Cuối cùng thì tôi cũng đến thủ đô. Thật là một hành trình lạ lùng để đến đây, sau một chuyến đi vòng vèo đến thế. Nếu từ thị trấn ở thượng nguồn tôi đến thẳng đây thì thủ đô có vẻ như là mênh mông,giàu có. Nhưng sau khi đã ở châu Âu, và London thì nó dường như là rất nhạt nhoà dù cho tầm vóc của nó, một mô phỏng châu Âu ở cuối khu rừng đó.
Những người khách châu Âu có kinh nghiệm không để ý đến những bức ảnh Tổng thống với chiếc gậy chỉ huy của mình, gây áp lực ở chỗ những nhân viên nhập cảnh và hải quan để được đi qua nhanh. Tôi tự hỏi sự tự tin của họ, nhưng họ chủ yếu là những người được bảo vệ - nhân viên sứ quán, những người làm việc trong các dự án, những người làm việc trong các công ty lớn. Chuyến đi của tôi không cao cấp được như vậy. Khi tôi đã đi qua, văn phòng gần như trống không. Những chiếc ảnh máy bay và ảnh Tổng thống không được ai ngó đến. Hầu hết các quan chức đều đã biến mất. Và đã sáng rõ rồi.
Phải đi khá lâu mới về được thị trấn. Nó giống như chuyến đi, ở thị trấn của tôi, t` từ Khu đến trung tâm thị trấn. Nhưng vùng đất này cao hơn ở đây và mọi thứ có tỉ lệ lớn hơn. Những thị trấn và cité nghèo đói (với những ruộng ngô giữa các ngôi nhà) lớn hơn, có xe buýt, thậm chí cả một đường sắt với những toa mở kiểu cũ, có những nhà máy. Dọc theo con đường những tấm bảng lớn cao chừng mười feet, được bôi vẽ không đồng nhất, mỗi cái có một câu trích dẫn từ danh ngôn của Tổng thống. một số chân dung vễ Tổng thống lớn đúng bằng một ngôi nhà. Ở thị trấn không có cái gì tương tự như thế. Mọi thứ ở thị trấn của chúng tôi, như tôi nhận thấy, đều có tỉ lệ nhỏ hơn.
Những tấm chân dung, những bức tượng mẹ đồng trinh châu Phi dựng tạm – chúng tiếp tục bằng mọi con đường đến tới được khách sạn. Nếu tôi từng đến thủ đô thẳng từ thị trấn của chúng tôi tôi có thể đã bị sốc. Nhưng sau khi đã đến châu Âu, và sau khi tôi đã nhìn thấy cả đất nước từ trên không trung, và vẫn còn có cảm giác về sự mù mờ của thủ đô, thái độ của tôi đã khác, và tôi ngạc nhiên về điều này. Với tôi có một nhân tố chết chóc nào đó trong những câu châm ngôn, chân dung và tượng, trong ý muốn của một người đàn ông của cây bụi muốn biến mình thành vĩ đại, và đạt đến điều đó bằng một cách thô thiển đến vậy. Tôi thậm chí còn cảm thấy thông cảm chút ít với người đã trưng bày chính mình như thế.
Giờ đây tôi đã hiểu tại sao nhiều người khách mới đây của chúng tôi tại Khu lại thấy đất nước của chúng tôi, và sự kính sợ của chúng tôi đối với Tổng thống, là nực cười. Tuy nhiên điều tôi nhìn thấy trên đường từ sân bay về không có vẻ gì là nực cười hết. Tôi cảm thấy nó là một tiếng thét thì đúng hơn. Tôi vừa từ châu Âu về, tôi đã nhìn thấy sự ganh đua thật sự.
Qua đêm tôi đã từ một châu lục đến một châu lục khác, và sự cảm thông bất chợt với Tổng thống, nhìn nhận về sự bất khả của cái mà tôi nghĩ ông ta đang cố làm, chỉ đến vào thời điểm đặt chân đến sân bay. Sự cảm thông biến mất khi thành phố dần trở nên quen thuộc hơn và tôi bắt đầu coi nó là một phiên bản lớn hơn của thị trấn của tôi. sự thông cảm, thực thế, bắt đầu mất đi khi tôi vào cái khách sạn lớn (có điều hoà nhiệt độ, cửa hiệu trong hành lang, một bể bơi không ai sử dụng) và thấy nó đầy cảnh sát chìm. Tôi không thể tưởng tượng họ lại làm như thế ở đó. Họ có ở đó để chứng tỏ chính mình với khách khứa. Và cũng bởi vì họ muốn ở trong cái khách sạn mới sang trọngm, họ muốn hiện ra trước mặt khách khứa trong khung cảnh hiện đại đó. Thật là lâm ly, bạn có thể đùa cợt về điều đó. Nhưng những người đàn ông này không phải luôn luôn buồn cười. Những căng thẳng của châu Phi giờ đã quay về với tôi.
