Mặt trời lúc nửa đêm

Chương 2

Khi máy bay đến phi trường Whitehorse và hành khách tứ tán khắp nơi đúng vào lúc 3 giờ 09, giờ Cananda, thì Charity đã ở trên không 11 giờ mệt mỏi. Cổ đau, lưng mỏi, miệng khô không có chút nước bọt.

Lạy Chúa, cô ghét đi máy bay.

Cô mừng vì đã đến nơi bình an vô sự. "Thoát chết rồi", cô lẩm bẩm trong miệng, khi bánh máy bay chạm mặt đất, nhưng cô vẫn còn ngồi yên một chỗ. Phi trường nằm ở phía Bắc thành phố nhỏ, nhưng có vẻ hoạt động tốt, hay là cô nghĩ như thế khi thu hồi cái túi xách thứ nhất nơi băng tải.

Khốn thay, cái túi xách thứ hai, cái túi xách đựng đồ trang điểm, bàn chải răng, sinh tố, dũa móng tay, và những thứ lau mặt, không thấy đâu hết. Khi băng tải đã dừng và nhận thấy mình là người cuối cùng còn đứng đợi lấy hành lý, cô mệt mỏi bước tới quầy kiểm soát, điền vào những biểu mẫu cần thiết.

Người nhân viên sau quầy, một phụ nữ trung niên có mái tóc thưa, màu nâu nhạt và vẻ mặt lo âu, nói:

- Bảo đảm sẽ có người mang đến tận nơi cô ở. Ngay khi cái túi xách được đưa đến đây, chúng tôi sẽ chuyển đến cho cô ngay tức khắc, nhé?

Tiếng "nhé?" phát âm theo giọng Canada khiến cô bật cười. Cô đã ở đây rồi. Cô đã đến Whitehorse, chặng dừng đầu tiên trên chuyến phiêu lưu đến vùng hoang dã. Bây giờ chỉ có vấn đề này mới quan trọng.

Cô ký tờ biểu mẫu, cảm ơn người phụ nữ rồi đi ra ngoài, đứng trước phi cảng để tìm xe. Đứng trên vỉa hè, nhìn ra quãng trống rộng mênh mông quanh phi trường, Charity bỗng đâm lo. Nếu có tắc xi đợi khách, thì chắc họ đã đón hành khách đi hết rồi, trong cái thành phố nhỏ chưa đầy hai mươi ngàn dân này, chắc không có tắc xi thường xuyên. Thế nhưng, cô thấy có chiếc tắc xi đậu bên hè đường, đây là một chiếc Buick cũ ít ra cũng mười năm, ống bô đã rỉ sét và nước sơn xanh đã tróc nhiều nơi.

- Thưa, cô đi xe chứ? - Người tài xế lên tiếng mời, anh ta nhìn qua cánh cửa phía bên chỗ khách ngồi hỏi. Mũi anh ta lớn, hơi khoằm, da ngăm ngăm, tóc đen thẳng. Ở Manhattan, anh ta có thể là người Puerto Rico, Pakistan, Jamaica hay dân của hàng chục quốc gia khác. Nhưng ở đây chắc anh ta là dân da đỏ. Ở đây người ta gọi họ là dân của Nước Đầu Tiên.

Người da đỏ thật sự đầu tiên của tôi. Cô không nín cười được.

- Tôi trọ tại khách sạn River View. Anh cho tôi đến đấy được chứ?

- Được. Mời vào - Anh ta không giúp đưa hành lý của cô lên xe, mà cũng không mở cửa xe.

Charity mở cửa xe, đưa cái túi xách bằng vải bạt màu đen vào, rồi leo lên ngồi ở ghế sau. Cô nhăn mặt vì một cái lò xo chích qua lớp da màu xanh bọc ghế ngồi, đâm vào sau mông cô. Cô nhích người tránh sang chỗ khác, mong sao chiếc quần đen đẹp đừng rách. Cô không đem theo nhiều quần đi đường.

- Khách sạn nằm ở ngã tư đường Số một và...

- Tin tôi đi, thưa cô, tôi biết khách sạn ở đâu rồi.

Chiếc xe rồ máy chạy khỏi phi trường, kính cửa xe hạ xuống để gió lạnh tháng Năm thổi vào lùa mái tóc vàng thẳng ra sau vai cô.

