- Tại hạ xin đa tạ tôn giá, về chỗ đã bắt hai tên trộm ngựa này cho! Người che mặt cũng cất tiếng cười, đáp rằng:
- Hai gã này định gây thương tích cho đôi ngựa của các hạ, hầu sáng mai khi các hạ lên đường, thì hai con ngựa ấy sẽ bất thần té khụy, và thừa dịp đó bọn chúng tràn ra để xuống tay. Tuy các hạ chắc chắn không sợ chi tài nghệ yêu quỷ của lũ chúng, nhưng hành động hèn mạt ấy của chúng quả thực là đáng ghét. Các hạ cứ thử xem có phải không? Lữ Đằng Không nói:
- Lời của bằng hữu nói không sai tí nào cả. Bởi thế, cần phải trừng trị chúng để cảnh cáo mới được.
Người che mặt bèn buông lỏng hai bàn tay ra, đồng thời, lại nghe hai tiếng bốp, bốp nổi lên. Thế là Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều ngã chúi xuống đất, nằm sóng sượt.
Lữ Đằng Không khi thấy người che mặt vừa buông lỏng hai bàn tay ra, thì đã nhanh như chớp, ấn mạnh lòng chưởng vào Thiên Trụ huyệt trên gáy của họ. Do đó, chắc chắn Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường đều phải bị trọng thương, dù cho không chết, sau này cũng không mong chi xuất đầu lộ diện trong võ lâm để gây thêm tội ác, hành động ngang tàng nữa.
Tây Môn Nhất Nương cười, nói:
- Khoái lắm! Khoái lắm! Đối với lũ yêu quái này, cần phải trừng trị như vậy mới được! Người che mặt nói:
- Lữ phu nhân là người ghét cay ghét đắng phường gian ác, chứng tỏ lòng hào hiệp thực khó ai bì.
Người che mặt ấy xuất hiện một cách đột ngột, và đã sử dụng mấy thế võ kỳ tuyệt để đối phó với Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường, chứng tỏ võ công của ông ta cao cường tuyệt đỉnh. Nhưng vì ông ta dùng vải đen che kín khuôn mặt, đồng thời, y phục nếu so với những người khác, cũng không có chi khác biệt, nên vợ chồng Lữ Đằng Không chẳng làm sao nhận xét ra đối phương là ai cả. Hơn nữa, người ấy nói năng lại rất khách sáo, nên càng làm cho Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương khó hiểu được đối phương là kẻ có ý định gì.
Lữ Đằng Không lên tiếng nói:
- Nếu không nhờ thủ pháp cao cường tuyệt đỉnh của tôn giá, thì cũng chẳng dễ chi trừng trị được hai con yêu này! Ông ta chẳng biết nói chi khác hơn là những lời khách sáo ấy. Lúc bấy giờ, Bạch Vô Thường và Hắc Vô Thường cũng đang lồm cồm bò dậy, nên người che mặt ấy đã quát rằng:
- Sao hai ngươi chưa chịu cúi lạy, xin lỗi Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân? Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường nghe thế, đều đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, không nói nên lời.
Vì bọn họ đều là số người có địa vị rất cao trong các môn hạ của Quỷ Thánh Thạnh Linh. Ngay trong võ lâm, bọn họ cũng là số người tương đối có danh vọng, thế mà ngày hôm nay lại bị thất bại ê chề, nên hoang mang chẳng hiểu tại vì đâu mà mình lại bị trọng thương đến mức ấy.
Tuy nhiên, họ đã tự biết đối phương chẳng phải là tay tầm thường, nên đứng sửng sờ trong giây lát, rồi liền nói ấp úng rằng:
- Anh em chúng tôi đã biết được Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân, chỉ riêng có các hạ, chẳng hiểu cao tính đại danh là gì? Người ấy cười nói:
- Bọn các ngươi tìm hiểu danh tánh của ta, thì có thể trở về sào huyệt, gọi Quỷ Thánh đến đây trả thù giúp cho được hay sao? Tên tuổi của ta không nổi bật lắm, nên chẳng làm thế nào bì kịp với Lữ Tổng tiêu đầu và Lữ phu nhân. Nhưng các ngươi chỉ cần trở về Bắc Mang Sơn thuật lại mọi việc đã gặp ngày hôm nay, có lẽ Quỷ Thánh còn nhớ ra được ta là ai.