Đó chính là thành phố của Tổng thống. Đó là nơi ông ta đã lớn lên và nơi mẹ ông ta đã làm việc ở khách sạn. Đó là nơi, thời còn thuộc địa, ông đã có ý tưởng về châu Âu riêng. Thành phố thời thực dân, rộng lớn hơn thành phố của chúng tôi, nhiều khu dân cư giàu có với những cái cây giờ đây đã lớn, vẫn còn đó. Chính với cái châu Âu này mà, trong những toà nhà của mình, Tổng thống muốn ganh đua. Thành phố, trong tình trạng suy tàn ở trung tâm, với những con đường bẩn thỉu và những đống rác ở ngay sau những đại lộ lớn thời thuộc địa, vẫn đầy người làm việc. Những khu vực rộng gần sông đã chuyển thành sở hữu của Tổng thống – những nơi có tường cao, có sân, nhà của chính phủ nhiều dạng khác nhau.
Trong những khu vườn của Tổng thống gần ghềnh nước (ghềnh nước ở đây khá giống với chỗ chúng tôi, cách đó một nghìn dặm về phía thượng nguồn), bức tượng người thám hiểm châu Âu đã đến dòng sông và sử dụng chiếc tàu thuỷ đầu tiên đã bị thay thế bằng một bức tượng khổng lồ của một thủ lĩnh bộ lạc của châu Phi với dáo và khiên được làm theo phong chách châu Phi hiện đại, cha Huismans chắc sẽ dành thời gian cho nó. Bên cạnh bức tượng là một bức tượng nhỏ hơn hình đức mẹ đồng trinh với đâu cúi xuống, che mạng. Gần đó là những chữ viết của những người châu Âu đầu tiên, một khung cảnh chết, ngoài đó tất cả đã lớn lên, ngoài đó thị trấn của chúng tôi đã được gieo mầm. Những người đơn giản, với những hoạt động buôn bán đơn giản và những hàng hoá đơn giản, nhưng là các nhân viên của châu Âu. Giống như những người giờ đây đến, giống như những người trên máy bay.
Ghênh nước tạo ra một âm thanh đều đều, không đổi. Những cây dạ lan hương nước, "vật thể mới ở dòng sông", bắt đầu cuộc hành trình từ nơi rất xa, tại trung tâm lục địa, nhảy đến từ quá khứ trong những bước nặng nề và lộn xộn và những cây nho, ở đây gần như đã đạt đến điểm cuối cùng của chuyến đi.
Sáng hôm sau tôi quay lại sân bay để bay tuyến nội địa. Giờ đây tôi đã quen với nơi này, và sự trải dài của thủ đô tao ra một cảm giác mạnh hơn. Luôn luôn, bên cạnh đường băng, có một khung cảnh gì đó mới. Tất cả những người đó sống thế nào? Khu đất đồi trải dài trống trơn, nứt nẻ, xói mòn, cạn khô. Có rừng ở đó không? Những cái chân đỡ các châm ngôn của Tổng thống vẫn thường được làm bằng đất sét. Và bản thân những tấm bảng được bôi lem nhem bằng bùn từ đường và đầy bụi nâu ở cuối, không tươi mới như buổi sáng hôm trước, là một phần của sự quạnh hiu.
Tại sân bay, tại khu bay nội địa, bảng báo cất cánh thông báo chuyến bay của tôi và một chuyến khác. Tấm bảng hoạt động bằng điện được làm ở Italia. Nó là một dụng cụ hiện đại, nó giống như những tấm bảng tôi từng nhìn thấy ở các sân bay London và Brussels. Nhưng bên dưới chúng, quanh các bàn kiêm tra và những máy móc nặng nề là sự tranh cướp thông thường, và những thứ đồ đạc đã được kiểm tra, với rất nhiều tiếng gào, trông giống như các kiện hàng trên xe buýt hạng rẻ tiền, những đai sắt, hộp vuông, bó vải, những đống đồ, những chậu men lớn buộc vào vải.
Tôi có vé và nó hợp lệ, nhưng tên tôi không có trong danh sách hành khách. Mất vài franc để qua được. Và rồi, ngay khi tôi chuẩn bị ra máy bay, một nhân viên anh ninh mặc đồ dân sự đang ăn gì đó hỏi giấy tờ của tôi và cho rằng cần phải kiểm tra nó cụ thể hơn. Anh ta trông thật thù địch và bắt tôi phải đợi trong một căn phòng nhỏ trống trơn. Đó là thủ tục. Trong căn phòng riêng người bị nhốt bị ngó nghiêng suốt – đó là cách các nhân viên bậc trung cho bạn biết rằng họ sẽ lấy của bạn một ít tiền.
Nhưng người này không lấy gì, bởi vì anh ta đang trêu tức và bắt tôi đợi trong căn phòng nhỏ đó rất lâu, không buồn quay lại xem, nói anh ta đã hoãn chuyến bay và bị một nhân viên hàng không mắng, người này rõ ràng là biết tôi bị tìm thấy ở đâu, đang bị nhốt trong căn phòng nhỏ, gào lên với tôi là hãy ra ngoài ngay lập tức, và anh ta đưa tôi đi ra qua đường băng lên máy bay, người cuối cùng, nhưng lại may mắn.