Sáng nay cô đã kẹp mái tóc dài, buộc sơ sài thành một bím nhỏ, gọn gàng, chỉ để vài sợi lưa thưa xõa quanh mặt cho hợp thời trang thôi. Nhưng kim găm kẹp tóc đã chích vào phía sau đầu cô khi ngồi trên máy bay chật chội, khiến cô thấy khó chịu, nên cô đã tháo kim ra, để cho tóc xoã xuống.

Khi chiếc xe ọp ẹp chạy vào phố Whitehorse, cô trông như thể đã nếm mùi gió Chinook, tiếng lóng của miền Bắc dùng để chỉ ngọn gió lớn mang hơi nóng từ dãy núi đá đến. Người tài xế có đôi vai vạm vỡ mặc cái sơ mi bằng vải len đã sơn và chiếc quần jeans mòn vẹt, anh ta thường tình mang cái túi xách của cô vào tiền sảnh khách sạn, trong khi cô lục trong cái ví nhỏ hiệu Kate Spades, để tìm tiền Canada mà cô đã đổi ở Vancouver. Cô nhận thấy cái túi xách quá nhỏ khi dùng đi xa như thế này. Ước gì cô mang theo cái to hơn cái này.

Cái to hơn chắc sẽ đựng luôn cả cái túi xách đồ trang điểm và bản chải răng hiện đang bị thất lạc.

Charity trả tiền cho người tài xế, rồi nhìn chiếc Buick cũ rích chạy đi, sau đó cô đưa mắt nhìn quanh. Whitehorse là thủ phủ của bang Yukon, một thành phố nhỏ, so với Manhattan chẳng nghĩa lý gì. Qua sách vở cô đã đọc về nơi này, thì thành phố được xây dựng trong thời gian xảy ra phong trào đi tìm vàng ở Klondike, hàng chục ngàn người đi tìm vàng đáp tàu thủy đến Skagway, Alaska, rồi trèo qua những ngọn đèo vượt núi đến đầu nguồn của sông Yukon.

Ở khu vực thuc thành phố, có nhiều ngồi nhà xưa cũ, nguyên thủy, mặt tiền xuống cấp, xây cất từ cuối thập niên một ngàn tám trăm, vẫn còn nằm hai bên đường phố, trông như nhà cửa trong bộ phim do John Wayne đóng, đường sá chật hẹp, những lối đi vào các cửa hàng đều lót ván y như cảnh tượng vào thời ấy.

Đứng trên Đường Thứ Nhất, bên kia đường là con sông Yukon lớn rộng, Charity nghĩ đến bao nhiêu năm qua cô đã mong muốn được đến đây, cô nghẹn ngào vì cảm xúc. Cô đã nói với Jeremy cô muốn đi phiêu lưu, cô đã nói với đồng nghiệp và bạn bè như thế, nhưng chỉ có bố cô và các chị em cô mới biết rằng việc đi đến Yukon là giấc mơ suốt đời.

Khi còn tấm bé, Charity đã say sưa nghe kể chuyện về miền Bắc. Suốt nhiều năm qua, cô thường xem lại hàng chục lần bộ phim đen trắng có nhan đề Sergeant Preston of the Yukon (Trung sĩ Preston ở Yukon). Cô đọc thơ của Robert Service cho đến khi thuộc lòng, và khóc khi đọc truyện viết về cảnh hoang dã của Jack London.

Tại sao những truyện đặc biệt này trong lịch sử làm cho Charity xúc động sâu sắc đến thế, cô không thể nói được. Có người mơ đến thăm tháp Eiffel, có người mơ xem Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Charity muốn thấy những ngọn núi đỉnh phủ tuyết và những cánh rừng xanh tươi ở miền Bắc.

Và sau nhiều năm chờ đợi, cuối cùng cô đến đây.

Charity cười, trở về với thực tại trước mặt sau khi đăng ký lấy phòng khách sạn, cô sẽ tìm tiệm thuốc tây mua bàn chải răng, rồi ngủ một giấc cho lại sức. Trước khi đến nơi ở Dawson City, cô phải đi hơn 300 dặm nữa. Ở một nơi hẻo lánh như bang Yukon này, đoạn đường như thế là rất xa.

Cô hơi lo về chiếc xe cô đã thuê, chiếc SUV. Cô đã sống ở Manhattan lâu năm rồi. Cô hiếm khi lái xe, mà lái một chiếc lớn như chiếc Explorer thì chưa bao giờ cô lái. Tuy nhiên, nếu may mắn thì ngày mai thế nào cô cũng đến đấy.

