào đất và không bị lạnh.
Giá có ai hỏi tôi thích sống với ai, tôi muốn trả lời: với nàng con gái Anemona trắng. Nhìn vào nàng, tôi quên hết những gì xung quanh, như thể mặt nước sông Léthe từ đôi mắt, từ sự động chạm êm như nhung với nàng, cần phải bảo vệ nàng như bảo vệ một cánh hoa nhung mềm hắng muốt.
Jung gọi người đàn bà mà đàn ông từ khi sinh ra đã mang trong trái tim và thực chất chỉ yêu và vĩnh viễn yêu là Anima. Anima và Anemona. Hoa linh hồn. Hoa hạnh phúc. Bông hoa của trinh nữ vĩnh cửu.
Giờ đây khi tôi hỏi: tôi có thể dừng lại mà không ngắt hoa? Không. Trong điều này có gì đó tự thân. Tôi biết, không hay nếu con người giết súc vật và ăn. Không hay nếu chặt cây, dùng cây để xây dựng hoặc đun nấu. Không hay nếu tước quyền sống của các thực thể sống, chỉ để nhồi vào dạ dày hoặc thỏa mãn sự hưởng lạc. Chỉ trừ một điều duy nhất: ngắt hoa.
Không có gì dở nếu tôi ngắt hoa, mang về nhà, cắm vào bình và cứ nửa tiếng ngây ngất ngắm một lần, sao hoa đẹp đến thế. Hoàn toàn bình thường khi con người ngắt hoa, bện thành vòng hoa, cài vào khuy áo hoặc cắm lên mũ. Tại sao? Tôi không biết.
Trong cái hành động cực kì đơn giản là con người ngắt hoa, chứa đựng nhiều bí ẩn. Bọn trẻ con ngắt vô tư, bọn con gái ngắt một cách vui sướng điên rồ, những kẻ đi du lịch ngắt hàng bó lớn, từ các khu vườn người ta cắt hoa từng khóm, như thể hoàn toàn tất nhiên và cần phải như thế.
Thế gian cũng là một thực thể sống và ngắt hoa là một sự giết. Nhưng được phép. Chẳng ai ngăn cản đừng hái violet tím bên bìa rừng tháng Tư. Một huyền bí lạ kì khiến ta bất lực đứng và đưa mắt ngạc nhiên dõi theo.
Trong các cuốn sách tôi đọc lúc rảnh, bao giờ cũng có hoa. Buổi trưa tôi sẵn lòng ngắt hoa rozmaring, hoa sim, hoa muối dại tím, ngắt lá cây vả, cây repkeny. Tôi đem về nhà gần như tất cả những loại hoa gì bắt gặp giữa đường, và thích hái.
Trước kia tôi có nơi sưu tập hoa-khô, nhưng rồi tôi bỏ, đấy là công việc của các viện bảo tàng. Trong sổ tay ghi chép lúc nào tôi cũng mang theo vài nhánh oải hương (levendula) tím. Tôi hái mùa thu năm trước, thỉnh thoảng tôi lôi ra, vò nát và sặc vì hương của chúng.
Có một phương cách duy nhất bảo vệ sự ảnh hưởng của con người, một phương cách duy nhất khiến con người vẫn vô tội khi đã phạm tội. Phương cách duy nhất là vẫn như còn lại trong đời, dù đã chết. Đấy là huyền bí của tôn giáo, tình yêu, nghệ thuật. Và của việc ngắt hoa.
Tất cả đàn ông đều trải qua cảm giác người con gái mà họ yêu, khi còn là cô dâu mới dễ thương, nồng ấm làm sao, sau hôn nhân họ đành phải chịu đựng những khiếm khuyết của nàng như thích chỉ huy, đồng bóng, tầm thường. Và nếu không phải trải qua, họ chắc chắn vẫn sẽ biết, bởi vì kinh nghiệm này là một bến đỗ cần thiết không thể bỏ qua trong số phận đàn ông.
Biểu tượng duy nhất dành cho cô dâu: hoa. Bởi vậy cần "hái" cô đem về cùng hoa, và bởi vậy chú rể không thể đón dâu nếu thiếu hoa. Người đàn ông tưởng lấy hoa về làm vợ. Nhưng không. Quan niệm đàn bà có họ hàng với hoa cần bỏ đi, vì sai. Đặc biệt, khi nguồn gốc và cội rễ những đặc tính trong đàn bà như giả dối, hư, hay chọc tức, làm người khác vỡ mộng và chán nản, không phải từ sự ích kỉ.