Ở hàng ghế đầu là một trong số các phi công người châu Âu, một người đàn ông trung niên nhỏ bé, bên cạnh ông là một cậu bé người Mỹ, nhưng thật khó để nói họ có liên hệ gì không. Vài hàng ghế đằng sau là một nhóm sáu hoặc tám người châu Phi, những người ở độ tuổi ba mươi, với những chiếc áo khoác cũ và áo sơ mi cài kín chổ, đang nói chuyện rất to. Họ đang uống whisky, uống thẳng bằng chai – và mới chín giờ sáng. Whisky ở đây rất đắt, và những người đó muốn tất cả biết rằng họ đang uống whisky. Cái chai được chuyền cho những người lạ, thậm chí nó còn được chuyển đến cho tôi. Những người đó không giống người ở vùng tôi. Họ to béo hơn, với những vẻ dáng khác hẳn. Tôi không thể hiểu được khuôn mặt họ, tôi chỉ nhìn thấy sự cao ngạo và vẻ say sưa tại đó. Họ toàn tâng bốc, họ muốn những người còn lại biết rằng họ là những người sở hữu các đồn điền. Họ giống như những người với mới có tiền, và tất cả làm tôi thấy thật điên khùng.
Đó là một chuyến bay đơn giản, hai tiếng đồng hồ một lần dừng giữa chừng. Và tôi thấy dường như, với kinh nghiệm bay quốc tế, rằng chúng tôi vừa mới lao lên trên những đám mây trắng thì đã lại đâm xuống để dừng lại. Chúng tôi thấy rằng mình đang bay dọc theo sông – màu nâu, gợn sóng, chao đảo và thành vệt từ trên độ cao này, với những dòng kênh giữa những hòn đảo màu xanh nhỏ và thuôn. Bóng máy bay dịch chuỷên trên đỉnh khu rừng. Cái đỉnh này trở nên kém bằng phẳng và ken sít hơn khi bóng máy bay trở nên lớn hơn, khu rừng chúng tôi đang lao xuống khá là xơ xác.
Sau khi hạ cánh chúng tôi phải rời khỏi máy bay. Chúng tôi vào một toà nhà nhỏ bên cạnh đường băng,và trong khi ở đó chúng tôi thấy máy bay quay đầu, đi và bay mất. Nó được trưng dụng cho một nhu cầu nào đó của Tổng thống, nó có thể quay về khi đã làm xong việc đó. Chúng tôi phải đợi. Lúc đó mới khoảng mười giờ. Cho đến khoảng giữa trưa, trong khi trời ngày càng nóng, chúng tôi rất bức bối. rồi chúng tôi đi nghỉ - tất cả chúng tôi, cả những người uống whisky – để chờ đợi.
Chúng tôi đang ở giữa vùng cây bụi. Cây bụi bao quanh khu đất quang quẻ của đường băng. Xa xa, cây cối đậm đặc dọc theo lòng sông. Máy bay to lớn thế mà cũng dễ dàng lạc lối đến thế, cũng mất hàng giờ để đi ngược dòng sông chính. Cách sống không xa lắm, người ta có thể sống trong những ngôi làng họ đã sống hàng thế kỷ nay. Không đến bốn mươi tám giờ trước đó, tôi đã từng ở Gloucester Road náo nhiệt, nơi cả thế giới gặp nhau. Giờ đây, tôi đang nhìn chằm chằm vào cây bụi hàng giờ liền. Tôi cách thủ đô bao nhiêu dặm đường, cách thị trấn bao nhiêu bao xa? Đi đường bộ hay đường sông mất bao nhiêu thời gian mới qua được khoảng cách đó? Mất bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng, và phải gặp những hiểm nguy nào?
Trời đầy mây. Những đám mây ngày càng dầy và cây bụi ngày càng tối lại. Bầu trời bắt đầu tung xuống sấm chớp, và rồi mưa và gió chợt đến, đẩy chúng tôi ra khỏi hàng hiên của toà nhà nhỏ. Mưa và bão tố. Cây bụi biến mất trong mưa. Cơn mưa như thể lao xuống những cánh rừng, ném xuống cỏ và những hạt giống màu xanh quanh toà nhà sân bay to lớn. Cơn mưa uể oải, mây cao lên một chút. Cây buị lại hiện ra, một hàng cây sau một đường khác, hàng gần nhất tối hơn, những hàng xa hơn mờ đi thành màu xám xịt của bầu trời.
Những chai bia rỗng không đầy trên cái bàn bằng kim loại. không có nhiều người đi lại lắm, gần như tất cả đều tìm được chỗ ngồi. Không ai nói nhiều. Người đàn bà Bỉ trạc trung niên mà tôi đã thấy ở trong phòng chờ đợi đi cùng máy bay chúng tôi vẫn đắm vào quyển sách tên là Peyton Place bìa giấy tiếng Pháp. Bạn có thể thấy rằng bà ta đã bắt cây bụi và thời tiết bên ngoài im tiếng để sống ở một nơi nào đó khác.
