- Thế là chúng ta may mắn đấy - Bruce Wilcox nói - Anh em nhà Ransitch ở tại U.S, làm ăn tại Las Vegas. Tôi đề nghị họ họp với chúng ta ở Seattle, theo ý muốn của anh, và họ bằng lòng. Họ cất công ty đến đây vì họ muốn họp ở nơi nào trung lập. Tôi đã thuê phòng để họp ở khách sạn Bốn Mùa vào lúc một giờ chiều ngày thứ Sáu
- Anh làm rất giỏi, Bruce
- Tôi sẽ đưa xe đến đợi đón anh tại phi trường tư nhân khi anh đến
Call chọn Seattle, vì ở đây có máy bay tư nhân chở anh đến và không xa Datatron ở San Jose, từ đấy Bruce sẽ bay đến, và vì anh còn muốn gặp Peter Held nữa
Call gác máy, nghĩ đến nhiều nơi khác cần gọi điện thoại, và bỗng anh nhớ đến cô thư ký Marybeth Allen. Beth là người rất có năng lực, cách đây bốn năm khi anh bỏ đi lên đây thì cô ta đã kiếm việc làm khác với
lương cao không khó khăn gì. Bây giờ anh lại nghĩ đến chuyện tuyển dụng cô ta lại. Anh cười nhạt. Nghĩ thì nghĩ nhưng anh sợ Marybeth sẽ không chịu lên Yukon.
Cho nên, anh bấm số máy đến công ty cho thuê máy bay có tên Mile High Air, yêu cầu được nói chuyện với Bill Bandy. Bill và người hợp tác của ông là Bing Wheeler, trước đây từng lái phản lực tư cho công ty American Dynamics. Bây giờ họ có công ty cho thuê máy bay riêng. Họ đều là phi công rất giỏi, nhưng quan trọng hơn là anh tin tưởng họ.
Anh đề nghị họ cho chiếc Hawker Raytheon đến đón anh ở Whitehorse, phi trường gần nhất phản lực có thể đáp được, và anh yêu cầu họ gửi trực thăng tới đón anh đưa đến phi trường. Anh muốn đến Seattle vào tối thứ Tư, ngủ một giấc thật say để chuẩn bị cho buổi họp vào thứ Năm.
Tiếp theo, anh cần gọi đến rất nhiều nơi. Anh thở dài, tay bấm số lia lịa.
Mặt trời còn chiếu sáng, nhưng buổi chiều bắt đầu u ám. Toby đi bên cạnh Jenny dọc theo bờ suối, nghe tiếng nước chảy róc rách. Họ đã vét cát sạn xong, Maude và Charity ngồi trên hiên nhà, uống nước ngọt trước khi Maude dẫn Jenny xuống đồi về nhà. Jenny dừng lại bên bờ suối, ngắt một ngọn lá trong bụi cây mọc bên bờ nước. Cô quay ngọn lá trong tay với vẻ trầm tư.
- Cô luôn lặng lẽ quá, - Toby nói - Nhưng thỉnh thoảng tôi nghĩ là bản chất của cô không thế. Tôi nghĩ cô không nói những điều cô nghĩ trong đầu.
Jenny nhìn ra ngoài thung lũng. Chiều hè thật đẹp, ấm áp, sáng sủa, chỉ một vài đám mây trôi lững lờ trên cao. Hình như cô không lưu tâm đến cảnh vật.
- Trước kia tôi khác với bây giờ - Cô đáp - Trước kia tôi hạnh phúc. Còn bây giờ nhiều chuyện không hay làm tôi buồn.
- Người nào thỉnh thoảng cũng có chuyện buồn hết. Năm ngoái tôi gặp nhiều chuyện rắc rối, đánh lộn, uống rượu, đủ thứ. Tôi mất học bổng. Mẹ tôi không có tiền để cho con học đại học, nhưng tôi gặp may. Khi tôi bơi thuyền tập thể dục trên sông thì tôi gặp Call. Không biết vì có phải hai chúng tôi đều có tâm sự đau buồn mà đã kết nhau hay không, điều này tôi không biết. Nhưng sau đó hai tháng, ông ấy đề nghị tôi đến làm việc cho ông. Ông đã giúp tôi ghi danh được vào trường đại học ở Calgary, mùa thu này khai giảng. Ông cho tôi mượn tiền đóng học phí, không lấy lãi. Ông nói khi nào tôi tốt nghiệp có việc làm thì trả cho ông.