Tôi cho rằng thế này: nếu bằng những đặc tính trên đàn bà bảo tồn được sựsống riêng và bản thân mình cùng với chúng, họ vẫn có quyền được bảo vệ, kể cả lúc đối đầu với đàn ông, khi đó họ vẫn có thể là hoa. Bởi vì tôi không tựru ngủ mình, số phận của cây cỏ không hề lí tưởng, mà cực kì ích kỉ, bởi cỏ cây cũng cần trải qua nhiều khó khăn khổ sở lạ lùng.
Cứ nghĩ đến công việc của những cái rễ là đủ: không phải trò đùa khi nuôi dưỡng cây. Đấy không phải cuộc tranh đấu lý tưởng vì quyền sống vì chỗ, vì ánh sáng. Nhưng không sao: sự duy trì mầm sống riêng đã chứng minh đến cây cỏ cũng cần phải tỉnh táo và ích kỷ ra sao.
Ở đàn bà, những đặc tính làm người khác căng thẳng, mất hứng, suy sụp và sau cùng cướp đi cái đẹp lớn thứ hai của cuộc đời không nảy sinh từ bản năng duy trì sự sống tự nhiên của đàn bà. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa đàn bà và hoa. Bởi vậy đàn bà không phải là hoa. Cái xấu từ sự ích kỉ trắng trợn luôn luôn có thể tha thứ và tha thứ được. Bởi trong điều ấy chúng ta bình đẳng như nhau, và chẳng làm gì nổi nhau.
Còn cái xấu trong đàn bà thì độc ác, hủy diệt và ma quỷ, một thứ chính thế có thể tầm thường và đê tiện, như một người đàn bà có thể đẹp và quyến rũ, một thứ độc ác vô lí, vô nghĩa, không liên quan gì đến một số phận tự nhiên. Đây không phải thứ nhu cầu cần thiết trong cái Tôi, mà là sự phục vụ của những Quyền lực xấu nằm ngoài bản chất. Tôi không nói nó có thể khác, mà nói, nó là như thế.
Tôi chưa tìm ra kinh nghiệm nào chấn động hơn kinh nghiệm về đàn bà của tôi. Không chỉ một lần và đột nhiên nhận ra. Các Thần hộ mệnh của tôi tha cho tôi, bởi biết rằng tôi khó có khả năng chống đỡ. Bởi vì đàn bà đối với tôi, rất tự nhiên, và điều này tất cả đàn ông lập tức hiểu ngay, quan trọng hơn bản thân tôi rất nhiều. Từ từ, sau rất nhiều năm, mỗi lúc một quen dần, sau cùng khi tôi đã thấy rằng, tôi có thể chịu được đàn bà, lúc đó trong tôi đã đủ sức mạnh và lợi thế.
Bù đắp cho người đàn bà hiện thực, như người ta nói, trong linh hồn đàn ông phát triển một bóng dáng chân chính. Người ta gọi linh hồn mang chất đàn bà trong người đàn ông là Anima, là người đàn bà mà y đeo trong tim, có thể là một thực thể đã hình thành sau vô vàn đời sống trước đây của y, như ta nói, không hiện thực mà chân chính. Nhiều kinh nghiệm đã chứng minh cho nhiều người thấy, điều này đúng như vậy.
Đối với tôi điều này không nói lên gì mấy, bởi mọi khái niệm dựng lên từ kinh nghiệm đối với tôi đều xa lạ. Có thể, Anima phát triển, trái ngược với người đàn bà hiện thực, để cứu vớt người đàn ông khỏi sự sụp đổ hoàn toàn, và để y duy trì hình ảnh người đàn bà chân chính trong đời và trong sự tỉnh táo.
Shelley cho rằng: nhiều người yêu một nàng Antigoné, bởi vậy ít đàn bà trần thế. Ý kiến của Rilke khác: theo chàng cần phải chinh phục người thiếu nữ-linh hồn bên trong, và nàng là nhiệm vụ chân chính của một đời đàn ông để đi chinh phục và sống cùng suốt đời. Nhiều ý kiến, lắm dạy dỗ. Nhưng hai ý kiến thế là đủ.
Cái nổi lên ở đây tôi không cho là vấn đề. Cũng không có ý định giải quyết. Và thực chất ý đồ giải quyết trong những trường hợp tương tự đều không khiêm tốn cho lắm. Tôi chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa đàn bà và hoa.
