Mật mã Tây Tạng - tập 6

Chương 104: Nghi Vấn Trong Kim Thư

At xì… ắt xì…" Merkin liên tiếp nhảy mũi mấy cái liền. Soares đứng bên cạnh cười nhạt hỏi: "Sức khỏe như anh mà cũng có lúc bị cảm à?"

Merkin nói: "Làm gì có chuyện đó, chỉ tại thời tiết khô hanh quá, trong mũi cứ ngứa ngáy thôi. À, phải đấy, nghiên cứu của anh ra sao rồi?"

Soares bực bội lắc đầu: "Đừng nhắc nữa, không phải là thứ sinh vật trong tưởng tượng của tôi, lại tốn công vô ích cắm đầu cắm cổ hơn nửa năm trời, còn anh? Anh vẫn đợi tình hình từ phía đám người kia à?"

Merkin đáp: "Đúng vậy. Cũng chẳng còn chuyện gì khác để làm."

Soares hờ hững nói: "Nghe đồn, anh đang chuẩn bị rao bán hai khu đất ở Mỹ hả, chuyện là thế nào vậy?"

Merkin nói: "Không có gì, gần đây nhìn lầm mất hai lần, thành ra tổn thất hơi lớn, cần tiền mặt gấp để bồi thường."

Soares nói: "Ừm, dự tính phải đền bao nhiêu?"

Merkin nói: "Khoảng ba trăm triệu gì đấy."

Soares bật cười: "Không ngờ chuyên gia giám thưởng như anh mà cũng có lúc nhìn lầm cơ à."

Merkin cười khổ nói: "Trong cái ngành châu báu cổ vật này, dù người lợi hại đến mấy cũng không dám tự xưng là trăm phần trăm chuẩn xác, đây vốn đã là ngành có nhiều hàng giả nhất từ khi nhân loại có lịch sử đến nay mà. Có điều cũng chẳng can hệ gì, chỉ cần có thể tìm được Bạc Ba La thần miếu thì dẫu phải táng gia bại sản tôi cũng không sợ."

Soares cười cười, đột nhiên nói: "Đúng rồi, Ben, tấm bản đồ đó… đúng là anh nhặt được dưới đất hả?"

Merkin gật đầu khẳng định: "Đúng thế, tôi đã gạt anh lúc nào đâu, hơn nữa, cơ quan cạm bẫy ở đó phức tạp như vậy, sau khi cạm bẫy khởi động, người lợi hại thế nào chăng nữa cũng không thể nào vượt qua được, chỗ như thế lẽ nào lại là nơi có thể tùy tiện ra vào được chứ? Theo lý mà nói, tấm bản đồ đó không thể là đồ giả được, vậy mà chúng mãi vẫn không tìm được nơi ấy, hơn nửa năm nay cũng chẳng đi đâu hết. Cái tên Trác Mộc Cường Ba đó lại còn đột nhiên biến mất, chính mấy tên đồng bọn cũng không tìm được hắn, tôi đây cũng lấy làm kỳ lạ."

Soares nở một nụ cười hờ hững, chẳng bộc lộ cảm xúc gì, nhổm người đứng lên, bước tới bên cạnh ô cửa sổ kiểu Pháp: "Cứ tiếp tục thế này mãi thì ích lợi gì? Tìm trăm phương ngàn kế để chúng có được tấm bản đồ đó, kết quả là chúng vẫn không tìm được gì. Lẽ nào thật sự không có chút đầu mối gì hay sao?"

"Không." Merkin nói: "Tôi không chỉ lần theo các đầu mối, mà cả người nữa. Anh biết đấy, thứ tôi thực sự muốn tìm…"

Lúc này, Max bỗng hớn hở chạy xồng xộc vào, reo lên mừng rỡ: "Ông chủ, tìm được rồi, hắn đang ở trong một bệnh viện ở Thượng Hải."

Merkin liền hỏi: "Sao lại ở đó?"