- Tuyệt quá. Ông Hawkins có vẻ tốt quá nhỉ.
- Rất tốt. Nhưng Call cũng có nhiều chuyện đau khổ, như mọi người chúng ta vậy - Toby lấy cọng lá trên tay cô, quay quay trong tay mình - Vợ và con gái ông bị chết. Chuyện này làm ông đau khổ.
- Bà nội có nói chuyện này.
Toby cười, đưa cọng lá lại cho cô.
- Đấy, bây giờ cô đã biết chuyện của tôi rồi, còn chuyện cô ra sao?
Jenny quay mắt nhìn chỗ khác. Khi cô nhìn ra ngoài thung lũng, cặp mắt màu lục nhạt của cô ứa đầy nước mắt. Rõ ràng cô đã gặp chuyện không may trong đời, bỗng Toby ân hận vì anh đã hỏi.
- Nếu tôi nói cho anh biết, chắc anh sẽ không còn thích tôi nữa đâu.
Toby nắm tay cô. Bàn tay lạnh như nước đá.
- Không đúng đâu. Không có chuyện gì cô nói với tôi sẽ làm cho tôi không thích cô.
Nhưng Jenny lắc đầu.
- Tôi phải về. Bà nội tôi sắp về rồi.
Cậu không thả tay cô:
- Này nhé... tối thứ Sáu, sau khi làm việc xong, tôi sẽ về phố. Nếu cô đi với tôi, cô có thể ở lại đêm tại nhà tôi, rồi sáng mai tôi sẽ đưa cô về nhà. Mẹ tôi chắc có ở nhà, bà thích có bạn, và tôi rất thích đưa cô đi chơi.
Trông cô có vẻ như muốn từ chối.
- Đừng nói gì hết. Cứ suy nghĩ một lát đi, rồi có lẽ cô trả lời đồng ý cho mà xem.
Cô từ từ gật đầu, rất chậm rãi. Toby nhìn cô đi lui xuống đồi về phía chiếc xe tải nhỏ màu xanh cũ rích của bà nội cô. Anh tự hỏi không biết cô đã làm gì mà phải hổ thẹn đến thế. Nhưng làm gì thì làm, chuyện cũng đã qua rồi, xong rồi. Chuyện không hay đã xảy ra, nhưng cuộc đời vẫn trôi, con người vẫn tiếp tục sống.
Charity cầm điện thoại di động đi lên đồi ở phía sau nhà. Con chó Kodiak chạy lom xom bên cạnh cô, chốc chốc ngừng lại ngửi những bụi cây bên đường rồi chạy theo cho kịp cô. Con chó đã được huấn luyện để giữ nhà. Ban đêm nó ngủ với cô, và mỗi ngày nó càng làm cho cô thương mến nó.
Cô đưa tay vuốt bộ lông nó, rồi bấm số máy. Mặc dù cô rất thích cuộc sống ở Yukon, nhưng cô vẫn không khỏi nhớ gia đình và bạn bè. Thoát chết trong vụ rớt máy bay, cô thấy ranh giới giữa cái sống và cái chết rất mong manh, nên từ đó cô thường điện thoại cho những người thân thương.
Cô còn nhận ra rằng mặc dù cuộc sống ở miền Bắc thoải mái, sung sướng, nhưng cô vẫn không từ bỏ hẳn được thế giới bên ngoài như Call. Trái lại cô vẫn muốn có gia đình, muốn có con cái, muốn chúng được sống sung sướng trong không khí gia đình như cô thời thơ ấu. Cô cố không nghĩ đến Call và đến giây phút đau đớn khi cô rời khỏi nơi đây.