Thôi, bọn các ngươi sao không chịu quỳ lạy, xin lỗi cho mau đi! Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường đang lâm vào khung cảnh bất khả kháng, nên vì sự sống còn, cả hai liền vâng lệnh xin lỗi Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương, rồi quay lưng lủi đi mất.
Tây Môn Nhất Nương đứng bên cạnh, thấy người che mặt ấy không bằng lòng nói rõ danh tánh cho hai gã Hắc Bạch Vô Thường nghe, thì biết dù mình có hỏi đi nữa, chắc chắn cũng là vô dụng. Do đó, bà ta liền đi thẳng vào đề rằng:
- Giữa đêm khuya như thế này, tôn giá tìm đến đây chẳng rõ có việc làm quý hóa chi? Vậy, tôn giá cứ nói thẳng ra cho! Người ấy xoa đôi tay, dường như hết sức ái ngại và qua một lúc thực lâu mới đáp:
- Có phải nhị vị định đi đến Tô Châu phủ phải không? Lữ Đằng Không đáp:
- Đúng thế! Người che mặt ấy nói tiếp:
- Kim Tiên đại hiệp ở Tô Châu hiện trong nhà đang có biến cố to, vậy e rằng nhị vị tìm đến đó lại sẽ gây ra việc hiểu lầm không hay chăng? Giờ đây, tại hạ có một lời yêu cầu bất đắc dĩ, song chẳng rõ nhị vị có bằng lòng chấp nhận cho không? Lữ Đằng Không nghe qua câu nói của đối phương, tuy cảm thấy có lắm điều khó hiểu, nhưng vì thái độ của đối phương lúc nào cũng tỏ ra khách sáo, nên liền ôn tồn hỏi:
- Chẳng hay tôn giá có điều yêu cầu chi? Người ấy đáp:
- Trong chuyến đi này của các hạ, có lẽ chính là để áp tải một vật chi đó cho một khách hàng chăng? Chẳng hay các hạ có thể vui lòng cho tại hạ được xem qua vật đó không? Lữ Đằng Không trông thấy đối phương nói quanh nói quẫn, rồi cũng đề cập đến chiếc hộp gỗ kia, nên trong lòng không khỏi tức giận, cười nhạt đáp:
- Việc ấy không làm sao chấp nhận được! Người ấy bèn cất tiếng than dài, nói:
- Tôi cũng đoán biết trước, là Lữ Tổng tiêu đầu không khi nào chịu chấp nhận. Nhưng nếu tại hạ bằng lòng lấy một con người để đánh đổi vật ấy với Lữ Tổng tiêu đầu, thì chẳng hay Lữ Tổng tiêu đầu có chịu không? Lữ Đằng Không không khỏi bắt tức cười thầm, nói:
- Tôn giá thật sự là ai thế? Tại sao lại cứ nói dài dòng và không đâu mãi thế? Nhưng Tây Môn Nhất Nương như chợt hiểu ra điều gì, bèn lên tiếng nói:
- Ông định dùng ai để đánh đổi chiếc hộp gỗ ấy với chúng tôi? Người ấy đáp:
- Người đó, chắc chắn nhị vị...
Câu nói mới đến đây, thì bỗng nghe từ phía xa có tiếng hú thật to, nhưng rất ngắn ngủi vang lên. Những tiếng hú ấy đã xé tan màn đêm, vọng đến nghe rõ mồn một! Người che mặt ấy bỗng nhảy lùi ra sau gần một trượng, nói:
- Những người đồng hành với tại hạ đang có chuyện cấp bách nên đã lên tiếng gọi, vậy tại hạ xin tạm cáo lui ngay bậy giờ! Tây Môn Nhất Nương vội vàng tràn ngay người tới trước quát rằng:
- Bằng hữu, nên nói cho hết lời rồi sẽ đi! Nhưng trong khi Tây Môn Nhất Nương còn đang lên tiếng nói, thì người ấy lại nhảy lui ra sau đến ba bốn trượng nữa. Tây Môn Nhất Nương trông thấy thế, thì lại tiếp tục truy đuổi theo, Nhưng người ấy bỗng bất thần quét mạnh tới một chưởng, và Tây Môn Nhất Nương cũng đã kịp thời vung chưởng quét ra đỡ thẳng.