Mặt trời hiện ra và trượt đi trên cỏ cao, ẩm ướt. Mặt đường nhựa bốc hơi, và trong một lúc tôi nhìn những cái đó. Muộn hơn vào buổi chiều một nửa bầu trời trở nên tối đen, trong khi nửa kia vẫn còn sáng. Cơn bão bắt đầu với tia chớp chói loà, vùng đất trở nên tối, lạnh và rất ẩm ướt. Rừng trở thành một vùng tối mờ. Không có phấn khích gì trong trận bão thứ hai này.
Một trong số hành khách người Phi, một ông già, đội chiếc mũ màu ghi, choàng một chiếc khăn tắm màu xanh trên quần áo của mình. Không ai để ý nhiều đến ông. Tôi chỉ nhận thấy sự ngớ ngẩn của ông già và nghĩ, ông ta đang sử dụng một vật xa lạ với cách thông thường của mình. Và điều gì đó giống thế đi qua đầu tôi khi một người đàn ông đi chân trần quay sang đội một chiếc mũ bảo hiểm của lính cứu hoả với phần che mặt trong suốt được kéo xuống. Ông ta là một ông già với bộ mặt teo tóp, chiếc quần sọoc màu nâu và chiếc áo màu ghi cũ rích và ướt đẫm. Tôi nghĩ, ông ta đã tìm được một cái mặt nạ vũ hội thực sự. Ông đi từ bàn này đến bàn khác, tìm kiếm những chai bia. Khi ông ta quyết định rằng một cái chai nào đó đáng để uống ông bèn nâng cao cái mặt che lên và uống.
Đã thôi mưa, nhưng vẫn còn tối, bóng tối của buổi chiều muộn. Máy bay, thoạt tiên chỉ là một vệt khói mờ màu nâu trên trời, đã hiện ra. Khi chúng tôi đi ra đường bay ẩm ướt để lên máy bay tôi nhìn thấy người đàn ông với chiếc mũ thợ hàn, và một người đi cùng, cũng đội mũ bảo hiểm, đứng sững bên cạnh đoàn người. Hoá ra ông ta là một người thợ hàn.
Khi cất cánh chúng tôi nhìn thấy dòng sông, hiện ra trong những tia sáng cuối cùng. Ánh sáng đó có màu đỏ vàng, rồi chuyển thành đỏ. Chúng tôi theo dòng sông nhiều dặm và trong nhiều phút, cho đến khi nó trở thành một sự lấp lánh nhỏ bé, một sự mềm mại, cái gì đó rất trắng giữa những cánh rừng tối đen. Rồi toàn bộ đều màu đen. Qua màu đen này chúng tôi bay đến đích của mình. Chuyến đi, hồi sáng còn có vẻ đơn giản, đã mang một tính chất khác hẳn. Khoảng cách và thời gian đã khác đi. Tôi cảm thấy mình đã đi mất nhiều ngày, và khi chúng tôi bắt đầu lại hạ cánh lần nữa, tôi biết rằng mình đã đi xa, và tôi tự hỏi bằng cách nào tôi lại có sự dũng cảm để sống lâu đến thế trong một nơi xa xôi đến thế này.
Và rồi đột nhiên tất cả trở nên thật dễ dàng. Một toà nhà thân quen, các quan chức tôi biết và có thể tán đóc được, những người mà khuôn mặt tôi quá rành, một trong những chiếc taxi cổ lỗ của chúng tôi, con đường gập ghềnh biết quá rõ của thị trấn, thoạt tiên đi ngang qua vùng cây bụi mà nó chia ra làm nhiều phần, rồi đi qua những đám lều. Sau sự lạ lẫm của ngày, giờ lại là cuộc sống có tổ chức.
Chúng tôi đi qua một ngôi nhà bị cháy, một đống đổ nát mới. Nó từng là một ngôi trường tiểu hịoc, chưa bao giờ là một địa điểm thật sự, giống một cái nhà kho thấp hơn, và tôi có thể quên nó trong bóng tối nếu người lái xe không chỉ nó cho tôi, nó làm anh ta phấn khích. Sự nổi loạn, Quân đội tự do vẫn còn tiếp tục. Nó không làm giảm bớt ấn tượng mạnh của tôi về việc được về thị trấn, nhìn thấy những nhóm người trên vỉa hè buổi đêm, và tìm thấy chính mình, nhanh chóng thế sau khi đến nơi, là cái gì đó của sự u tối của khu rừng vẫn còn trong tôi, tại cái phố của tôi - tất cả những cái đó thật và bình thường như mọi khi.
Thật là một cú sốc khi thấy Metty lạnh lùng đến vậy. Tôi đã đi một chuyến đi như thế. Tôi muốn nó biết, tôi nghĩ mình phải nhận được từ nó một sự đón tiếp nồng nhiệt nhất. Nhẽ ra nó phải nghe tiếng cửa taxi đóng lại và cuộc tròn chuyện ngắn của tôi với người tài xế. Nhưng Metty không đi xuống. Và tất cả những gì nó nói khi tôi đi lên cầu thang lộ thiên, và thấy nó đang đứng ở cửa phòng là "Cháu không nghĩ là chú quay trở lại, patron". Toàn bộ chuyến đi dường như trở thành nực cười.