Charity không thể đợi lâu được.

- Chào mừng cô đến Dawson City, thưa cô Sinclair - Người nhân viên địa ốc chào cô, ông ta tên là Boomer Smith, thân hình thấp, đầu hói, nặng nề và nụ cươì hình như nở mãi trên môi.

Bài viết đăng trên Nhật báo Phố Wall ký tên là Smith Realty và sau đó cô tìm ra được công ty qua mạng Internet. Sáng hôm qua, hãng máy bay đã tìm ra cái túi xách thứ hai của cô, đem đến khách sạn cho cô, và sau khi đã nhận chiếc xe thuê, cô gọi đến cho văn phòng của công ty tại mt trạm bán xăng nằm trên xa lộ Klondike, một trong số hai hay ba trạm trên cả một đoạn đường dài 335 dặm!

Cô và Smith vạch kế hoạch sẽ gặp nhau tại văn phòng của ông ta ở thành phố Dawson khi cô đến vào xế chiều ngày hôm sau, nhưng chiếc Ford Explorer bị trục trặc ở bình phun nhiên liệu tại một nơi có tên Pelly Crossing, một địa điểm rộng trên đường, và cô phải mất mấy giờ để cho chuyên viên của cửa hàng Selkirk, cửa hàng vừa bán xăng, vừa là quán bar, vừa bán thực phẩm, đến điều chỉnh lại.

Khi Charity đến Dawson thì trời mưa, lưng cô đau nhừ và hoa cả mắt. Trời đã tối và lạnh, cô chỉ muốn tìm chỗ để ngủ một giấc. Cô mua một lát bánh Pizza ở nhà hàng có tên là Grubstake, rồi đăng ký lấy phòng ở khách sạn Eldorado. Mãi cho đến sáng hôm sau cô mới thực sự đi xem thành phố.

- Sao, cô nghĩ về Dawson city như thế nào? - Câu hỏi của Boomer khiến cô nhớ cảnh thành phố khi cô nhìn qua cửa sổ phòng khách sạn khi mới vào phòng: thành phố kỷ nguyên đi tìm vàng giống như hình ảnh các thành phố đi tìm vàng trong các sách viết về miền Tây có bìa mỏng. Những con đường bùn lầy và vỉa hè cao lên với hai dãy nhà kiểu miền Tây cổ, sườn nhà bằng gỗ, mặt tiền lụp xụp, có lối đi vào lát gỗ gồ ghề. Thành phố gần giống Whitehorse, nhưng nhỏ hơn, và cái gì ở đây trông cũng xưa cũ hơn, như thể Dawson cương quyết duy trì như thế chứ không chịu thay đổi.

Quả vậy, thành phố trông như thế cách đây 100 năm về trước, và khi nghĩ như vậy, Charity cười.

- Đúng đây là một thành phố - Cô đáp - Tôi chưa bao giờ đến thành phố nào mà đường phố còn là đường đất như thế này.

- Chúng tôi muốn duy trì hình ảnh xưa cổ. Thành phố này rất đặc biệtt, đầy di tích lịch sử. Đây là hình ảnh của Dawson vào thời đi tìm vàng ở Klondike và chúng tôi cố bảo toàn di tích lịch sử ấy.

Ông mời cô vào ngồi ở bàn làm việc bằng gỗ sồi, trên bàn đồ đạc ngổn ngang, Charity ngồi vào cái ghế có lưng dựa thẳng, hơi ọp ẹp. Giống như khắp nơi trong thành phố, văn phòng xây cất theo kiểu của thập niên một ngàn tám trăm, tường áp ván gỗ sồi, thảm trải nhà có hình cong cong, và đèn dầu hoả treo rải rác trong phòng để trang hoàng.

Họ thông qua công việc giấy tờ cần thiết.

- Như tôi đã nói qua điện thoại với cô rồi, trang thiết bị và bàn ghế chỉ có sơ sài thôi. Thú thật với cô là tôi không biết chúng có còn ở đấy không.

- Vâng, ông có nói rồi.

- Tốt, thế thì tôi nghĩ là chúng ta đã bàn giao xong. Bà Foote sẽ có mặt ở đây trong vài phút nữa thôi. Tôi đã phái người đến thay chỗ của bà ấy vào hôm qua rồi, ngay sau khi cô gọi tới báo cho tôi biết hôm nay cô đến. Bà Maude không có điện thoại.