Thế là, qua một tiếng ầm to, hai luồng chưởng lực đã va chạm thẳng vào nhau. Tây Môn Nhất Nương cảm thấy đối phương có một nguồn nội lực vô cùng dồi dào, bà ta tuy có đủ sức đối địch, nhưng đối phương đã nương vào sự va chạm ấy, tiếp tục nhảy lui ra sau, rồi dùng một thân pháp nhanh chóng, cơ hồ chẳng phải là thân pháp của một con người nữa, nhanh nhẹn biến mất vào màn trời đêm.
Tây Môn Nhất Nương không khỏi sửng sốt, quay đầu lại nói:
- Tiếng hú vừa rồi nổi lên từ hướng nào, ông nghe rõ chăng? Lữ Đằng Không đáp:
- Dường như phía tây nam thì phải! Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế, chúng ta hãy truy đuổi theo mau! Lữ Đằng Không lấy làm lạ, nói:
- Hắn ta bỏ đi thì thôi, chúng ta còn đuổi theo hắn để làm gì? Câu nói của Lữ Đằng Không chưa dứt, thì Tây Môn Nhất Nương đã nhắm hướng tây nam lướt đi nhanh như một luồng gió hốt. Do đó, Lữ Đằng Không bất đắc dĩ cũng phải bám sát theo sau. Thân pháp của hai người cũng hết sức nhanh nhẹn, nên chỉ trong chớp mắt sau là đã lướt đến một đỉnh núi nhỏ rồi.
Lữ Đằng Không và Tây Môn Nhất Nương đứng trên đỉnh núi cao, nhìn trở xuống thì thấy khắp bốn bề, đâu đâu cũng tối đen như mực, nên chẳng biết cánh rừng chung quanh có loài cây chi.
Sau đó, hai người lại rảo mắt khắp bốn bên, cố quan sát địa hình thực kỹ, nhưng chỉ thấy giữa một cánh rừng rộng lớn đen ngòm, có một con đường hẹp duy nhất là có thể vượt qua được cánh rừng ấy mà thôi. Ngoài ra, chung quanh đấy không còn một con đường nào khác nữa.
Tây Môn Nhất Nương bèn đưa tay chỉ về phía con đường mòn nhỏ ấy, nói:
- Chúng ta hãy đi theo con đường mòn nhỏ ấy để truy đuổi theo kẻ địch mau! Lữ Đằng Không vẫn không hiểu mục đích của Tây Môn Nhất Nương muốn truy đuổi theo người che mặt ấy để làm gì, nên lên tiếng hỏi:
- Phu nhân, chúng ta đuổi theo hắn để làm chi chứ? Tây Môn Nhất Nương cất giọng bực tức nói:
- Chúng mình hãy truy đuổi theo hắn ta trước đã, và chờ khi đuổi kịp hắn tất sẽ rõ tại sao, chớ nên hỏi lôi thôi dài dòng nữa! Lữ Đằng Không nghe qua giọng nói ấy của vợ mình, thấy tựa hồ việc này như vô cùng quan trọng. Từ trước đến nay, lão ta biết bà vợ già của mình là người mưu trí phi thường, có lẽ còn cao vượt hơn lão ta nữa, nên chẳng dám hỏi thêm mà cùng nhanh nhẹn chạy trở xuống phía dưới chân núi ngay tức khắc.
Khi hai người lướt đến sát bìa rừng, và nhìn rõ những cây cối mọc um tùm trong cánh rừng ấy, thì không khỏi giật mình. Vì cả khu rừng to lớn ấy, đều mọc toàn cây gai góc chằng chịt. Những chiếc gai nhọn từ nhành cây nhô ra, dài có đến gần một tấc, trên mũi lại hết sức bén. Do đó, chớ nói chi là con người, mà dù là loài dã thú quen sống trong rừng, cũng không dễ gì vượt qua được cánh rừng đó.
Sau khi hai người tìm đến con đường mòn, thì thấy con đường ấy chỉ rộng độ một thước mộc, dù cho có lách mình để bước tới, thì e rằng y phục mặc trên người cũng sẽ bị gai góc móc rách toạc tất cả.