Điện thoại trong căn hộ cũ của cô reo, nhưng không ai trả lời, và cuối cùng máy nhắn được nối vào. Charity nghe giọng nói của Hope, rồi sau khi nghe tiếp bíp vang lên, cô để lại lời nhắn: "Bất kỳ em đi đâu, chị cũng mong em được vui vẻ. Thân thương - Chị thứ hai".
Sau đó cô gọi cho bố cô ở nhà tại Boston. Ông hỏi:
- Con có nhận được số tài liệu bố gởi đến không?
- Con đã nhận được bức thư điện tử gồm một danh sách tên của tổ tiên. Cám ơn bố rất nhiều.
- Bố cũng có gửi theo đường bưu điện một gói gồm các bài cắt ở trong báo chí cũ. Số tài liệu này nằm trong các tập album cũ của gia đình mẹ con. Bố nghĩ chắc con sẽ dùng được số tư liệu này.
- Cám ơn bố.
- Còn bọn con... McCall Hawkins ra sao? Bố thấy cái tên này nghe quen lắm. Anh ta là người có tiếng tăm trong giới máy vi tính. Bố nhớ có đọc về anh ấy trong tạp chí Times cách đây nhiều năm. Nếu bố nhớ không lầm thì anh ta trông không tệ.
Cô hiểu thâm ý của bố cô. Ông không phải điên.
- Con đã nói với bố, anh ấy chỉ là bạn thôi.
- Trong mấy năm gần đây, anh ta đi đâu biệt tích... bố nhớ anh ta gặp chuyện gia đình lâm vào cảnh bi thảm. Bây giờ thì bố nghĩ bố đã biết anh ta ở đâu rồi.
Charity không trả lời, lái bố cô nói sang vấn đề khác. Họ nói chuyện một hồi hơi lâu, ông cho cô biết tin tức về gia đình, còn cô nói cho ông nghe chuyện khai mỏ vàng nghiệp dư của cô ở đây. Khi cô cúp máy chấm dứt câu chuyện với bố, cô liền bấm số máy gọi đến New York.
Cô bạn thân, Deirdre Steinberg, không trả lời cho đến khi máy nhắn sắp sửa được nối vào.
- Thì ra cậu có ở đấy à? - Charity nói - Nếu cậu bận, lần khác mình gọi vậy.
- Không, không, bây giờ là tiện rồi. Mình à, có bạn, nhưng anh ta vừa mới ra về.
- Ai, có hấp dẫn không?
- Nói thật với cậu, lạy Chúa, Charity, mình mong cậu đừng giận. Người ấy là Jeremy. Độ gần đây, bọn mình thường gặp nhau. Mình muốn gọi cho cậu, nhưng chắc cậu biết gọi cho cậu được thật quá khó. Đáng ra mình nên gởi thư điện tử cho cậu, nhưng mình nghĩ làm thế có vẻ vô tình. Mình thật không yên tâm về chuyện này, nhưng...
- Deirdre này, được rồi. Mình không buồn đâu. Thực vậy, mình mừng cho cậu. Mình không nghĩ cậu và Jeremy có thể yêu nhau, nhưng bây giờ thì mình nghĩ... có thể hai anh chị đẹp đôi đấy.
- Cậu nghĩ thế à? - Deirdre hỏi, giọng cô ta nghe hồ hởi, khoan khoái.
Charity ngẫm nghĩ rồi đáp:
- Phải, có lẽ mình nghĩ như thế - Deirdre mãi mãi là người vú em, là loại đàn bà thấy sung sướng khi làm việc gì cho người khác, không phải loại người thích phiêu lưu mạo hiểm. Chị ta thông minh, ăn mặc đẹp, hấp dẫn. Nhưng Deirdre mà yêu được Jeremy ư? Khó nói lắm, nhưng có thể họ sẽ được hạnh phúc khi lấy nhau.
- Nếu Jeremy làm cho cậu hạnh phúc, mình nghĩ đây là điều tuyệt vời. Cậu nói với anh ấy mình nói như vậy nhé, được không?