Chắc mọi người còn nhớ đến một tấm ảnh, người ta mang hoa đến cho một người đàn bà trẻ, và cái tiếp theo: cô gái ôm ghì bó hoa vào ngực, phía trái tim, theo cái cách phù hợp với vô vàn điều kiện của sự quyến rũ và làm dấy lên một ảo ảnh hoàn hảo.
Nàng áp nửa gương mặt vào hít hương thơm, và mỉm cười. Hình ảnh này trong đời ít nhất người ta nhìn thấy đến hai trăm lần, trên ảnh chụp còn nhiều hơn nữa. Tôi chưa bao giờ thấy các cô gái làm khác, cũng như chưa bao giờ tôi nhìn thấy con mèo rửa mặt theo hai kiểu.
Tất cả mọi nơi đều là sự nhẹ dạ và quyến rũ trưng trong tủ kính, đúng nụ cười ấy, cái cách cúi sát mặt vào hoa ấy, đúng sự cảm động giả dối ấy, sự gắn bó với hoa. Tấm ảnh muốn trưng ra, đây là cô gái chân chính, cô gái trong linh hồn đàn ông, là bông hoa mà người đàn bà hiện thực chỉ là một hình dạng hư hoại của nó mà thôi.
Nếu nhìn thấy một người đàn bà đẹp, tôi luôn say mê nhìn tới nhìn lui, bởi tôi bơ vơ không được bảo vệ vĩnh viễn chống lại đàn bà đẹp, nhưng cho dù nàng đẹp lộng lẫy, quyến rũ đến đâu tôi vẫn nhìn thấy trong nàng ở đâu cũng có sự ghen tị, trả thù và thuốc độc.
Sắc đẹp không đánh lừa được tôi nữa. Nàng không phải hoa. Dù nàng rất muốn. Dù tôi rất mong mỏi. Dù nàng rất mong đợi. Nàng mỉm cười với tôi, nhưng tôi biết bí ẩn của nụ cười này là ressentiment (oán giận). Tôi không muốn chết già trong ý nghĩ này. Còn khối thứ khác cần hơn.
Tôi không cùng quan điểm xấu như của Dante Gábriel Rossetti về đàn bà, gần như trong sự kính trọng tôn giáo khi nói: đàn bà cần phải tha hóa để cứu vớt sắc đẹp của họ. "Đôi khi em làm như thể em không phải là em, mà chỉ là ý nghĩa của một cái gì có.”
Tôi cũng không tin đàn bà đúng y như hoa, là áo quần sặc sỡ của nữ thần Kali, Magna Mater, là phép thuật nhiều màu của Maja. Đàn bà biết rất rõ, vô ích lụa là, nhung gấm, đồ trang sức, phụ tùng tóc, phấn màu, son, chì đen, nụ cười, vô ích toàn bộ phụ tùng hóa trang gây điên rồ, vô ích và vô ích.
Cần tha thứ sự phản bội của đàn bà (ngoài ra cần tha thứ toàn bộ những gì xấu họ làm để chống lại chúng ta), bởi vì dù họ phản bội đàn ông, nhưng số phận của kẻ bị làm hư hỏng lại chính là số phận riêng của họ. Đàn ông thoát. Đàn bà thất bại trong sự hư hỏng đó, xấu đi, già đi trong đó. Đàn bà thất bại chính trong cái mà vì thế họ phản bội: trong sắc đẹp của họ.
Như một quy tắc có thể nói: Nếu một người nói dối người khác, gây tác hại, lừa người khác, làm tổn thọ kẻ khác, có thể đã cướp châu báu vàng bạc của đời người ấy. Chưa chắc. Nhưng có thể coi như thế. Điều chắc chắn là đàn bà nói dối bản thân họ bằng sự nói dối, làm tổn thọ mình bằng sự tổn thọ, lừa bản thân mình bằng sự lừa gạt. Chắc chắn như thế, không có ngoại lệ. Sự phản bội người khác đập lại ngay chính bản thân mình, có thể người khác không tin nhưng tôi tin. Kẻ nào rút gươm với người khác, chưa chắc đã đâm được, nhưng chắc chắn đánh mất bản thân mình vì cây gươm.
Tôi cần nói thêm: hoa có quan hệ với người đã chết. Bởi vậy nghĩa địa cần trở thành một khu vườn. Mọi bông hoa đều nằm trong quan hệ với cái chết, nhất là những bông hoa đã ngắt, bó hoa hoặc vòng hoa. Thật đặc thù, đúng không? Cô dâu và người chết nhận bó hoa. Quả thật ai chết, khi tiến hành đám cưới và cái chết giống như đêm tân hôn là thế nào?