Tây Môn Nhất Nương tỏ ra do dự trong giây lát, nói:
- Nơi này chính là một địa điểm tốt để thử thách tài khinh công của người ta đây! Dứt lời, bà ta vận dụng chân khí trong người, phi thân bay vọt lên. Khu rừng đầy gai góc ấy, nhánh nhóc dính liền nhau chằng chịt, lá cây rậm đen như không hề có một khe trống, cơ hồ đến gió cũng không thể thổi lọt. Do đó, Tây Môn Nhất Nương vừa phi thân bay vọt lên đầu ngọn cây, liền sử dụng ngay thuật khinh công Thảo Thượng Phi, tiếp tục lướt tới nhanh như gió. Tuy dưới chân bà ta toàn là những gai góc bén nhọn, nhưng nhờ thân người của bà ta nhẹ như một con chim yến, nên chẳng hề gây được thương tích chi cho bà ta cả.
Lữ Đằng Không thấy vợ mình phi thân bay vọt lên cao, thì cũng vội vàng bám sát theo sau. Thế là, hai người một trước một sau, lướt đi nhanh như hai vì sao sa. Chỉ trong thoáng chốc đã lướt đi được hai ba mươi trượng rồi. Thế là, họ đã bắt đầu xâm nhập vào trung tâm khu rừng.
Nhưng giữa lúc hai người đang tiếp tục lướt tới, thì bất thần nghe có ba tiếng rít gió vèo vèo liên tiếp nổi lên, rồi lại trông thấy có ba đốm sao bạc, từ bên dưới cánh rừng bay vút lên theo hình tam giác, nhắm ngay lồng ngực của Tây Môn Nhất Nương bắn tới.
Tây Môn Nhất Nương liền kêu to lên rằng:
- Này ông, hãy thận trọng đấy! Ba mũi ám khí nọ vốn đang nhắm tấn công ngay về phía Tây Môn Nhất Nương, thế mà bà ta lại lên tiếng gọi Lữ Đằng Không hãy thận trọng, nên mới nghe qua dường như hết sức vô lý. Song, kỳ thực thì tiếng kêu của bà ta vừa dứt, thì thân người bà ta đã lách ngang nhanh như chớp để tránh. Và trong giây phút ngắn ngủi đó, ba món ám khí màu bạc kia, đã lướt thẳng qua khỏi bà ta, rồi tiếp tục bay về phía trước nhanh như điện xẹt.
Lữ Đằng Không vốn đang bám sát theo sau Tây Môn Nhất Nương, nên khi Tây Môn Nhất Nương vừa lách mình tránh ngang, thì ba đốm sao bạc ấy đương nhiên nhắm ngay Lữ Đằng Không công tới.
Chính Tây Môn Nhất Nương đã thấy trước được điều đó, nên mới lên tiếng bảo Lữ Đằng Không phải cẩn thận đề phòng.
Lữ Đằng Không nhờ tiếng kêu ấy của Tây Môn Nhất Nương, nên đã sẵn sàng đối phó với mọi điều bất trắc. Bởi thế, khi thấy ba đốm sao bạc bay vèo tới nơi, thì lão ta đã chụp ngọn Tử Kim Đao tuốt ra khỏi vỏ nghe một tiếng rẻng, đồng thời nhanh như chớp, vung lên đỡ thẳng vào ba đốm sao bạc nọ. Tức thì, qua ba tiếng xoảng, xoảng, xoảng đi đôi với ba đốm lửa đỏ lóe lên sáng ngời, ba món ám khí nọ đã bị hất bay cả ra xa.
Trong khi đó, đôi chân của Lữ Đằng Không vẫn tiếp tục lướt nhanh tới trước, chẳng hề chậm lại tí nào. Nhưng lão ta vừa quét rơi ba đốm sao bạc trước mặt, thì bất thần lại nghe dưới chân mình có một luồng gió lạ quét tới, nên vội vàng dừng chân đứng lại ngay tức khắc.
Chừng ấy, lão ta mới cảm thấy tại bắp chân bị đau buốt, và khi cúi đầu nhìn xuống, thì lại thấy có một cái móc thép sáng ngời như bạc, đang từ dưới cánh rừng thò lên, và chỉ còn cách xa ống chân của lão ta trong đường tơ kẽ tóc.
Bởi thế, nếu tài nghệ của Lữ Đằng Không chưa tiến tới mức cao cường tuyệt đỉnh, và do đó, không thể kịp thời dừng chân đứng yên lại, thì chắc chắn với thế lướt tới nhanh nhẹn của lão ta, tất chiếc móc thép sáng ngời kia, sẽ cắt đứt tiện đôi chân của lão ta rời khỏi thân người rồi.