Mọi thứ trong căn hộ đều trật tự. Nhưng về phòng khách và đặc biệt phòng ngủ đã có một cái gì đó – có lẽ là quá trật tự, một sự vắng mặt của tình trạng cũ – điều này làmtg cảm thấy dường như trongkhi tôi đi vắng Metty đã mở rộng sự hiện hữu của nó trong căn hộ. Bức điện tôi gởi cho nó từ London nhẽ ra phải làm nó tự thu bớt lại chứ. Nó có cảm thấy điều đó không? Metty? Nhưng nó đã lớn lên trong gia đình chúng tôi, nó không biết một cuộc sống nào khác. Nó luôn ở với gia đình hoặc với tôi. Nó chưa bao giờ biết đến cuộc đời riêng của nó, trừ chuyến đi của nó từ bờ biển, và bây giờ.
Nó mang cà phê đến cho tôi vào buổi sáng.
Nó nói "Cháu cho là chú biết tại sao chú quay về, patron"
"Mày đã nói đến điều đó tối hôm qua rồi"
"Bởi vì chú chẳng có gì để trở về hết cả. Chú không biết à? Không ai nói với chú ở London à? Chú không đọc báo à? Chú chẳng biết gì cả. Họ đã lấy cửa hiệu của chú rồi. Họ đã chuỷên nó cho Citizen Théotime. Hai hôm trước Tổng thống đã đọc một bài diễn văn. Ông ấy nói đang quốc hữu hoá và lấy đi mọi thứ của mọi người. tất cả những người nước ngoài. Ngày hôm sau họ niêm phong cửa. Một vài cửa hiệu khác nữa. Chú không đọc điều đó ở London à? Chú không còn gì nữa cả, cháu không còn gì nữa cả. Cháu không biết tại sao chú quay về. Cháu không nghĩ chú về đây là vì cháu".
Metty đang ở trong tâm trạng tồi tệ. Nó đã bị ở một mình. Hẳn nó phải nóng lòng chờ tôi về lắm. Nó đang cố gợi lên một câu trả lời tức giận của tôi. Nó đang cố làm tôi phác một cử chỉ phòng vệ. Nhưng tôi cũng lạc lối y như nó vậy.
Quốc hữu hóa, hai hôm trước, tôi đã thấy từ này trong một dòng tin nóng hổi trên báo, nhưng tôi không để ý. Tôi đã nghĩ đó chỉ là một từ nào đó, chúng ta có hàng đống từ như thế. Tôi – và những người khác – đã bị quốc hữu hóa. Công việc buôn bán của chúng tôi đã không còn thuộc về chúng tôi nữa, do một sắc lệnh, và đã được chuyển giao cho những chủ nhân mới theo lệnh của Tổng thống. Những chủ nhân đó gọi là "các công ty nhà nước". Công dân Théotime đã trở thành chủ công ty nhà nước với tài sản của tôi, và Metty nói là tuần trước ông ta đã ở cửa hiệu vài ngày.
"Ông ta làm gì?"
"Làm gì? Ông ta đợi chú. Ông ấy sẽ thuê chú làm quản lý. Đó chính là điều chờ đợi chú đấy, patron. Nhưng chú sẽ thấy. Không việc gì phải vội hết. Théo không đến làm việc sớm thế này đâu".
Khi đến cửa hiệu tôi thấy nhà kho, đã xuống cấp trong sáu tuần, hiện ra như cũ. Théo không chạm vào đó. Nhưng bàn của tôi đã được chuỷên từ chỗ cũ gần cái cột ở đằng trước cửa hiệu đến phòng kho ở đàng sau. Metty nói là điều đó đã được làm vào ngày đầu tiên. Công dân Théo dã quyết định phòng kho sẽ là văn phòng của ông ta, ông ta thích có được sự riêng tư.
Trong ngăn kéo trên của bàn (nơi tôi thường để ảnh Yvette, cái đã từng biến đổi khung cảnh quảng trường đối với tôi) nhiều cuốn truyện - ảnh Phi-Pháp và truyện cười, những người châu Phi cho thấy mình đang sống rất hiện đại, và trong những cuốn sách châm biếm họ chẳng khác gì những người châu Âu – hai ba năm nay ở đây có rất nhiều những thứ vớ vẩn làm ở Pháp. Các thứ đồ đạc của tôi – tạp chí và các tài liệu của cửa hiệu tôi từng nghĩ Metty cần đến – nằm ở hai ngăn kéo dưới. Chúng đã được giữ cẩn thận. Théo đã có nhã ý đó. Quốc hữu hoá – nó từng là một từ. Nó làm người ta bị sốc khi phải đối diện thực sự với nó.
Tôi chờ Théo.
Và khi người đàn ông đó đến tôi có thể thấy là ông ta đang lúng túng và cử chỉ đầu tiên của ông ta, khi nhìn thấy tôi qua cửa kính, là bước qua cửa. Tôi biết ông nhiều năm trước là một thợ máy, ông ta thường chăm lo xe cộ cho sở y tế. Rồi, vì ông ta có chút quan hệ với các bộ lạc, ông ta nổi lên về mặt chính trị, nhưng không cao lắm. Ông ta không biết cả đến ký tên. Ông ta trạc bốn mươi tuổi, vẻ ngoài không có gì đặc biệt, với một khuôn mặt to bè, màu nâu tối nhàu nát xốp lên vì rượu. Bây giờ ông ta cũng đã uống rồi. Nhưng chỉ uống bia thôi, ông ta chưa chuỷên sang uống whisky. Ông ta chưa chuỷên sang mặc đồ quan chức chính thứacáo khoác vạt ngắn và đeo ca vát. Ông ta mặc quần và áo sơ mi. Thực sự ông ta là một người rất khiêm tốn.