Hai người nói chuyện thêm một hồi lâu nữa, thổ lộ tâm tình cho nhau nghe. Rõ ràng Deirdre lo sợ về chuyện cô gian díu với người yêu cũ của bạn, và bây giờ cô cảm thấy nhẹ nhõm khi được nói toạc chuyện liên hệ của họ ra và sung sướng khi thấy tình bạn giữa Deirdre và Charity trong bao nhiêu năm nay không bị sứt mẻ.
- Thế còn chuyện giữa cậu và chàng sở khanh ra sao rồi? - Deirdre hỏi - Jeremy có nói cho mình biết về anh ta. Mình không ngờ cậu không cho mình biết cậu đã gặp người khác... và không nói cho mình biết về anh chàng tao lao chỉ là bạn của cậu.
Charity cười.
- Phải, bọn mình chỉ là bạn thôi.
- Nhưng cậu đã ngủ với anh ta. Khi Jeremy trở về, anh ấy rất buồn.
- Mình đã ngủ với anh ấy, nhưng mối liên hệ, nếu đây là mối liên hệ, sẽ không đi đến đâu. Call đã minh định như vậy rồi - Cô nói cho Deirdre biết Call là ai và về cái chết của gia đình anh.
- Chàng sở khanh là nhà tỷ phú McCall Hawkins à?
- Đúng thế, nhưng khi mình mới gặp anh, anh không có vẻ gì là nhà tỷ phú hết. - Cô nói cho bạn nghe nỗi đau khổ của Call khi vợ con chết và vì thế mà có thể anh sẽ không còn yêu ai nữa.
- Nếu thế thì tốt hơn là cậu nên thận trọng, bạn à, nếu không cậu sẽ mang khổ vào thân đấy.
Bây giờ lại bày trò khuyên nhủ. Nhưng chuyện quá trễ rồi, khuyên nhủ cũng bằng thừa. Cô đáp:
- Cám ơn, Dee, Mình sẽ cẩn thận.
Hai người nói chuệyn thêm một lát nữa rồi cúp máy và cô đi xuống nhà.
Từ tối thứ Bảy tuần trước, khi hai người làm tình trên bàn ăn đến giờ, họ không làm tình lại lần nào. Hàng ngày cô nghỉ việc sớm, dừng công việc vét cát sạn, rồi sang nhà anh làm việc với máy tính quãng hai giờ, nhưng không ở lại đêm tại nhà anh. Có lẽ việc nhắc đến chuyện gia đình anh đã tạo nên cái rào cản giữa hai người, hay có thể vì anh muốn cho cô được yên ổn để làm việc.
Mặc dù anh không nói gì thêm về các chuyện có thể xảy ra cho anh, nhưng cô nghĩ có lẽ anh cho rằng việc cô ở lại đêm tại nhà anh có thể đẩy cô vào vòng nguy hiểm. Chiều hôm đó, anh đi phố có việc. Anh tìm xem thư từ của cô cùng với anh, và đem về gói tài liệu bố cô gởi cho cô. Khi vừa làm xong công việc trong ngày, cô liền nghiềm ngẫm số tài liệu được cắt ra từ báo cũ, cô hy vọng sẽ tìm ra được điều gì mới lạ.
Charity nhìn nội dung giấy báo vàng khè, dung báo cắt từ tờ Oregonian ởPortland ra ngày 18 tháng Tám năm 1869. Đây là lần đầu tiên từ khi cô bắt dầu công việc sưu tầm này, bây giờ cô mới có tài liệu đáng hi vọng.
Mãi cho đến bây giờ, lâu nay cô chỉ dồn hết công việc tìm kiếm về gia đình họ Doake, công việc này dễ dàng vì tất cả những người trong gia tộc đều cùng một họ, từ Emma Doakes, bà ngoại của mẹ cô, đi ngược lui đến Campbell Doakes, rồi bố của ông này là David Doakes đã di cư từ Ai Len đến Tennessee vào khoảng thập niên năm 1860.