Song, cũng may là lão ta đã phát giác kịp thời, nên dừng chân đứng yên lại ngay. Tuy nhiên, ngay bắp chân của lão ta, cũng bị mũi nhọn của chiếc móc thép ấy rạch đứt thành một đường dài, máu tuôn xối xả.
Lữ Đằng Không hết sức tức giận, liền vung ngọn Tử Kim Đao quét thẳng xuống phía dưới chân. Thế là, qua một tiếng xoạc, ngọn đao của lão ta cuốn thẳng về phía ấy nhanh như gió hốt, mãnh liệt như thủy triều dâng. Đồng thời, lão ta quát to rằng:
- Bằng hữu phương nào mà lại hành động mờ ám, thực không còn kể chi sỉ diện nữa.
Luồng đao phong của Lữ Đằng Không vừa cuốn qua, là một vùng nhánh nhóc cây rừng thực to đã bị quét đứt tiện, tuôn đổ lào xào. Đồng thời, móc thép sáng ngời ấy cũng thụt trở xuống mất hút.
Lữ Đằng Không vì dừng chân đứng lại đối phó với những trở lực ấy, nên Tây Môn Nhất Nương đã lẩn khuất giữa màn đêm không còn trông thấy đâu nữa.
Nhưng Lữ Đằng Không tạm thời không có đủ thời giờ để chú ý đến Tây Môn Nhất Nương, trái lại, lão ta nhanh nhẹn buông mình xuống phía dưới khu rừng, trong khi chân khí khắp người đều được vận dụng, nên chẳng những bảy mươi hai quan huyệt trong người lão ta được khóa cứng, mà cơ thể cũng trở thành hết sức cứng rắn, có thể lướt qua khỏi gai góc chung quanh một cách dễ dàng.
Do đó, số gai góc bén nhọn ấy, tuy đã làm rách toạc lớp y phục trên người lão ta, nhưng hoàn toàn không thể làm tổm thương mảy may đến da thịt của lão. Lữ Đằng Không sau khi đáp yên đôi chân tới mặt đất, bèn xông thẳng về phía trước, trong khi ngọn Tử Kim Đao trên tay cũng nhắm ngay nhành lá rậm rạp chung quanh quét vun vút, khi chém sang trái, lúc chặt sang phải, nên mặc dù cây rừng rậm rạp, mà lão ta vẫn có thể lướt tới trước nhanh nhẹn như con cá lội trong nước.
Khi lão ta tiến tới được chừng bốn năm trượng, bỗng thấy có một bóng người thấp thoáng ở phía trước, và cũng đang hành động như lão ta, để tiếp tục lướt tới.
Lữ Đằng Không bèn cất tiếng to cười ha hả, và cùng một lúc với tiếng cười, lão ta phi thân bay vọt lên khoảng cao, rồi bắt từ trên dùng thế Thiên Đăng Địa Liệt, vung ngọn Tử Kim Đao chém thẳng xuống nghe một tiếng vút, khiến ánh thép màu tía lóe lên chói rực như một chiếc cầu vồng ở giữa khoảng không.
Đường đao ấy là một thế tuyệt học của Lữ Đằng Không, có một uy lực vô cùng đáng sợ. Dù cho là một người bằng sắt đá đi nữa, cũng chắc chắn sẽ bị chém đứt lìa ra làm đôi! Trong cơn nguy cấp, bóng người ấy bèn nhanh nhẹn vung ngọn móc sắt đang cầm trong tay lên, để đỡ thẳng vào thế đao của Lữ Đằng Không...
Thế là, sau một tiếng xoảng, ngọn đao của Lữ Đằng Không đã chạm thẳng vào chiếc móc sắt của đối phương, khiến cái lưỡi bén của cái móc sắt, vốn đang quay về Lữ Đằng Không, đã bị áp lực của thế đao đè mạnh, nên bất thần đã quay ngược trở lại bóng người ấy.
Đồng thời, vì ngọn kình phong cuốn tới quá mạnh mẽ, nên lưỡi nhọn ấy bị hất bạt và cắm phập vào ngay đỉnh đầu của bóng đen nọ. Do đó, đối phương liền bị chết tốt dưới ngọn móc sắt trong tay của hắn ta.