Max nói: "Theo tin mới nhất từ Trung Quốc chuyển về, công ty của hắn đã phá sản, đội ngũ được huấn luyện đặc biệt của bọn chúng cũng bị giải tán. Hơn nữa, dường như tên Trác Mộc Cường Ba ấy đã mắc phải một loại bệnh hết sức kỳ dị, giống như là trong cơ thể có gắn một quả bom hẹn giờ vậy, một năm sau sẽ nổ. Với trình độ y học hiện nay vẫn chưa có cách nào chữa trị được, vậy nên hắn đã bị chấn động rất nặng, ý chí sa sút, tinh thần chán nản, suốt một thời gian dài chỉ ngày ngủ đêm đi, ra vào các quán rượu sàn nhảy như cơm bữa, do đó chúng ta mới không tìm được hắn. Còn nữa, nghe đồn hắn đánh nhau với một đám lưu manh du đãng mà bị thương phải nhập viện. Tôi thấy gã này không có hy vọng gì nữarồi."

Merkin cũng không khỏi biến đổi sắc mặt, thầm nhủ: Sao lại thành ra như vậy chứ? Lẽ nào hắn thật sự chỉ ngã một lần là không bao giờ gượng dậy nổi hay sao?

Soares nói: "Anh thấy chưa, cuối cùng lời tôi nói đã ứng nghiệm rồi, nếu bọn chúng mà tìm được Bạc Ba La thần miếu, tôi sẽ đi hôn đít lừa ngay tắp lự."

Merkin lại hỏi: "Vậy là cho đến lúc này, hắn cũng chưa hồi phục à?"

Max lắc đầu: "Cũng không phải, hình như sau khi những tên khác trong đội tìm được hắn, tình hình đã có chút biến chuyển theo chiều hướng tốt hơn. Nhưng tôi cảm thấy khả năng bọn chúng tiếp tục đi tìm Bạc Ba La thần miếu không lớn lắm. Đã ra đến nông nỗi này rồi, nếu còn tiếp tục tìm kiếm, chỉ sợ sẽ rơi vào cảnh cùng đường mạt lộ, muôn đời cũng không thể trở mình. Nếu đổi lại là tôi, tôi tuyệt đối không tiếp tục tìm kiếm nữa đâu."

Hai hàng lông mày nhíu chặt của Merkin đã hơi giãn ra phần nào, tủm tỉm cười nói: "Đáng tiếc, mày không phải là Trác Mộc Cường Ba. Tao hiểu con người hắn, hắn không phải loại người dễ dàng bỏ cuộc như thế đâu, nếu hắn mà bỏ cuộc thì đã không phải là Trác Mộc Cường Ba rồi. Hơn nữa, những chiến hữu cũ của Trác Mộc Cường Ba tìm hắn làm gì chứ? Nhất định là để cổ vũ hắn tiếp tục tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu rồi. Cả đám người ấy đều không bỏ cuộc đâu, tên nào tên nấy đều có mục đích riêng cả, khà khà, đúng là càng lúc càng thú vị. Nhớ kỹ, lần liên hệ sau, phải nói với người của chúng ta, trước khi tìm được Bạc Ba La thần miếu thì đừng có liên lạc lại nữa, giờ đã không còn là hành động được chínhphủ Trung Quốc ủng hộ nữa, mà là hành động tự phát, chắc chắn chúng sẽ cẩn thận hơn nhiều, chỉ cần hơi bất cẩn một chút là có khả năng bị vạch trần thân phận ngay."

Max cung kính nói: "Vâng, ông chủ." Hắn do dự giây lát, rồi lại nói: "Ông chủ, hình như đã có gì sai sót, hình như có mấy tổ chức tương đối lớn đã nhận được một số thông tin, biết được rằng bọn Trác Mộc Cường Ba đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, hơn nữa còn từng được chính phủ Trung Quốc ra mặt ủng hộ nữa."

"Cái gì!" Merkin giật mình chấn động thốt lên: "Rốt cuộc là chuyện gì? Tin tức để lộ ra ở chỗ nào vậy?"

"Chuyện này, vẫn chưa được rõ…" Max cúi gằm mặt liếc trộm ông chủ một cái, dè dặt nói.