Tìm cho ra được thông tin quả thật hết sức khó khăn, và mặc dù cô tin có người tổ tiên lâu đời của cô đã đến miền Tây, nhưng cô không tìm ra được người nào đã đến Yukon, hay thậm chí đã vượt qua sông Mississippi. Cô bắt đầu cảm thấy nản chí, nghĩ rằng có lẽ Call nói đúng và nguyên nhân đã thôi thúc cô du hành đến Yukon chắc sẽ mãi mãi không tìm ra được, và cô nghĩ rằng hiện tượng mà cô xem có vẻ như là ký ức ấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng mà thôi. Nghĩ thế, cô thấy bứt rứt khó chịu hơn bao giờ hết.
Tình hình như thế cho đến ngày hôm nay.
Charity đưa tay sờ đống tài liệu cắt từ báo cũ của bố cô gởi đến. Tờ nằm trên hết trông vàng khè và rách tươm hơn các tờ khác trong cả tập. Khi cô cẩn thẩn mở tờ giấy ra, nó rơi ra nhiều mảnh. Hết sức thận trọng, cô ráp mấy miếng rách vào với nhau rồi ngồi xuống, chăm chú đọc.
Bài báo viết về một người đàn ông tên là Jedediah Baker. Theo bài trên tờ báo được cắt ra, thì sau khi đã thực hiện chuyến đi dài bằng đường hỏa xa xuyên lục địa, Baker đã đến Portland vào cuối mùa hè năm 1869 để gặp người anh là Nathan, ông này trước đó đã di cư đến miền Tây trên đường mòn Oregon. Hai anh em đoàn tụ tại một buổi lễ đặc biệt, bài báo viết, được tổ chức tại tòa Thị sảnh địa phương.
Charity cảm thấy lòng hưng phấn vô cùng. Portland là một trong những địa điểm chủ yếu để tàu thủy xuất phát đi về hướng Bắc đến Yukon. Những tờ báo cắt ra được tìm thấy trong tập album ảnh cũ của gia đình mẹ cô. Cho nên rất có thể Jerediah và Nathan Baker có quan hệ máu mủ với cô.
Cô muốn sang nhà Call ngay, để xem thử cô có tìm ra được gì mới lạ không. Bây giờ là lần đầu tiên trong nhiều ngày rồi, cô lên tinh thần. Cô nôn nóng muốn biết ngay kết quả tìm kiếm ra sao.
Khi cô sang nhà Call, anh đang chuẩn bị đồ đạc để đi. Khi Toby mở cửa cho cô vào, cậu ta nói cho cô biết Call chẩn bị để sáng hôm sau đi Seattle. Cô không muốn quấy rầy anh, nên cô ra dấu cho Toby biết cô muốn đi đâu, rồi bước vào nhà bếp và lặng lẽ đi vào phòng làm việc của anh.
Cô ngồi vào chiếc máy vi tính Call cho mượn, khai thác dữ liệu trên các mạng Internet. Hai tiếng kêu cắc vang lên, rồi địa chỉ www.Ancestry.com hiện ra. Charity đánh vào máy tên Jerediah Baker.
Suốt nhiều giờ liền, cô tìm từ trang web này sang trang khác: Các địa chỉ Oregon marriage index, historicaltextarchive.com, familysearch.org, cô tìm tất cả trang web nào có thể cung cấp được thông tin.
Dù sao thì công việc lần theo thời gian tới trước khó hơn là lần ngược lui theo thời gian. Cô tìm ra được con trai của Jerediah, ông Thaddeus Baker, sinh năm 1878 và tìm được người phụ nữ ông cưới làm vợ tên là Frances Phitzpatrick. Sáu người con của hai ông bà là Johnathan, Sarah, Thankful Baker, Melvina, Frederick, và Daniel.
Có một tên nghe quen quen. Cô lục tìm trong sổ tài liệu cô đã ghi chép, tìm trong biểu đồ cô đã in trong máy tính ra, cô thấy có tên giống cái tên trên máy tính, ối trời ơi, đúng rồi!