Lữ Đằng Không chẳng ngờ đối phương lại quá tầm thường, không thể đỡ nổi một đường đao của mình như vậy. Do đó, lão ta không thể hối tiếc là mình đã sử dụng chân lực quá nhiều.
Nhưng Lữ Đằng Không nào biết trong cả võ lâm ngày nay, người am hiểu võ công tuy nhiều, nhưng số người có thể đỡ nổi đường đao ấy của lão ta, có lẽ chẳng vượt hơn ba mươi người.
Bởi thế, đối phương không phải là một cao thủ tuyệt đỉnh có võ công đứng hàng đầu trong giới giang hồ, thì bị chết thảm thiết như vậy là lẽ tất nhiên. Liền đó, Lữ Đằng Không nhanh nhẹn thò tay chụp xác chết, xách bổng lên xem kỹ lưỡng, thấy khuôn mặt của hắn ta đang nhuộm đỏ máu tươi, nên không làm sao nhận ra được đấy là ai nữa. Tuy nhiên, Lữ Đằng Không biết đấy cũng là một trong những nhân vật đang dòm ngó đến chiếc hộp gỗ mà mình đang lãnh áp tải.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn vung tay ném thẳng xác chết ấy ra, và bỗng lão ta trông thấy có một vật chi từ trong người xác chết đó rơi trở xuống mặt đất.
Bởi thế, Lữ Đằng Không bèn hối hả tràn tới một bước, rồi lấy mũi đao hất mạnh vật ấy lên, chụp gọn vào lòng bàn tay xem kỹ qua, nên sắc mặt không khỏi lộ vẻ kinh ngạc...
Thì ra đấy chính là một cái thẻ bạc, to độ bằng bàn tay, bên trên có khắc năm chữ: "Địa Hương Đường Chủ: Huỳnh". Và bề trái của tấm thẻ bạc ấy, lại có chạm một bó đuốc đang cháy đỏ rực.
Lữ Đằng Không xem qua tấm thẻ bạc ấy, lẽ tất nhiên đã hiểu đấy chính là tấm lệnh bài của mười hai Đường chủ trong phái Hoa Sơn. Như vậy, kẻ vừa bị lão ta chém chết ấy, chính là Địa Hương Đường chủ của phái này rồi.
Nếu thế, chả lẽ phái Hoa Sơn đã cho người theo dõi mình rồi chăng? Lữ Đằng Không vung tay ném bổng chiếc thẻ bạc ấy lên không, rồi lại vung đao chặt thẳng vào nó, và sau một tiếng kẻng, tấm thẻ bạc ấy đã bị hất bắn đi tít mù.
Sau đó, Lữ Đằng Không bèn nhanh nhẹn phi thân bay bổng lên, tiếp tục lướt thẳng về phía trước mặt, và chẳng mấy chốc lão ta đã gặp một con suối đang chảy róc rách giữa cánh rừng rậm rạp.
Nhưng Lữ Đằng Không chẳng hề trông thấy bóng dáng của Tây Môn Nhất Nương đâu cả, và cũng không thể đoán biết được bà ta đã bỏ đi về hướng nào.
Trong lòng của Lữ Đằng Không không ngớt nghĩ ngợi, là Địa Hương Đường chủ của phái Hoa Sơn đã xuất hiện tại nơi này, chả lẽ người che mặt vừa rồi lại chính là Liệt Hỏa Tổ Sư, tức vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn đấy chăng? Nhưng khi lão ta nhớ lại hình dáng của bóng người ấy, lại thấy hoàn toàn không giống nhau với Liệt Hỏa Tổ Sư của phái Hoa Sơn. Vì vị Chưởng môn phái Hoa Sơn chính là người Tây Vực, tóc đỏ như lửa, thân hình vạm vỡ to lớn, mỗi khi ra đi, dấp dáng rất uy nghi, tuyệt đối chẳng khi nào lại đi đứng một mình như vậy.