- Tôi hiểu rồi - Cô thực sự bắt đầu công việc rồi đấy.

Đến Dawson chẳng khác nào trở lại thời gian một trăm năm về trước, và rõ ràng có một số người ở đây vẫn sống cuộc sống như thời ấy.

- A, bà ấy đến rồi.

Chuông cửa reo xong là Maude Foote đẩy cửa bước vào và Charity đứng dậy chào bà ta. Bà ta già hơn Charity tưởng, có lẽ vào quãng trên 70 một ít và nhờ thân hình hộ pháp nên mặt bà ta ít nhăn nheo. Bà ta thấp hơn Charity một phân, mà cô cao gần một mét bảy, nhưng bà ta đi lưng vẫn còn thẳng và hai vai vẫn còn ngang.

- Chắc cô là Charity Sinclair.

- Đúng - Charity cười, chìa tay bắt, cô thích thái độ thẳng thắn tự nhiên của bà - Rất sung sướng được gặp bà, bà Foote.

- Gọi Maude là đủ rồi. Mọi người ở đây đều gọi tôi như thế đã 50 năm nay - Maude nhìn lên nhìn xuống người cô, chú ý cái quần jeans người mẫu và cái sơ mi vải bông tay dài có cổ bằng vải carô đỏ - Con gái thành phố như cô từ New York đến Dawson này làm gì?

Charity nhún vai như thể cô không biết trả lời sao. Mà thực vậy, cô thấy rất khó trả lời. nhưng cô vẫn đáp:

- Chuyện này dông dài lắm, nói cho đúng là tôi muốn thay đổi không khí. Tôi muốn rời khỏi thành phố, sống một cuộc sống khác lạ.

- Khác lạ! Tốt thôi, nhưng cô không phải là người đầu tiên đến đây tìm vàng, và chắc không phải là người cuối cùng.

Boomer Smith đã giới thiệu Maude Foote là người có thể giúp cô trong bước đầu làm công việc khai mỏ. Maude đã khai thác mỏ ở Suối Ngựa Chết, mỏ này đã được khai thác từ 40 năm nay, và bà sống trên một mảnh đất riêng ở cuối con đường chạy qua vùng đất Charity vừa mua.

- Lý do tôi đến đây ra sao thì cũng sự đã rồi - Charity nói - Nghĩa là tôi đã đến đây rồi. Tôi định khai thác vàng nơi khu đất tôi vừa mua. Vậy bà có chịu giúp tôi không?

Cặp mắt màu xanh nhạt nhìn mái tóc vàng để thẳng của Charity, cô chải mái tóc ra sau gáy, kẹp với chiếc kẹp đồi mồi, rồi ánh mắt nhìn xuống hai ống quần zin bó sát hai chân và đôi giày cao cổ đi bộ loại mới ra, hiệu Hi- Tech.

- Cô là "gái thành phố" 100%, nhưng tôi nghĩ cô sẽ làm việc này được. Tiền cô trả như thế là hậu hĩ đấy, tôi không có gì để kêu ca nữa. Vả lại, vùng đất cô mua chưa được khai thác bao giờ. Có thể chúng ta kiếm được vàng.

Charity kềm mình để khỏi thốt ra tiếng kêu vui mừng. Việc cô làm ai cũng cho là điên, thế nhưng cô cảm thấy rất sinh động, cô tin chắc trong những ngày sắp tới, cuộc sống sẽ chứng minh cho mọi người thấy rằng chuyện phiêu lưu của cô rất đứng đắn.

- Ông Smith còn nói cho tôi biết rằng có một người tên Johnson có thể bằng lòng giúp chúng ta, ông ta nói có nhờ bà nói giúp. Ông ta có bằng lòng làm công việc này không?

- Buck Johnson có đất giáp ranh với đất nhà cô ở phía Bắc. Ông ta đã khai thác vàng trên hai mươi năm nay. Mới đầu, ông ta gặp may, nhưng về sau thì không kiếm được gì nhiều. Ông ta rất rành nghề và cần tiền. Ông ta bằng lòng làm việc này.

Cô cố mỉm cười:

- Tuyệt! Khi nào chúng ta bắt đầu?