"Điều tra! Dứt khoát phải điều tra cho tao!"

Sáng sớm hôm sau, người đầu tiên đến bệnh viện không ngờ lại là pháp sư Á La. Ông không hề nhắc nửa lời đến chuyện hô hấp hít thở, tỏ ý hoàn toàn không hay biết gì chuyện này. Trác Mộc Cường Ba cũng không tiện phơi trần ra, nhưng gã nhủ thầm trong bụng, vẫn phải nói với pháp sư về vấn đề tín ngưỡng trong tôn giáo của họ, tư tưởng hạt nhân tà ác ấy, tốt hơn hết là không nên đi tìm nữa thì hơn.

Pháp sư Á La nghe Trác Mộc Cường Ba thuật lại những suy đoán của Đức Nhân lão gia về giáo nghĩa của tôn giáo đó xong, bèn mỉm cười bảo: "Tuy rằng Đức Nhân lão gia luôn là bậc đại trí giả mà tôi vô cùng kính phục, nhưng về vấn đề này, tôi lại không tán đồng quan điểm của ông ấy. Phật và chúng sinh bình đẳng không chỉ là tín ngưỡng trong tôn giáo của chúng tôi, mà cũng là tín ngưỡng của một số tôn giáo bí mật khác nữa, ý nghĩa của nó vốn cũng tương đồng như quan niệm chúng sinh bình đẳng mà thôi, chỉ có điều, thứ mà chúng tôi tin tưởng vào đó, là một xã hội đại đồng hơn nữa. Trong xã hội ấy, thần Phật và chúng sinh đều bình đẳng, thông qua nỗ lực tu luyện của bản thân, hết thảy chúng sinh, từcao cao tại thượng như quân vương, thừa tướng, hay thấp hèn như loài sâu loài kiến, ai ai cũng đều có thể tu luyện thành Phật. Cường Ba thiếu gia không thể nào nói, tín ngưỡng như vậy là tà ác phải không?"

Trác Mộc Cường Ba đưa tay gãi gãi lên má qua lần băng vải. Pháp sư Á La lại tiếp lời: "Quan điểm "ta vốn là Phật" lại càng dễ giải thích hơn, ý chỉ rằng, người người đều có một trái tim từ bi hỷ xả, phổ độ chúng sinh, cứu người cứu mình, còn khát vọng muốn được trường sinh bất lão, sở hữu sức mạnh phá hoại tất thảy mà Trác Mộc Cường Ba nghĩ tới kia không thể nào xem "ta vốn là Phật" được, mà phải gọi là "ta vốn là Ma" mới đúng."

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, hình như giải thích như vậy cũng rất thông, bởi thế mà xưa nay gã đều cảm thấy những chuyện trong tôn giáo rất phiền phức, bảo tốt thì là tốt, bảo xấu thì tức là xấu, giải thích thế nào cũng xong, đành phải chờ xem năng lực lý giải của mỗi người như thế nào thôi vậy. Những điều pháp sư Á La nói cũng không phải không có lý lẽ, nhưng nghĩ đến huyết trì, cùng những thứ được thấy, được nghe ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự, Trác Mộc Cường Ba vẫn cảm thấy thật tà ác, ít nhất thì cũng không thể gọi là từ bi được. Pháp sư Á La lại nói: "Tôi biết trong lòng cậu đang nghĩ gì. Huyết trì và các tượng Phật tướng mạo hung hãn đó, dường như chắc đến mười mươi là vật sở hữu của tà giáo, nhưng thực ra lại không phải như vậy. Huyết trì lấy máu người làm nhiên liệu, lại phải đặt các cơ quan nội tạng ở các vị trí khác nhau mới có thể khởi động, điều này… điều này chắc là Cường Ba thiếu gia có thể lý giải được. Ở Tây Tạng thời xưa, địa vị xã hội của con người được phân biệt hết sức rõ rệt, những người nông nô ở tầng lớp thấp kém nhất, gần như là không có địa vị gì để mà nói cả, từ khoảnh khắc được sinh ra trên đời này, sinh mạng của họ, và cả của cha mẹ và tổ tiên nhà họ, đều thuộc về chủ nhân cả. Thân thể của họ cũng thường được dùng làm cống phẩm để hiến sinh cho các loại lễ tế khác nhau. Chắc là Cường Ba thiếu gia cũng biết điều này chứ nhỉ?"