Nếu thế, Tây Môn Nhất Nương đã truy đuổi theo một nhân vật hoàn toàn không hiểu lai lịch, và chính vì vậy, cũng chắc chắn sẽ là một kẻ thù khó đối phó nhất. Do đó, Lữ Đằng Không lo ngại cho người vợ già của mình sẽ bị thiệt thòi vì cô thế chăng? Giữa lúc lão ta đang định tiếp tục phi thân lướt thẳng về phía trước để tìm Tây Môn Nhất Nương, bỗng nghe về phía bên kia bờ suối, có một người buột miệng kêu kinh ngạc rằng:
- Ồ! Và Lữ Đằng Không đã nhận ra được, đấy rõ ràng là tiếng của Tây Môn Nhất Nương, nên hối hả gọi:
- Nhất Nương, bà ở đó phải không? Bên kia bờ suối liền thấy có một bóng người di động chập chờn, và chỉ trong thoáng chốc, là Tây Môn Nhất Nương đã xuất hiện. Bà ta lên tiếng nói:
- Ông hãy mau qua đây, xem cái chi đây này! Lữ Đằng Không trông thấy vợ mình được bình an vô sự, nên cũng tạm yên lòng. Lão ta khẽ nhún đôi chân vượt qua dòng suối, rồi buông mình đáp nhẹ xuống bên cạnh Tây Môn Nhất Nương, đưa mắt nhìn về hướng tay chỉ của bà ta, trông thấy trên một nhành tùng cổ thụ cao vút ở cạnh đấy, có một thanh đao sáng lập lòe ánh thép cắm cứng trên ấy. Do đó, Lữ Đằng Không buột miệng kêu thất thanh rằng:
- Ồ! Đấy chính là thanh đao bằng thép Miến Điện của Lân nhi.
Tiếp đó, lão ta lại bất giác kêu to rằng:
- Lân nhi! Lân nhi! Con ở đâu? Con ở đâu? Tây Môn Nhất Nương hừ một tiếng nói:
- Chắc chắn là chỉ có thanh đao ở đấy thôi, chớ nào có Lân nhi đâu đấy mà kêu? Lữ Đằng Không hết sức thất vọng, nói:
- Phải rồi! Lân nhi nào còn sống trên dương trần này nữa! Hai người ngó mặt nhau im lặng một lúc lâu, không ai nói chi thêm nữa. Đã suốt mấy ngày qua, đây là lần thứ nhất hai vợ chồng Lữ Đằng Không lại nhắc chuyện đau lòng nhất trong đời họ.
Sự im lặng kéo dài thêm một lúc khá lâu, thì Tây Môn Nhất Nương mới cất giọng buồn bã nói:
- Bắp chân của ông làm sao thế? Lữ Đằng Không biết sở dĩ vợ mình hỏi thế, chính là có ý muốn đánh trống lảng, để mình không còn nhớ đến việc Lân nhi nữa. Vì đấy chính là một việc đau lòng nhất trong đời họ, chắc không còn việc chi đau lòng hơn nữa. Và dù cho họ là người võ công cao cường tuyệt đỉnh, nhưng đứng trên tình cảm họ vẫn biết đau xót như tất cả những bậc làm cha mẹ đã bị mất con.
Do đó, có lẽ Tây Môn Nhất Nương tự biết, nếu cứ gợi lại chuyện đau đớn ấy mãi, chắc chắn cả hai không làm sao chịu đựng nổi trước sự giày vò về tinh thần, và chắc chắn sẽ đưa đến tình trạng vì quá đau buồn mà bị nội thương chăng.
Lữ Đằng Không hiểu thế, nên cũng vội vàng quay sang chuyện khác, nói:
- Vừa rồi, có một gã đàn ông mai phục bên dưới cánh rừng, và đã dùng một cái móc thép bén quét vào đôi chân tôi, chỉ bị thương nhẹ, chẳng hại chi cả.
Tây Môn Nhất Nương nói:
- Nếu thế, thì có lẽ kẻ ném ám khí vừa rồi cũng là người ấy chứ gì? Nhưng món ám khí của hắn ta sử dụng, rất giống loại ám khí riêng biệt của phái Hoa Sơn, có tên gọi là Ngân Hoàng Phi Tiêu.
Lữ Đằng Không nói:
- Đúng thế! Gã đàn ông ấy chính là người trong phái Hoa Sơn, và đã bị chết dưới thanh Tử Kim Đao của tôi rồi. Hắn ta là Đường chủ Địa Hương của phái ấy.
Tây Môn Nhất Nương gật đầu nói:
- Nếu thế thì hắn là Huỳnh Hán, Đường chủ Địa Hương rồi. Hắn ta từ trước đến nay vẫn sử dụng binh khí có hình dáng như một cái móc thép. Xem ra, số nhân vật của phái Hoa Sơn cũng đang theo dõi chúng ta đấy!