- Từ ngày lão Mose Flanagan thu dọn ra đi, tôi không đến lại khu mỏ Lily Rose, có lẽ phải dọn dẹp nhà cửa cho ngăn nắp. Tốt nhất là chúng ta nên mua các đồ cần thiết trước khi rời thành phố về nhà, để khỏi quay lại đây một thời gian.

Theo lời khuyên của bà Maude, họ ghé vào cửa hàng tổng hợp Dawson City để mua thực phẩm, dụng cụ lau chùi nhà cửa và vật dụng dùng ở giường ngủ, gồm vải trải giường, khăn và chăn mền. Họ mua bộ đồ ăn bốn người gồm dĩa, dao nĩa bằng bạc, xoong quánh và dụng cụ trong bếp. Maude đề nghị Charity nên mua cái nệm hơi, mặc dù cô chưa biết giường rộng hẹp ra sao, nếu có giường. Bà đề nghị cô cần phải xem ngôi nhà và phòng ốc trong nhà ra sao đã, rồi sau đó muốn mua gì hãy mua.

Khi đã ở trong nhà rồi, họ sẽ nói với Buck Johnson xem cần mua trang thiết bị gì để khai thác vàng.

Họ chất đồ vừa mua lên phía sau chiếc Explorer. Chất xong, Charity mới cười. Thế là chuyện phiêu lưu mạo hiểu của cô bắt đầu. Cô nôn nóng đến xem ngôi nhà mới. McCall Ryan Hawkins dừng lại dưới hàng thông trên đỉnh đồi, để cái ba lô sau lưng xuống đất. Phía dưới anh, Suối Ngựa Chết trông nhỏ như vuông vải trắng hẹp, chảy trên lớp đá cuội và ngoằn ngoèo qua các khe giữa hai bờ đá từ trên đỉnh đồi xuống.

Call nhìn qua ống nhòm, cặp ống nhòm có sợi dây anh mang quanh cổ. Chỗ anh đang đứng là ranh giới của khu đất rừng rộng hai ngàn mẫu Anh của anh, không xa Vòm Vua Solomon, từ đây anh có thể thấy ngôi nhà tả tơi của lão Flanagan cheo leo trên con suối.

Ngay trước khi lão Mose dọn đi, ngôi nhà đã xuống cấp rồi. Tầng cấp ở trước mái hiên đã bị sập một bậc và lá sách ở cửa sổ đã bị nghiêng xuống, khiến cho gió lọt vào nhà được.

Ngôi nhà trông có vẻ hoang phế rất buồn bã, dù Call và lão Mose không bao giờ hợp nhau, nhưng hai người đã thường vã nhau nhiều lần. Họ cãi đủ thứ từ chuyện con lừa già của Mose đi vào trong vùng đất của Call cho đến chuyện chiếc xe tải máy nổ ầm ầm của lão điên chạy văng cát sạn và bụi đất tung lên đầy trời, để bụi lọt qua cửa sổ vào nhà Call. Call rất mừng khi thấy lão dọn đi.

Thế nhưng anh vẫn nhớ lão, thế mới lạ.

Ít ra anh cũng có người để cãi cọ.

Call lắc đầu, nghĩ đến chuyện leo xuống từ đỉnh đồi, bỗng anh cảm thấy hơi nản chí.

Quay người không nhìn ngôi nhà nữa, anh lấy cái ba lô mang lên vai, huýt gió gọi con Smoke, con chó lớn lai sói và chó Étkimô, anh nuôi nó từ khi nó còn nhỏ rồi theo con đường xuống đồi. Anh về nhà sau một đêm đi chơi xa, ngôi nhà này anh đã xây bên bờ suối.

Từ ngày Call trở lại Yukon, đến nay đã hơn 4 năm. Anh đến đây để tìm cảnh yên tịnh của núi rừng, tìm nơi tĩnh mịch để quên quá khứ, ổn định lại cuộc sống. Đi trên đường, những hình ảnh của quá khứ cứ chập chờn trong óc anh, nhưng anh quyết xua đuổi chúng ra khỏi tâm trí, không để cho chúng hành hạ anh.

Anh không thích nghĩ đến quá khứ, không thích nhớ đến chuyện đã qua, khiến anh phải tự mình dấn thân vào chốn lưu đày này đã 4 năm nay. Cho nên anh cố sải chân bước nhanh xuống đồi để xua đuổi những kỷ niệm đau buồn chực bám lấy anh.