Vào ngày 3 tháng Năm, năm 1920, Sean Doakes lấy một phụ nữ có tên là Sarah Baker. Sarah "Thankful" Baker. Thế là đúng rồi! Cuộc hôn phối giữa họ Doakes và họ Baker là nguyên nhân khiến cho có những tờ báo cắt nằm trong cuốn album. Charity cảm thấy tim đập mạnh. Gia đình Baker đưa gia đình cô đến vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Rất có hi vọng là Thaddeus Baker, bố của Sarah, tuổi đã trên hai mươi khi bắt đầu kỷ nguyên đổ xô đi tìm vàng.
Phải chăng Thad Baker theo chân đám người đổ xô đi tìm vàng để lên Yukon, hy vọng làm giàu không? Phải chăng ông cụ đã chứng kiến cảnh đau đớn khủng khiếp ở đấy không? Có thể nào những ký ức của ông cụ đã truyền sang cho cô không?
Việc này còn nằm trong vòng tra cứu, tìm tòi kỹ lưỡng mới biết, nhưng cô đã cảm thấy có ít nhiều hy vọng. Cô muốn chạy sang phòng bên kia, nói cho Call biết khám phá mới của mình, nhưng anh vẫn còn bận việc, và cô cần xem thêm để có thể tìm ra được gì nữa không. Cô bèn lau hai lòng bàn tay lên đầu gối quần jeans, bắt đầu đánh vào máy lại, cố tìm xem các con của Sean Doakes và Sarah Baker có ai còn sống không.
Cô tìm xem từng người con một của họ. Emma, bà ngoại cô, Patrick và Phillip đều chết cả, nhưng Annie Mae và Mavie, hai người con đầu của các cụ, không có ghi ngày chết trên biểu đồ phả hệ của họ. Cô lần tìm nơi sinh của họ và cô nín thở.
Issaquah, Washington! Cả Annie Mae và Mavis Doakes đều sinh ra ở miền Tây! Sean và Sarah chắc đã sống ở Washington một thời gian rồi mới về Boston ở miền Đông, ở đây họ sinh ra những người con còn lại.
Hai người đàn bà chắc già rồi, Charity dựa vào ngày sinh của hai bà, cô thấy Annie Mae đã 82 tuổi, và Mavis thì 81 tuổi.
Cô nhìn ra cánh cửa ăn thông với nhà bếp. Call sẽ bay đi Seattle vào sáng mai. Issaquah chỉ cách đấy có vài dặm. Charity cắn môi. Thuyết phục Call để cho cô cùng đi với anh có được không nhỉ? Cô nghĩ chắc anh không muốn, nhưng mẹ kiếp, việc này rất quan trọng.
Charity nghiến răng. Call sẽ đem cô đi, nếu anh biết rõ chuyện này.
- Hãy quên đi, Charity, đây là chuyến đi làm ăn, chứ không phải đi ngắm cảnh đâu.
- Anh nghe đây, Call. Nếu em đi theo thì có gì khác đâu? Máy bay còn chỗ phải không?
- Chiếc phản lực có 8 chỗ ngồi. Chỗ không thiếu.
- Vậy thì có gì khó khăn đâu? Em hứa em sẽ ngồi xa anh. Anh nói anh biết rõ các phi công này. Lẽ nào chúng ta rớt máy bay lần nữa?
Anh quay qua cô, chống nạnh hai tay lên hông:
- Tại sao việc này quá quan trọng đến thế?
- Chắc anh biết lý do tại sao nó quan trọng rồi. Cuối cùng em đã tìm ra được manh mối. Em đã tìm ra được sợi dây liên hệ với em trong quá khứ. Ít ra là mối liên hệ của em với vùng Tây Bắc Thái bình dương.
- Cô nói về chuyện hai bà cô mà cô tìm ra là họ vẫn còn sống - Rất có thể là hai bà này đang còn sống và ở gần Seattle.
Anh thở dài, cào mấy ngón tay rám nắng lên tóc.
- Nhưng cho dù họ còn sống, làm sao em tìm cho ra họ?
Điềm tốt.
- Thoạt tiên em dựa vào tài liệu đã có sẵn... thông tin lấy từ xa. Có thể em sẽ có một địa chỉ trước khi chúng ta ra đi. Hoặc là em thử tìm họ trên máy tính. Nếu các phương pháp này mà không hữu hiệu, khi em đến đấy em sẽ lục tìm các sổ sách ở tòa án để tìm họ.