Trác Mộc Cường Ba im như thóc, không nói một lời. Từ nhỏ, gã đã nghe chú La Ba kể chuyện, hồi trước Giải phóng, nông nô Tây Tạng đúng là chẳng hề có chút địa vị nào cả.

Pháp sư Á La lại nói: "Nghi thức này, thực ra chỉ là một tập tục xấu còn sót lại từ xã hội nguyên thủy nhất của loài người. Trong thời cổ đại từ ngàn vạn năm về trước, con người thảy đều sùng bái sức mạnh hủy diệt đất trời của đại tự nhiên, vả lại, cũng không thể có những nhận thức khoa học về chu kỳ sinh lý của bản thân mình, bọn họ thường hay lựa chọn tế lễ bằng máu tanh để khẩn cầu được ban cho sức mạnh lớn lao. Đồng thời, trong tiềm thức của họ, một số xúc cảm tiêu cực dồn nén đã lâu cũng được phát tiết trong những dịp tế lễ này. Không chỉ ở khu vực Tây Tạng chúng ta, mà người cổ đại trên toàn thế giới đều có những nghi thức tương tự như vậy, bao gồm cả Maya ở châu Mỹ mà cậu đã từng đến, Trung Nguyên cổ đại, châu u cổ đại, châu Phi cổ đại, mức độ tanh máu và tàn bạo đều không thua kém huyết trì, chỉ có điều, cùng với sự phát triển của nền văn minh, chúng đã dần dần biến mất, mỗi vùng lại có một kiểu truyền thừa khác nhau mà thôi. Còn Tây Tạng chúng ta, nằm trong môi trường tương đối khép kín trong một thời gian dài, tập tục xấu này mới được truyền thừa khá lâu đời như thế. Tuy vậy, điều này cũng không thể nói lên rằng nó tà ác, mà đơn giản chỉ là một vết sẹo để lại trong lịch sử nhân loại mà thôi. Còn những tượng Phật tạo hình hung ác kia ư, Cường Ba thiếu gia có thể tới bất cứ ngôi chùa ngôi miếu nào để quan sát, làm gì có chùa nào là không có tượng hung thần ác Phật, dùng để trấn yêu phục ma, cách gọi chính xác của những tượng Phật ấy phải là Phẫn nộ tướng của Bồ Tát và Kim Cương. Ngoài ra trong cả Mật pháp lẫn Hiển pháp, cũng không thiếu gì tượng Kim Cương lấy các bộ phận trên cơ thể người làm vật cầm trên tay, trong đó nhiều nhất chính là xương sọ, kế đó là tim người, da người. Tại sao lại khắc tạc ra những tượng Phật có hình dạng như thế chứ? Đó không phải để nói rằng Phật ăn thịt người, mà là biểu đạt sự răn đe và trừng phạt đối với kẻ ác, làm chuyện ácnhiều, chưa cần xuống tới địa ngục, khi còn đang sống cũng sẽ bị Phẫn Nộ Kim Cương hoặc Bồ Tát mổ bụng lấy tim, lột da cắt đầu. Còn tôn giáo trước đây của chúng tôi, có lẽ đã lấy việc trấn thủ ngọn nguồn cái ác làm nhiệm vụ, vì vậy nên tạo hình các tượng Bồ Tát đều có đặc biệt hung dữ hơn một chút, bằng không thì khó mà trấn áp được ác ma." Pháp sư Á La hạ thấp giọng xuống nói: "Tôi tin rằng, giáo lý của tôn giáo chúng tôi tin theo, tuyệt đối không phải là những điều tà ác đâu!"

Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Tôi cảm thấy, cha mình nói rất có lý, nhưng mà hôm nay nghe pháp sư nói, lại cũng thấy rất có lý, chúng ta không nên tùy tiện phán xét tư tưởng của cổ nhân một cách bậy bạ. Tư tưởng của người xưa có lẽ là trung tính, những người khác nhau sau khi xem xong lại có những cảm ngộ khác nhau, dẫu là giáo lý dẫn dắt con người ta hướng thiện tới đâu, đến tay những kẻ tà ác thì cũng bị lý giải thành tư tưởng tà ác mà thôi."

Pháp sư Á La nở một nụ cười, nói: "Cường Ba thiếu gia quả là người nhìn xa trông rộng, tôi biết là vậy mà."

Không lâu sau, Trương Lập cũng đến, vừa vào phòng đã đưa tay chào theo lối nhà binh, rồi cười cợt hỏi: "Đội trưởng, hôm nay có sắp xếp gì không?"

Trác Mộc Cường Ba cũng gượng gạo cười, đáp: "Cậu nhìn bộ dạng của tôi như vậy, nhúc nhích còn chẳng nổi, lại còn chẳng hiểu chuyện gì, cứ đợi đấy đã, xem thầy giáo có phân công gì không. Sao mọi người không đến cùng một lượtvậy?"

Trương Lập đáp: "Thói quen mỗi người mỗi khác, giống như đại sư Á La đây, dậy còn sớm hơn cả tôi nữa, còn thằng nhóc Nhạc Dương kia thì chỉ ngủ suốt cả ngày, thật không hiểu làm sao mà cậu ta lại được huấn luyện thành lính trinh sát nữa. Hừm, e là hôm nay giáo sư Phương Tân sẽ bảo chúng tôi đi thu thập các tài liệu về đấy."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo sẽ là đầu não chỉ huy của chúng ta, theo tôi, chắc mọi người đều không có ý kiến gì với sự phân công của thầy ấy đâu. Có điều, nói thực lòng, tôi không hy vọng mọi người bắt đầu hành động nhanh như vậy chút nào, mong rằng trong lúc dưỡng thương, mọi người có thể ở đây với tôi thêm vài ngày. Cậu biết đấy, ở chỗ này, tôi vẫn còn bị thương nặng lắm." Nói đoạn, gã đưa bàn tay băng bó gõ gõ lên bộ ngực cũng băng bó chằng chịt.

Trương Lập vỗ vỗ lên ngực Trác Mộc Cường Ba, nói: "Chuyện này thì đơn giản thôi, một hai năm nữa, anh và cô Mẫn Mẫn sinh thêm ba bốn đứa thì chỗ này có bị thương gì cũng lành hết cả thôi!"

Vừa đúng lúc đó, Đường Mẫn bước vào, nghe thấy câu cuối cùng, lập tức giận dữ trách móc: "Anh nói cái gì đấy, Trương Lập! Anh coi tôi là cái thứ gì chứ hả!" Nói xong, liền vung nắm đấm lên. Trương Lập cười ha hả, vội lách người sang một bên né tránh cú đánh của cô.

Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Á La mỉm cười nhìn hai người đuổi bắt nhau. Trác Mộc Cường Ba bỗng cảm thấy tim mình đau thắt lại… cảm xúc này… tại sao cảnh tượng trước mắt lại khiến gã cảm thấy đau lòng như vậy chứ? Đúng rồi, gã cũng từng có một thời trẻ dại, lúc ấy có một cô bé con ngày nào cũng bám lẵng nhẵng sau lưng gã, không bao giờ chịu rời xa, lại cũng rất hay giận dỗi nũng nịu, em gái…

Đường Mẫn không bắt được Trương Lập, liền quay sang mách với Trác Mộc Cường Ba: "Cường Ba à, anh xem đội viên của anh kìa, bây giờ anh ta bắt nạt em mà anh còn chẳng bênh, nếu mà… nếu mà, sau… sau này thì làm sao?"

Trương Lập nói: "Ủa? Cô Mẫn Mẫn không nói hết lời rồi, có phải muốn nói, sau này kết hôn thì làm sao đúng không?"