Schuler, kẻ chắc chắn đã nghĩ nhiều về điều này (nhưng vĩnh viễn thiệt thòi là chàng viết quá ít), chàng nói: cỏ cây là tượng trưng của sự sống mở. Sự sống mở? Cái gì vậy? Một sự sống, tràn qua mọi giới hạn nhìn thấy được của đời sống. Trước tiên thẩm thấu qua một sự sống trước và sau sự chết, trước và sau sự ra đời, một sự sống mà giới hạn của đời sống không phải là giới hạn, nó mở, ra phía trước và phía sau, xuống dưới và lên trên. Điều này tất nhiên chỉ nói với những kẻ biết rằng cái chết không phải là sự tiêu hủy.
Cỏ cây sống trong hai thế gian và buộc hai thế gian lại: dưới trần thế, nơi có những kẻ đã chết, nơi có vật chất, và bên trên trần thế, nơi có những linh hồn và các tinh thần. Bởi vậy sự sống của cỏ cây mở, giống như cây cầu hoặc cái cổng, mở ra ngoài và vào trong, mở lên và mở xuống. Sự sống của nó mở hơn của con người, kẻ đã tách rời khỏi đất và bất lực về phía tối tăm dưới lòng đất.
Hoa giống như một bộ phận tinh thần của cỏ cây: một tượng trưng linh hồn. Phần tối tăm, rễ cây là của những người chết, những kẻ thân xác nằm bên dưới; hoa, phần sáng, là của những kẻ đã chết nhưng linh hồn nằm bên trên. Khi con người đặt hoa lên mộ, họ chỉ ra một nạn nhân. Và "con người trong mọi trường hợp, dâng hiến cho cái chỉ ra nạn nhân". Dâng hoa chỉ có nghĩa ngần này, trở thành nạn nhân của hoa. Của linh hồn.
Linh hồn tự dâng hiến mình cho linh hồn. Linh hồn ta bước vào sự tiếp xúc với linh hồn của những người đã chết. Đây là quan hệ họ hàng của cô dâu và kẻ đã chết. Cả hai đều là những tượng trưng của sự sống mở, thông qua họ, sự sống tự do đi lại từ đó tới đây, từ đây ra kia, như trên cầy cầu, những kẻ đang ở đây, nhưng thế giới bên kia cũng có, những kẻ mà sự sống của họ vượt qua giới hạn đời sống, và những kẻ vắt kiệt đời sống của mình từ nguồn siêu trần thế vĩnh cửu, vì đấy là các linh hồn.
Nơi đời sống mở rộng và vượt qua tính chất trần tục, nơi đó luôn luôn trở nên sáng sủa. Thiên nhiên trở nên sáng sủa như thế với mùa xuân, khi đã bước quá giới hạn mà vật chất dâng đầy cho nó. Người chết và cô dâu là như thế. Ngắt hoa trên cánh đồng là một thao tác của thế giới bên kia, là sự hồi hộp phi hiện thực và một cách nguy hiểm.
Linh hồn ngắt đứt với bản thân mình và đi về phía sự sống mở, nơi không có giới hạn. Tự bện bản thân mình vào vòng hoa. Còn vòng hoa, bó hoa là vương miện, là hào quang, là mặt trời, là sự ca ngợi, là sự quay trở lại của linh hồn với cánh đồng hạnh phúc thiên đường, nơi một lần nữa nó biến thành hoa.
Quay trở lại điều nói trên một lần nữa, giờ đây con người hiểu rõ hơn cô dâu, người mà chú rể phải mang hoa đến rước, tại sao lại có nghĩa là đêm tân hôn, là sự sống mở, nơi đàn ông biến thành đàn bà, và đàn bà thành đàn ông, và như vậy không dừng lại ở giới hạn mà thiên nhiên đã tạo sẵn, theo hình vòng tròn, như thế gian, như mặt trời, như vòng hoa, cái chết và sự sống cùng nhau, đàn ông và đàn bà, như trong tình yêu trao nhau sự sống là vĩnh cửu: sự ra đời, đời sống, cái chết và sự tái sinh.