Mặt Call có vẻ cau có. Rõ ràng anh không muốn đem cô đi theo, và nếu không đem cô đi cùng, anh cũng đau khổ.
- Nếu em ở đây thì có lẽ yên ổn hơn - Anh nói.
Bỗng cô phân vân không biết phải chăng lý do muốn để cô ở nhà là vì anh muốn che chở cho cô. Charity bèn thay đổi chiến lược:
- Anh chắc ở đây em sẽ yên ổn hơn à? Em sẽ ngồi trên máy bay với anh. Em nghĩ làm sao anh biết trước được máy bay sẽ không an toàn.
Cô nghĩ cô đã thuyết phục được anh. Cô thấy mặt anh hiện ra vẻ lo âu. Anh thở dài, thua cuộc.
- Thôi được, mẹ kiếp, đi thì đi. Ngày mai chúng ta sẽ đi sớm. Sáu giờ sáng trực thăng sẽ có mặt ở đây để đón chúng ta.
Charity che dấu sự vui mừng của mình.
-Cám ơn, Call - Cô bước đến chỗ anh đứng, nhón gót để hôn anh, nụ hôn dịu dàng ngọt lịm - Em sẽ phải tìm cách trả ơn anh.
Mắt Call ngả màu xanh đậm, anh đáp:
- Phải - rồi kéo mạnh cô vào lòng, nói tiếp - Có lẽ em phải trả ngay mới được.
Tối đó thật khuya cô mới quay về nhà.
Sáu giờ sáng còn sớm quá, nhưng ít ra mặt trời đã mọc rồi và cô đã quen với giờ giấc sớm ở đây rồi.
- Chiếc trực thăng đến đúng giờ - Call nói.
Máy bay máy loại Bell, sơn màu đỏ và bạc rất đẹp. Hai người chạy dưới cánh quạt quay phần phật. Họ ném hành lý ở lại đêm lên máy bay, rồi leo lên, ngồi vào ghế ngồi bọc da rộng, buộc dây an toàn lại. Call nói gì đấy với phi công và chiếc trực thăng bay lên.
Một giờ rười sau, họ đi trên sân bay ở Whitehorse, đến chiếc phản lực tư sang trọng.
- Chào ông Hawkins, rất sung sướng được gặp lại.
- Sung sướng được gặp lại các ông, Bill... Benjamin - Call bắt tay hai người đàn ông đứng dưới chân cầu thang. Bill Bandy gầy, xinh trai. Benjamin "Bing" Wheeler cao hơn, ngực và vai to hơn, tóc nâu đen và mặt rám nắng đỏ au. Ông này không đẹp trai nhưng có vẻ mạnh khoẻ của đàn ông, trông rất hấp dẫn, và Charity nghĩ đàn bà thường rất thích loại đàn ông như thế này.
- Đây là cô Sinclair. Cô ấy đi với chúng ta.
- Mời lên, thưa cô Sinclair - Bing Wheeler nói.
- Cám ơn ông
Họ leo lên chiếc cầu thang sắt, bước vào cabin máy bay. Trong ca bin, đồ đạc thật sang, năm ghế ngồi bọc da láng lót đệm thật êm, chiếc ghế nệm dài ba người ngồi, phòng tắm và quầy giải khát. Charity ngồi xuống chỗ đối diện với Call, tim cô hồi hộp, tai lắng nghe tiếng máy nổ ầm ầm. Chưa bao giờ cô đi phản lực cơ tư, cho nên cô cảm thấy rất sung sướng. Còn Call thì hình như chẳng để ý gì. Đây là lần đầu tiên cô thấy đời sống thực của anh trước khi gia đình anh gặp tai nạn, thấy rõ con người của anh trước đó. Cô nhìn về phía anh. Anh mặc chiếc quần jeans sạch, áo thun tròng đầu màu vàng, loại áo quần đáng ra anh nên mặc ở nhà. Nhưng mắt anh dán chặt vào tờ Wall Street Journal, người phi công đưa cho anh tờ báo này khi anh mới ngồi vào chỗ, và anh liền chăm chú ngay vào tờ báo.