Khi anh thấy cái ống khói cao xây bằng đá của nhà anh hiện ra bên suối, thì đồng thời anh cũng thấy hai vật thể di động xuống từ ngọn núi đằng xa, và khi nhìn kỹ, anh nhận ra đấy là hai chiếc xe hơi lạ đang chạy về phía anh. Đường từ Dawson đến đây phải mất một giờ, đường đất bụi bặm và dân cư sống dọc theo Suối Ngựa Chết thì thưa thớt, cho nên khác, rất ít người đến đây làm gì.

Như thường khi, cứ thấy có người đến quấy phá cuộc sống yên tĩnh của mình là Call cảm thấy tức giận, ngay cả khi xe họ chỉ chạy qua trong nháy mắt.

Anh tự hỏi không biết họ là ai và họ đi đâu.

Sau khi rẽ khỏi đường Hunker, Charity theo chiếc xe tải nhỏ màu xanh cũ kỹ của Maude chạy ngoằn ngoèo trên con đường rải sỏi dọc theo con suối. Họ dừng lại một lát tại ngôi nhà nhỏ của Maude đang ở, để bà lấy đôi găng tay lao động bà để quên ở nhà.

- Găng tay tôi có rồi thì mua làm gì nữa cho phí - Bà nói. Hồi nãy bà từ chối không để cho Charity mua găng tay cho bà ở cửa hàng tổng hợp.

- Còn xa nữa không? - Charity hỏi khi thấy bà già đi thủng thỉnh, bước đi chậm rãi như kiểu thủy thủ đi trên boong tàu, chỉ có khác là quanh bà không có nước.

- Gần thôi. Qua hai chỗ đường cong, rồi lên đồi một đoạn là đến.

Qua hai chỗ đường cong thì ra mất hai dặm, mỗi chỗ đường cong xe phải chạy thật chậm vì đường đã hẹp mà lại bùn lầy nữa. Ngồi trên xe, lòng cô náo nức, bồi hồi, mong sao chóng đến nơi. Cô cảm thấy như đứa bé lần đầu tiên đi đến khu giải trí Disney World, cứ muốn chóng đến, không làm sao hình dung ra được cảnh tượng ở đấy.

Khi chiếc xe loại SUV chạy nhồi lên nhồi xuống trên đường đầy ổ gà, Charity cảm ơn Chúa đã giúp cô thuê chiếc xe chạy được cả bốn bánh. Xe loại quay hai bánh bình thường, chắc không chạy được trên mặt đường như thế này. Khi họ chạy qua khúc đường cong thứ hai cô thở phào nhẹ nhõm.

Ít ra mình cũng có thì giờ để ngắm cảnh thiên nhiên, cô nghĩ, vừa đưa mắt nhìn những ngọn đồi lởm chởm đá phủ đầy thông, linh sam và cây bước lô. Cả vùng đều toàn núi non, trên các đỉnh núi còn phủ một lớp tuyết giữa mùa xuân sáng lấp lánh.

Phong cảnh đẹp tuyệt vời, rất xứng với đồng tiền bỏ ra để được chiêm ngưỡng. Charity cười khi nghĩ cô sẽ được sống trong cảnh hoang dã tuyệt vời này trong sáu tháng sắp đến.

Họ chạy qua khúc quanh cong thứ hai thì cô thấy hai ngọn đèn sau đuôi chiếc xe tải bật sáng. Hồi nãy cô thấy một ngọn tắt. Cô nhìn về phía con suối họ đang chạy theo. Phía bên kia chiếc cầu gỗ trông có vẻ ọp ẹp, cô thấy có ngôi nhà gỗ nhỏ nằm giữa đám thông mọc ven bờ suối. Mỏ Lily Rose. Cảm giác sung sướng bùng lên trong lòng cô. Bất cần chiếc cầu có thể sập bất cứ giờ nào. Dễ chữa lại thôi. Cô vẫn còn tiền để sữa chữa lại cho chắc chắn.

Maude lái xe qua cầu như thể cầu hoàn toàn chắc chắn, cho nên Charity nhắm mắt, thu hết can đảm, cố xem như cầu vững chắc. Cô lái xe qua được bên kia yên ổn, mới thở phào nhẹ nhõm. Đậu chiếc Ford bên ngôi nhà, cô cài thắng an toàn rồi bước ra khỏi xe.