Tôi đứng tại nơi từng kê bàn của mình. Và tôi nhận thấy chiếc áo sơ mi trắng của Théo ướt đẫm mồ hôi và đầy bụi bặm, rằng giống như thời những thằng nhóc học sinh trường trung học, đã đến lừa tôi để ăn cắp tiền của tôi theo những cách đơn giản nhất. Théo toát mồ hôi ra những cánh mũi của ông. Tôi không tin ông ta đã rửa mặt sáng hôm đó. Trông ông ta nhàu nhĩ bẩn thỉu tệ hại.
Ông ta nói "Mis'Salim. Salim. Công dân. Anh không được coi điều này là chuyện cá nhân nhé. Tôi hoàn toàn không muốn thế đâu. Anh biết rằng tôi rất coi trọng anh. Nhưng anh cũng biết rằng tình thế nó vậy" ông ta lóng ngóng tìm từ - un pré pourrie. Hơi mục ruỗng. Những người trẻ của chúng ta tỏ ra không kiên nhẫn được. Điều này là cần thiết", - cố tìm đúng từ, trông ông ta rất bối rối, vặn vẹo nắm tay và làm một cử chỉ đấm vào không khí – "rất cần thiết làm triệt để hoá. Chúng ta nhất định phải triệt để. Chúng ta đã chờ đợi điều đó rất nhiều từ Tổng thống. Không ai sẵn sàng cho trách nhiệm mới cả. Giờ đây trách nhiệm đã được giao cho mọi người. Nhưng anh không có gì phải chịu đựng cả. Anh sẽ được bồi thường đúng mức. Anh chuẩn bị kiểm kê đi. Và anh sẽ tiếp tục làm quản lý. Công việc buôn bán vẫn sẽ như trước thôi. Không ai phải chịu đựng hết cả. Lương của anh sẽ rất khá. Ngay khi người trung gian đến, giấy tờ sẽ được làm xong thôi".
Sau khi khởi đầu ngập ngừng, ông nói rất nghiêm trang, như thể đã chuẩn bị từ trước rồi. Cuối cùng ông lại trở nên bối rối. Ông đang chờ tôi nói gì đó. Nhưng rồi ông ta thay đổi ý kiến và đi vào phòng kho, văn phòng của ông. Và tôi đi, đi và gặp Mahesh ở Bigburger.
Công việc ở đó vẫn bình thường. Mahesh, hơi nhợt nhạt hơn, đang rót cà phê, và Ildephonse đang nhảy quanh phục vụ những bữa sáng muộn. Tôi rất ngạc nhiên.
Mahesh nói "Nó đã là một công ty châu Phi hàng năm nay rồi. Nó không thể được quốc hữu hoá hơn nữa. Tôi chỉ điều hành cho 'Phonse và một vài người khác mà thôi. Họ thành lập công ty châu Phi đó và cho tôi dự một phần trong đó, với tư cách là quản lý, và rồi họ mua lại của tôi một giấy phép. Nó đã diễn ra trong thời bùng nổ. Họ nợ ngân hàng nhiều lắm. Anh có thể không tin khi anh nhìn 'Phonse. Nhưng đúng là thế đấy. Điều này xảy đến với nhiều nơi sau khi Noimon bán tháo cho chính phủ. Điều này cho chúng ta một ý tưởng về cách gió thổi, và một vài chúng ta quyết định tự bồi thường mình trước. Khi đó khá là dễ dàng. Các ngân hàng đầy tiền".
"Không ai nói với tôi cả"
"Không phải là cái mà người ta có thể nói nhiều đâu. Và những ý nghĩ của anh thì lại ở nơi khác".
Điều này thì đúng. Thời gian đó đã từng có một sự lạnh lùng giữa chúng tôi, cả hai chúng tôi đều rối tinh sau khi Noimon bỏ đi.
Tôi nói "Thế còn Tivoli thì như thế nào? Toàn bộ những thứ đồ đạc mới đó, họ đã đầu tư rất nhiều".