Hoa là biểu tượng duy nhất chỉ ra ý nghĩa sự sống mở, và hoa chỉ có ý nghĩa ấy, khi người đàn bà nhận hoa, và giơ tay về phía kẻ dâng tặng, nói: chúng ta hãy mở rộng về phía nhau và hãy liên kết mọi sự sống vào với nhau. Thật đặc biệt đêm tân hôn của con người chỉ mở ra cái có ở dưới. Bởi vậy quái vật mới ngoi lên. Quái vật không là gì khác, ngoài cái rễ, chỉ là cái rễ không là gì khác, sống trong bóng tối, trên nó không có hoa.
Tôi đã sống ba năm trong một ngôi nhà vườn, nơi có khóm hoa nhài mọc dưới cửa sổ, và trong vườn nhà hàng xóm bên cạnh có cây ôliu. Cuối tháng Năm khi hoa nhài và hoa ôliu nở, hai tuần liền, qua cửa sổ để mở lúc nào cũng có hương nhài và hương ôliu.
Nhiều ngày liền tôi như ngất lịm đi theo đúng nghĩa đen bởi mùi hương, tôi ngất ngây cảm nhận sự thăng hoa của người âm, sức mạnh kinh hoàng của sự sống tràn ngập từ thế giới bên kia. Đặc biệt vào buổi bình minh, lúc yên tĩnh nhất, giữa một đến ba giờ sáng hương thơm mạnh đến mức tôi ngồi bên cửa sổ và thả mình theo những hình ảnh mà trạng thái say ngây ngất này tạo dệt.
Tôi đi dạo trong các công viên lớn, nửa tỉnh nửa mê, nơi có những bụi hoa hồng lớn, giữa những cái gai của chúng, những bông hồng Phục sinh nở rộ. Rồi tôi lang thang ra cánh đồng: bát ngát là hoa thuốc phiện dại đỏ sẫm, hoa cúc vàng và hoa lúa mì xanh. Rồi bước nhẹ nhàng ven bờ suối trong vắt, những cây hoa tóc tiên mọc đầy trên những khoảng trống. Trên đầu tôi những cành hoa mận, hoa anh đào, hoa táo rủ xuống.
Tôi bay trên cao, tận cùng trong muôn vàn sặc sỡ hoa nở, nhìn thấy hằng hà sa số sự ra đời của các tiên đồng, các con thú, các con bọ, chim, cá và những loài lưỡng thê, như thể từ bên dưới người ta đào vô vàn lỗ vào lòng đất, và từ đấy, từ tối tăm chúng nhao nhác lộ ra ngoài ánh sáng.
Tất cả mọi nơi, mọi cách, mọi khả năng đều đủ để chúng chui ra, không giấu giếm, không xấu hổ, tham lam và khao khát sống, như nước nguồn sủi bọt phụt lên từ lòng đất. Đây là khát vọng ánh sáng vô tận của sự sống tăm tối, và khát vọng linh hồn bướng bỉnh của đất, và từ mơ hồ các loại, các chủng của các thực thể sống trồi lên.
Linh hồn ngắt hoa. Hoa là hình ảnh duy nhất trên trái đất để linh hồn nhận ra bản thân nó. Rễ của ta nằm trong bóng tối, và ta lớn lên về phía ánh sáng. Và khi ta ngắt hoa, bó thành bó hoặc kết thành vòng, gài lên khuy áo hoặc cài lên mũ, ta làm ta nở hoa, ta như một bông hoa. Hương thơm, màu sắc giúp ta sống trải qua phép mầu nhiệm không thể hiểu nổi của sự huyền bí. Bởi vì linh hồn có hương thơm, Heracleitos nói: các linh hồn phi vật chất nhận ra nhau ở thế giới bên kia từ mùi hương của chúng - hai psuchai osmontai kat"Haidén.
Cái gì là bản chất của hoa? Tôi không biết và có lẽ không bao giờ biết. Nhưng khi ngắt hoa, tôi biết, tôi biến thành hoa, và như vậy tựa hồ như linh hồn tôi hút thân xác tôi, để tôi trở thành mùi hương và cái đẹp phi vật chất, như Anima, và điều này chỉ duy nhất một đóa hoa tím gài lên khuy áo cũng đủ chứng minh.
Ngắt hoa chỉ có nghĩa chừng này: nở hoa; và ngần này: đi qua một cánh cổng bước vào xa xôi. Khi tôi ngắt bông hoa, tôi bước lên đi qua cây cầu huyền bí. Đi đâu? Tôi không biết.
Nhưng tôi biết, tôi đang dự phần vào sự tuyệt diệu không thể nào diễn tả nổi, và tôi mở tôi về hướng bí ẩn đến tận giờ đây của sự sống.