"Anh…" Đường Mẫn lại nhảy dựng lên đuổi theo Trương Lập. Trác Mộc Cường Ba khẽ đằng hắng trong cổ họng, nói: "Được rồi, Trương Lập, xét tình hình này, với tư cách đội trưởng, tôi phạt cậu đi mua đồ ăn sáng cho mọi người. Đồ ăn trong căng tin bệnh viện thực là khó nuốt quá đi mất."

Đường Mẫn nói: "Bên kia đường có tiệm Vĩnh Hòa Đại Vương 1, sữa đậu nành bánh quẩy ở đó cũng khá ngon, hôm qua tôi vừa ăn ở đấy rồi."

Đợi mọi người lần lượt đến đủ, phòng bệnh lại ồn ào thêm một phen nữa. Giáo sư Phương Tân nói với Trác Mộc Cường Ba, đã đến lúc mọi người phải bắt tay hành động rồi. Vậy là theo kế hoạch đã vạch ra từ trước, tất cả lại phân tán một lần nữa. Có điều lần này đã không còn cảm giác âu sầu buồn bã khi biệt ly mấy tháng trước, mà người nào người nấy cũng đều hừng hực lòng tin cả.

Mấy ngày tiếp sau đó, Trác Mộc Cường Ba nhận được một lượng thông tin rất lớn từ chỗ giáo sư Phương Tân chuyển qua, bao gồm cả quá trình tỉ mỉ của việc phá giải mật mã trên bao thuốc lá, bản phân tích cuốn nhật ký của Đường Thọ, những tiến triển mới nhất trong quá trình phân tích tư liệu mang ở Maya về, bản dịch mới nhất của Cổ cách kim thư, còn tối tối gã lại phải học thuộc khẩu quyết Mật tu, thử dùng ý thức cảm nhận hướng đi của mạch và chuyển động của luân xa. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy, đây cũng là một sự khiêu chiến với khả năng ghi nhớ của gã.

Trước khi vết thương của Trác Mộc Cường Ba lành hẳn, Đường Mẫn là người phụ trách chăm sóc việc ăn uống tắm giặt của gã. Mới chỉ mấy ngày ngắn ngủi bên nhau mà tình cảm của hai người đã càng thêm thân thiết, như keo như sơn.

Trong rất nhiều đầu mối, đầu mối có quan hệ mật thiết nhất với họ, và cũng là điều Trác Mộc Cường Ba quan tâm nhất, không là gì khác ngoài bản dịch mới nhất của Cổ cách kim thư. Vì các chuyên gia giải dịch theo từng đoạn một, hơn nữa Lữ Cánh Nam cũng phải thông qua nhiều kênh phức tạp rối rắm mới có được những bản dịch này, nên bản dịch trong tay gã bây giờ, cũng chỉ là một số đoạn tản mát không liền mạch.

Có điều, thông qua những đoạn văn tản mát này, bọn họ đã lờ mờ phán đoán ra được, vị sứ giả ấy tổng cộng xuất hiện ba lần trong lịch sử Cổ Cách. Đoạn nhắc đến chuyện sứ giả mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mà họ biết được từ trước, đã là lần xuất hiện thứ hai của vị sứ giả này rồi. Trong những gì sứ giả nói, lộ ra rằng ông ta đã từng đến Cổ Cách trước đó. Còn nữa, khi sứ giả mang theo tín vật vượt đường xa vạn dặm đến miền đất khác, từng có ước định với quốc vương, nếu như vẫn còn sống, nhất định sẽ trở về hội kiến với quốc vương thêm lần nữa. Chỉ tiếc một điều là, phần nửa sau giải đáp câu hỏi rốt cuộc sứ giả có trở lại hay không của Cổ cách kim thư cho đến giờ vẫn không ai biết đang lưu lạc nơi nào.