Không khí trong lành ở Klondike mát lạnh, phảng phất hương thông mọc sau ngôi nhà lên tận đỉnh đồi. Khi đi vào nhà, cô nghe tiếng nước suối chảy ào ào trên lớp đá cuội.

Cô dừng lại dưới bậc thềm dẫn lên hiên nhà. Ngôi nhà xây bằng gỗ cây, đúng như mục quảng cáo đã rao, nhưng mái nhà lợp ngói gỗ đã thụng xuống, và một tấm ván nơi bậc thềm đã bị gãy khiến cho việc leo lên thềm rất khó khăn.

- Chỉ cần sữa chữa lại đôi chút là xong - Bà Maude nói.

Bà nói thế vì chưa nắm vững tình hình. Ngôi nhà xuống cấp rất nhiều. Khi cô mở cửa bước vào nhà, thấy trong nhà nhiều nơi hư hỏng, lòng co thắt lại. Khó mà không cảm thấy thất vọng trước ngôi nhà hư hỏng như thế.

- “Ngôi nhà xinh xinh một buồng ngủ trên con suối nước chảy ào ào” - cô viện dẫn bài quảng cáo trên báo.

Con suối nước chảy ào ào thật, và ở đây chắc là nhà bếp đầy đủ tiện nghi, cách bên phải cửa vào hai bước, ngay cuối phòng khách là nhà bếp.

- Trông thế chứ không đến nỗi tệ đâu - Maude nói với giọng chắc nịch. Bà đưa tay vuốt túi áo sơ mi bằng vải len Canada rồi lấy ra cái ống vố có cán ngắn, ngậm vào giữa hai hàm răng - Chỉ cần sửa sang lại một chút là xong.

Không một chút là xong đâu, Charity nghĩ, lòng buồn bã, nhìn Maude cắn đầu ống vố chưa châm lửa, cô đoán chắc đấy là vật gia bảo từ ông nội bà để lại nên bây giờ đã rũ rích cũ ráng. Cô nói:

- Ngôi nhà cần phải sửa sang lại nhiều.

- Bếp lò còn xài được nè - Maude chỉ cái bếp lò bằng gỗ khổng lồ, đen thui - Nước thì có máy bơm từ giếng lên chứa vào cái bể lớn nằm phía sau nhà. Cô khỏi phải xách nước dưới suối lên - Bà ta vặn cái vòi nước trên bồn rửa để chứng minh điều bà nói, tức thì nước từ trong vòi phun ra, nhưng nước có màu nâu vì lấm bùn - Khoan dùng, đợi một lát cho nước trong đã. Một phút thôi nước sẽ trong.

Ruột gan Charity thắt lại. Họ đi qua bộ bàn tròn nhỏ với bốn ghế dựa ọp ẹp, bàn ghế sơn trắng nhưng bây giò sơn đã tróc để lộ ra màu xám gớm ghiếc, họ vào phòng khách, vừa đi vừa cúi đầu để tránh những mạng nhện giăng rải rác trong phòng. Lò sưởi đúng là lò sưởi xây đá mộc mạc, nhưng đá lấy dưới sông có bề mặt tròn trịa mượt mà, đã bám một lớp mồ hóng dày đen thui, và tro từ trong lò sưởi bay ra bám đầy nên nhà lát gỗ.

- Mái nhà cần sửa lại, nhưng ngôi nhà vững vàng... tôi bảo đảm với cô như vậy. Khi Mose dọn đến, ông ta đã cho sửa chữa lại rất chắc.

Chắc ông ta sửa lại nhiều. Ngôi nhà có vẻ như đã được xây cất một trăm năm rồi, và bây giờ cô tin nó vẫn còn kiên cố.

- Lò sưởi này rất bảo đảm về mùa đông, nhưng hơi ấm thực sự xuất phát từ cái lò than nhỏ ở góc phòng. Hơi ấm đủ sưởi đến tận đây.

Phải, ít ra cô cũng đủ ấm. Họ đi vào phòng ngủ, phòng ngủ độc nhất trong nhà, với chiếc giường sắt cũ, bộ lò xo đã xẹp, nhưng không có nệm. Trong phòng còn có cái tủ gỗ ọp ẹp và hai bàn ngủ tự chế. Đúng như mục quản cáo đã đăng, nhà có phòng tắm với hệ thống dẫn nước vào phòng. Phòng tắm có vòi sen, có ống dẫn nước, có bồn rửa, và toilette có bể nước bên trên, dùng đưa nước xuống. Nhưng toilette đã bị hỏng và khi Charity mở vòi sen, không có nước chảy ra.