Hôm nay trông anh có vẻ khác với mọi khi, khác ngay từ khi anh ra khỏi chiếc trực thăng ở Whitehorse và đi qua phi trường để đến chiếc phản lực thuê, giá đến hàng chục triệu dollars. Bước chân của anh có vẻ dài hơn, quả quyết hơn, và dưới chiếc áo thun màu vàng, hai vai anh trông rộng ra hơn, thẳng hơn trước rất nhiều. Trong mỗi cử động của anh, đều lộ vẻ uy quyền và trên nét mặt đẹp trai, hiện ra vẻ tin tưởng vào máy bay, niềm tin vững chắc, không lay chuyển.
Phi trường Seattle Tacoma, phi trường náo nhiệt nhất trong nước, đông đúc người khi chiếc phản lực chạy đến dừng ở trước phi cảng.
- Chuyến bay rất tuyệt - Call nói với Bill Bandy đang đứng nơi cửa buồng lái.
- Chúng tôi có kế hoạch bay về Whitehorse lúc 10 giờ sáng mai, nhưng chúng tôi linh động về vấn đề thời gian theo yêu cầu của ông. Nếu có gì thay đổi xin ông cho biết.
Call gật đầu. Anh để tay lên eo cô, đẩy cô đi xuống máy bay.
Một chiếc xe đen dài đợi họ ở ngoài phi cảng. Người tài xế mở cửa, Call nhìn cô bước vào, ngồi vào ghế bọc da xám mềm mại. Anh bước theo cô vào xe và đóng cửa lại.
Từ sau tờ Newsweek, Call thấy Charity quan sát cảnh tượng rộng lớn trong xe. Những ngọn đèn trắng nhỏ chiếu sáng pano gỗ đen đóng trong xe và những bình rượu bằng thủy tinh trong quầy rượu gắn vào trong xe.
- Em không thể tin được chuyện này.
Call nhìn cô qua đầu tờ báo, hỏi cô:
- Không tin cái gì?
- Nếu có ai nói với em, lần đầu tiên em gặp anh là vào lúc em đi phản lực cơ với anh và ngồi trên chiếc xe hòm lớn màu đen, thì chắc em sẽ cho họ là đồ điên.
Môi anh nhếch lên một bên và hỏi:
- Sao? Em muốn nói bộ râu và mái tóc dài của anh làm cho em say mê phải không? - Đúng, và vì tính khí ươn gàn của anh nữa - Cô nheo một bên mắt - Đôi lúc tính khí anh rất chướng, anh biết không?
Anh cười khi nghe giọng trên chọc của cô, rồi nhìn cô chằm chằm khiến cô đỏ mặt.
- Chưa hết đâu, em yêu à.
Charity cười. Bao nhiêu căng thẳng trong người anh từ từ giảm đi, anh để tờ Newsweek xuống sang một bên rồi hỏi cô:
- Em đã đến Seattle lần nào chưa?
Cô lắc đầu
- Em rất muốn đến thăm.
Anh có vẻ khoan khoái, ngồi gọn trong chiếc ghế nệm bọc da.
- Tốt, vì anh rất muốn dẫn em đi thăm thành phố cho biết.
- Anh dẫn em đi chơi à?
- Phải, chắc anh sẽ dẫn em đi chơi. - Anh đã định nếu xong công việc, anh sẽ về ngay, nhưng nếu mọi việc diễn ra như kế hoạch đã vạch, thì không lý do gì không vui chơi một chút trước khi về nhà.
Charity nhìn anh, cô nhoẻn miệng cười thật tươi. Nhìn nụ cười dịu dàng ấm áp của cô, bỗng anh cảm thấy ngực đau nhói. Đấy là cảm giác lo sợ thâm nhập vào người anh, và anh ước chi đừng tình nguyện làm công việc ấy. Nhưng sự thực là anh muốn dẫn cô đi thăm thành phố.
Anh mong sao buổi họp với công ty Wild Card sẽ đem đến cho anh kết quả!