Cả giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba đều không tùy tiện đem Tây Thánh sứ được nhắc đến trong Cổ cách kim thư và hai vị Thánh sứ được các vị trưởng lão ở thôn Công Bố thừa nhận, cũng chính là Merkin và Trác Mộc Cường Ba, đánh đồng với nhau. Bởi vì, dựa theo những gì dịch từ cổ ngữ, vị Thánh sứ này được chọn trong những bậc đại trí, hoặc giả có huyết thống cao quý thuần chủng. Chẳng những thế, vị Thánh sứ Bì Ương Bất Nhượng này không hề được ghi chép trong Cổ cách kim thư, căn bản không thể tìm thấy truyền thừa lịch sử của ông ta, nên chỉ có thể coi là một phỏng đoán mà thôi. Nếu trực tiếp liên hệ so sánh ông ta với hai người bọn Trác Mộc Cường Ba và Merkin, thì thật là thiếu chứng cứ lịch sử.

Một điều nữa khiến Trác Mộc Cường Ba càng thêm chấn động và kinh ngạc là khi đó, vị Cổ Cách vương Y Tây Ốc Bá kia chẳng những là nhà tài trợ cho sứ giả mang Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến nơi chân trời góc biển, mà còn có liên quan tới một món thánh vật khác nữa. Từ những đoạn văn dịch không liền mạch, có thể đưa ra một kết luận mơ hồ rằng, ước định của sứ giả và quốc vương khi ấy là, ông ta mang theo một trong ba món tín vật vượt đường xa đến đầu bên kia của góc biển chân trời, còn quốc vương cũng bí mật phái đi một vị sứ giả khác, mang theo một tín vật nữa, đến một nơi xa xăm góc biển chân trời khác. Còn chuyện quốc vương có hoàn thành ước định ấy hay không thì bản dịch không nhắc cụ thể tận tường, mà dường như đã ẩn giấu đầu mối vào sự kiện quốc vương phái đi hai mươi người con xuất sắc nhất của Cổ Cách đến phương Tây. Ở bên dưới đoạn văn dịch một cách hàm hồ khó hiểu này, giáo sư Phương Tân đã vạch một đường bằng bút đỏ, đồng thời chú thích ở bên cạnh: vào khoảng năm 975 đến 981 sau Công nguyên, sự kiện Cổ Cách vương phái đi hai mươi mốt thiếu niên thông huệ nhất đến Thiên Trúc học Phật, lịch sử và ẩn ngữ ám thị dường như có một sự trùng khớp nào đó.

Còn vấn đề hơn hai mươi thiếu niên Cổ Cách ấy có mang theo thứ gì hay không, thì trong Cổ cách kim thư không hề nói rõ. Giáo sư Phương Tân đã cẩn thận tiến hành sắp xếp lại những tư liệu lịch sử có thể tra ra được, liên quan đến hơn hai mươi thiếu niên sang Thiên Trúc học Phật kia. Căn cứ theo các tư liệu ấy, các thiếu niên đó đã xuất phát một cách rất bí mật, vì vậy thời gian cụ thể không sao xác định được, mà rốt cuộc họ đã đi đâu cũng không sao làm rõ được, chỉ biết rằng hơn hai mươi người ra đi, cuối cùng còn có hai người sống trở về. Hai người này bái A Để Hiệp 2 đại sư làm thầy, về sau đều trở thành những dịch giả nổi tiếng nhất trong lịch sử Cổ Cách. Quãng thời gian bọn họ ra nước ngoài cầu Phật cũng khoảng chừng hơn mười năm, không hề ngắn hơn quãng thời gian mà vị sứ giả vượt Thái Bình Dương tiến về phía Đông kia là mấy đâu.

Còn về món tín vật thứ ba, trong những đoạn dịch rời rạc họ đang có vẫn chưa thể phát hiện ra bất cứ đầu mối nào liên quan đến nó. Rốt cuộc là nó đã được giao cho người khác, hay bị hủy diệt, hay vẫn còn ở lại đất Tạng, không một ai có thể đoán chắc được, chỉ biết rằng vị sứ giả kia đã từng nói có ba món tín vật mà thôi.