"Họ nợ đầy ra đấy. Không người châu Phi bình thường nào muốn thành chủ sở hữu của nó. Nhưng họ xếp hàng để đoạt được cửa hiệu của anh. Thế mà anh không làm gì cả. Théotime và một người khác đã tới Bigburger này nói về chuyện đó. Có rất nhiều cuộc đấu như thế. Nó giống như vũ hội hoá trang sau khi Tổng thống tuyên bố các biện pháp. Rất nhiều người mới đến các chỗ khác nhau, không nói gì với những người cũ, chỉ ghi tên mới trên cửa hoặc ném quần áo cũ treo trên mắc xuống sàn, đơn giản như mua thịt ngoài chợ ấy. Mấy ngày đầu thật tệ hại. Một người Hy lạp đốt tiêu đồn điền cà phê của mình. Giờ thì ổn định hơn rồi. Tổng thống đã ra tuyên bố, cho mọi người biết rằng Người Đàn Ông Vĩ Đại dã cho thì Người Đàn Ông Vĩ Đại cũng có thể lấy đi. Đó là cách biện hộ của Người Đàn Ông Vĩ Đại. Ông cho đi và ông lấy về".
tôi ngồi cả phần lớn còn lại của buổi sáng đó ở Bigburger. Thật lạ cho tôi, nhìn người ra vào Bigburger và Van der Weyden bên kia đường, và trong toàn bộ thời gian đó tôi cảm thấy mình tách biệt khỏi cuộc sống của thị trấn.
mahesh không có nhiều điều để nói với tôi về Shoba. Không có gì thay đổi ở cô cả. Cô vẫn lẩn trốn với sự biến dạng của mình ở căn hộ. Nhưng Mahehs không còn đấu tranh chống lại cái tình trạng đó hoặc là tức tối về điều đó nữa. Nó không làm anh cảm thấy bất hạnh – như tôi đã sợ là có thể - khi nghe về London và những chuyến đi của tôi – anh chẳng như thế tí nào. Với Mahesh nó đã trở nên đơn giản như vậy thôi.
Tôi trở thành quản lý cho Théotime. Dường như ông ta hồi sinh và rất sung sướng, và đồng ý với mức lương tôi đề nghị. Tôi mua một cái bàn, một cái ghế và ngồi gần cột, để cho giống nhất với ngày trước có thể. Tôi bỏ ra rất nhiều ngày tập hợp các hoá đơn cũ, kiểm tra kho và chuẩn bị kiểm kê. Đó là một mớ tài liệu rất phức tạp. Nhưng Théotime đồng ý rất nhanh với chúng (bảo tôi ra khỏi phòng kho trong khi ông cố ký tên Cit:Theot: ) và tôi cảm thấy Mahesh đã đúng, rằng sẽ không có bồi thường gì đâu, rằng điều khá nhất mà tôi có thể trông chờ, nếu tất cả mọi người đều nhớ, là những trái phiếu của chính phủ.
Cuộc kiểm kê chỉ gợi cho tôi nhớ lại những gì tôi đã mất. còn lại gì? Trong một ngân hàng châu Âu tôi có khoảng tám nghìn đô la, có được từ những chuyến buôn vàng ngày xưa của tôi, số tiền đó nằm ở đó và mục ruỗng, mất dần đi giá trị. Có một căn hộ tại thị trấn, mà sẽ chẳng có ai mua cả, nhưng cái xe thì có thể bán được với giá vài chục nghìn đô la. Và tôi có khoảng nửa triệu franc tiền địa phương tại nhiều ngân hàng – khoảng mười bốn nghìn đô la theo tỉ giá hối đoái chính thức, và một nửa số đó trên thị trường tự do. Đó là tất cả, không nhiều nhặn gì. Tôi phải kiếm nhiều hơn, nhanh nhất có thể, có ít tiền đông nghĩa với việc tôi phải rời khỏi đất nước này.
Là quản lý tại cửa hiệu tôi có nhiều cơ hội, nhưng cũng không lớn lao gì lắm. Và như thế tôi bắt đầu sống một cách nguy hỉêm. Tôi bắt đầu buôn vàng và ngà voi. Tôi mua, cất giữ và bán, hoặc làm như những nhà buôn bán lớn (những người thanh toán trực tiếp cho ngân hàng của tôi ở châu Âu), tôi trữ lại và gửi nó đi, với một phần trăm nào đó. Những người cung cấp cho tôi, và đôi khi những người săn trộm, là các quan chức hoặc người của quân đội, v à những người đó luôn rất nguy hiểm để làm ăn. Phần kiếm được không lớn lắm. Vàng chỉ có vẻ đắt đỏ thôi, bạn phải có hàng ký lô cho tỉ lệ phần trăm. Ngà voi thì khá hơn, nhưng ngà voi khó cất giữ (tôi tiếp tục sử dụng cái hố ở chân cầu thang vườn nhà tôi) và đòi hỏi khéo léo hơn trong chuyên chở. Để gửi hàng tôi sử dụng một trong những chiếc xe tải bình thường hoặc xe buýt rẻ tiền của chợ, gửi hàng đi (những cái ngà giấu trong những lô hàng nệm, những mẩu nhỏ hơn trong các bao sắn bột) với những thứ hàng hoá khác, thường xuyên giờ đây được gửi đi dưới cái tên của công dân Théotime, và đôi khi chính Théotime thể hiện đẳng cấp chính trị và nói chuyện với người lái xe ngay ở chỗ đông người.
Tiền có thể kiếm được. Nhưng đưa chúng ra khỏi đất nước là một việc khó hơn. Chỉ có thể đưa tiền ra theo những khoản lớn và điều này có thể làm các quan chức cấ[ cao hoặc các bộ trưởng quan tâm. Giờ đây không có nhiều hoạt động, và tôi phải phụ thuộc vào những người khác với nhiều lý do khác nhau cần đến tiền địa phương. Không có cách nào khác. Và tôi phải tin những người đó sẽ trả tiền khi họ quay về châu Âu hoặc Mỹ.