Cô ngồi xuống trên nắp toilette, thở dài chán nản.

- Tôi tưởng ít ra cũng phải sống được chứ.

- Sẽ sống được. Chúng ta chùi dọn sạch sẽ là xong. Nhà này rất đẹp. đừng bi quan như thế.

Charity nhìn Maude, thấy vẻ cương quyết hiện ra nơi đôi hàm của bà, cô tin tưởng vào lời của bà. Cô đến đây để phiêu lưu mạo hiểm, không nên vì chuyện nhà cửa dơ dáy mà nản chí.

- Bà nói đúng - Cô đứng dậy khỏi nắp toilette - Chúng ta sẽ phải sửa sang lại cho đâu vào đấy. Chắc tôi phải dành thì giờ nhiều hơn một chút - Và tiền bạc thì cô không ngại tốn kém - Khi chúng ta chùi dọn sạch sẽ ở được, tôi sẽ ra phố lại, thuê công nhân đến sữa chữa những thứ cần thiết.

Maude cười khi thấy cô hăng hái trở lại.

- Hệ thống điện còn tốt. Mose mới lắp ráp cách đây có hai năm thôi.

Charity phát hiện ra điện chạy bằng máy phát điện, máy phải cho chạy vào buổi sáng và buổi tối. Hình như máy phát điện là vật duy nhất trong nhà còn hoạt động được.

- Để tôi đem các dụng cụ lau chùi vào -  Cô nói, lòng cảm thấy hăng hái trở lại - Chúng ta bắt đầu làm việc cho rồi.

Maude giúp cô lấy đồ đạc trên chiếc Explorer đem vào, rồi hai người bắt tay vào việc. Nếu Charity có nghi ngờ chăng một phụ nữ tuổi của bà Maude, không biết có làm nổi những công việc mệt nhọc như chùi vách, chùi nền nhà, chùi sạch lò sưởi, quét mạng nhện và hốt rác không, thì sau khi mới bắt tay vào việc, những mối nghi ngờ ấy biến mất trong đầu cô. Maude Foote khoẻ hơn những phụ nữ bằng nửa tuổi bà rất nhiều. Có nhiều lúc Charity phải ngồi nghỉ, nhưng bà Maude vẫn tiếp tục công việc luôn tay.

- Chúng ta sẽ đốt rác vào buổi sáng - Maude nói - Trong rác có thức ăn hư thối, chúng ta đừng để như thế, vì nó sẽ làm mồi cho gấu đến.

Cô ngẩng đầu hỏi:

- Gấu à?

- Đừng lo, phần nhiều chúng sợ người hơn người sợ chúng.

- Phần nhiều à?

Charity xua đuổi ý nghĩ lo sợ ra khỏi óc, tiếp tục xúc tro trong lò sưởi đổ vào cái xô thiếc cũ. Vào cuối ngày, khi bà Maude leo lên chiếc xe tải nhỏ màu xanh tả tơi để về nhà bà, chỉ cách một đoạn ngắn ở phía dưới đồi, thì nhà bếp không còn một vết dơ, tủ đựng chén bát sạch bóng, chén dĩa đều rửa sạch sẽ và cất đi hết. Lò sưởi được đốt lên, cô thấy trong nhà kho còn ít củi nên đem vào nhà nhóm lên, lò đốt than bùn cũng đốt lên, cô hy vọng lò này sẽ giữa cho căn phòng được ấm suốt đêm, và Maude đã giúp cô lót những thanh gỗ dưới bộ lò xo giường để nó khỏi thụng xuống.

Cô mừng vì đã có tấm nệm hơi, nhưng cho dù không có đi nữa thì chắc cô cũng phải ngủ ngon vì quá mệt. Chỉ còn việc đáng buồn thôi, là phải dùng nước ở ngoài nhà phụ đợi cho đến khi nào chữa xong hệ thống nước, cô mới có nước vào nhà mà dùng.

Chỉ mới bắt đầu chuyện phiêu lưu, cô tự nhủ, chưa dám hoàn toàn tin tưởng. Cô nghĩ đến những con gấu mà bà Maude đã nói đến, cô ngại ra khỏi nhà vào lúc đêm khuya, nên cô đem ly nước vào để trên chiếc bàn ngủ ọp ẹp, phòng khuya khát nước mà uống.