Tuy nhiên từ bản dịch xuất hiện ba nghi vấn. Thứ nhất, thái độ của sứ giả đối với ba món tín vật; từ một vài đoạn, có thể thấy rằng mục đích của sứ giả là muốn giao chúng cho ba người khác nhau, nhưng trong một số đoạn khác thì hoàn toàn khác hẳn, sứ giả muốn giấu hai món tín vật đi, tốt nhất là có thể chia ra hai nơi chân trời góc biển, vĩnh viễn không bao giờ để tái hợp. Sự thay đổi thái độ này vừa đột ngột vừa ly kỳ, đồng thời trong toàn bộ các đoạn dịch vẫn chưa tìm được bất cứ nguyên nhân hay bối cảnh nào có thể khiến thái độ của sứ giả có chuyển biến, đây quả là một điều khiến người takhông sao nghĩ thông cho nổi. Giáo sư Phương Tân bảo Trác Mộc Cường Ba, nói theo kiểu đùa cợt của Nhạc Dương, thì là với những tư liệu họ hiện có trong tay, chỉ có thể đưa ra kết luận rằng vị sứ giả ấy đã mắc chứng bệnh tâm thần phân liệt cực kỳ nghiêm trọng.

Điểm thứ hai, là thái độ của Cổ Cách vương đối với tín vật. Một số đoạn thì nói, quốc vương cực kỳ tôn kính sứ giả, đã chấp hành vô điều kiện tất cả các yêu cầu của sứ giả. Nhưng một số đoạn khác lại kể quốc vương ngấm ngầm sai người ngăn trở, phá rối sứ giả. Chẳng trách trước đây Lữ Cánh Nam nói với chúng ta rằng, sứ giả muốn giao tín vật cho người khác, còn quốc vương lại muốn giữ tín vật lại. Sự thực thì cả các chuyên gia cũng chưa hiểu được rốt cuộc chuyện này là như thế nào nữa.

Điểm nghi vấn thứ ba cũng có liên quan đến tín vật. Tổng hợp tất cả những đoạn văn mà họ có lại, có thể thấy bản dịch ngầm ám chỉ rằng món tín vật thứ hai ngoài Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu kia, đã được quốc vương sai người bí mật đưa đi nơi khác. Đồng thời, trong đó lại có hai ba đoạn đặc biệt chỉ ra rằng, món tín vật ấy là một tấm bản đồ và đã bị quốc vương giữ lại. Đem gộp các đoạn này lại đối chiếu, so sánh, thực khiến người ta không thể hiểu thực hư thế nào, chỉ còn biết chờ đợi các chuyên gia dịch toàn bộ nội dung của Cổ cách kim thư ra thôi vậy.

Ngoài chuyện này ra, các tư liệu thời Thế chiến II mà bọn giáo sư Phương Tân tra ra trong lúc phá giải mật mã của quân Đức Quốc xã cũng khơi gợi được sự tò mò và hứng thú của Trác Mộc Cường Ba. Gã vẫn còn lờ mờ nhớ được, từ rất lâu trước đó, Lữ Cánh Nam đã nhắc rằng nước Anh từng có được các tư liệu của Morton Stanley, nhưng sau Thế chiến I các tư liệu này đã bất ngờ biến mất, về sau không biết vì nguyên nhân gì mà chúng lại lọt vào tay người Đức. Có điều, hồi đó Lữ Cánh Nam chỉ nói thoáng qua một câu, không giải thích rõ. Về sau, trong tư liệu của bọn gã cũng không hề có những giải thích hay phân tích gì về phương diện này. Lần này, giáo sư Phương Tân đã bắt tay vào điều tra một cách kỹ lưỡng hồ sơ của Hitler và một số quan chức cấp cao của đảng Nazi, đồng thời bổ sung vào đó các suy đoán của cá nhân ông, khiến Trác Mộc Cường Ba lại có nhận thức mới về vấn đề này.

--------------------------------

1 Một thương hiệu thức ăn nhanh kiểu Trung Quốc rất nổi tiếng.

2 Hay còn gọi là Atisa.