Đó là một kiểu làm ăn chậm rãi, giống như phe vé, và đầy nhục nhã. Tôi cho rằng mình đã khám phá một vài quy luật của cách cư xử của con người. Tôi cho rằng mình có thể nói rằng những người ở một tầng lớp hoặc một đất nước nào đó cần được tin tưởng và những người ở một tầng lớp và đất nước khác không thể tin được. Điều này có thể làm cho chuyện đó đơn giản hơn. Đó là một cuộc đánh bạc thường kỳ. Tôi đã mất hai phần ba tiền của mình theo cách đó, tôi đã cho những người lạ tiền.
Tôi đi ra đi vào Khu trong những vụ làm tiền đó, ở đó tôi có nhiều mối liên lạc nhất. Thoạt đầu tôi không cảm thấy thoải mái khi ở đó, nhưng rồi tôi bắt đầu cảm thấy Indar từng nói về việc đắm chìm vào quá khứ. Khu nhanh chóng không còn là cái gì đó từng thuộc về tôi như trước nữa. Nó trở thành nơi những con người đáng kính – nhiều người trong số đó là những kẻ lần đầu tiên phạm luật, sau đó sử dụng sự hiểu biết luật pháp của mình để lừa tôi – cố có được tỷ lệ phần trăm cao hơn những người chúng tôi đã đồng ý/ Điều đã trở thành điểm chung ở những người này là sự nóng nảy và sự quan tâm của họ - quan tâm đến tôi, quan tâm đến đất nước. Tôi đồng ý với họ một nửa, tôi ghen tị với họ vì sự dễ dàng cảm thấy mối quan tâm đó.
Một chiều tôi nhìn thấy ngôi nhà của Raymond và Yvette có một chủ mới, một người châu Phi. Ngôi nhà đã bị đóng cửa kể từ khi tôi quay lại, Raymond và Yvette đã ra đi, không ai, kể cả Mahesh, có thể nói cho tôi biết họ đi đâu hoặc trong hoàn cảnh nào. Những cửa ra vào và cửa sổ của ngôi nhà đã được mở ra lại, và điều đó nhấn mạnh thêm sự xấu xí của ngôi nhà.
Người đàn ông mới đến, rậm râu, đang cuốc xới trước cửa nhà, và tôi dừng lại để nóI chuyện. Ông đến từ nơi nào đó dưới vùng hạ lưu, và rất thân thiện. Ông nói cho tôi biết là đã trồn ngô và sắn. Những người châu Phi không hiểu lắm về nông nghiệp quy mô lớn, nhưng họ rất say mê với các loại cây cối theo cách nhỏ hơn, trồng thực phẩm cho nhà và thích trồng thật sát nhà mình. Ông nhận ra xe của tôi, ông nhớ hình dáng đàng sau của nó. Ông nói ông làm việc cho một hãng chính phủ điều hành dịch vụ tàu hơi nước. Và để cho tôi có được một ý tưởng về vị thế của mình, ông nói bất cứ khi nào ông đi bằng tàu thuỷ ông đều đi ở hạng nhất và không phải trả tiền. Công việc chính phủ quan trọng này, ngôi nhà chính phủ lớn này tại cái Khu nổi tiếng – ông là một người hạnh phúc, sung sướng với những gì đã được cho, và không đòi hỏi gì hết nữa cả.
Giờ đây đã có nhiều nhà như thế hơn ở trong Khu. Trường bách khoa vẫn còn ở đó, nhưng Khu đã mất đi tính chất hiện đại, "trưng bày" của mình. Nó đã xấu xí đi nhiều, sau mỗi tuần nó lại càng giống hơn với kiểu nhà của châu Phi. Bắp ngô, mà khí hậu và đất rất tốt, mọc lên ở nhiều nơi, và những chiếc lá xanh ghi của sắn, mọc lên dễ dàng đến mức nếu bạn cắm ngược đầu cây nó vẫn sẽ mọc lên bình thường, tạo ra hiệu ứng của một cái vườn cây bụi. Cái phần của trái đất này – biết bao nhiêu đổi thay đã đến với nó! Rừng ở bên khúc quanh của dòng sông, một nơi gặp gỡ, một khung cảnh A rập, một tiền đồn của châu Âu, một ngoại ô của châu Âu, một sự đổ nát giống như là sự đổ nát của một nền văn minh đã chết, cái Khu lấp lánh của châu Phi mới, và giờ thì như thế.
Trong khi chúng tôi nói chuyện, trẻ con bắt đầu xuất hiện từ sau nhà – những đứa trẻ vẫn còn quê mùa, cúi gập xuống trước cái nhìn của người lớn, trước khi đến gần, rụt rè nghe và nhìn. Và rồi một con chó Doberman to lớn nhảy đến trước tôi.
Người đàn ông với chiếc hái nói "Đừng lo. Nó không cắn anh được đâu. Nó nhìn không rõ. Con chó của một người nước ngoài. Ông ấy cho tôi khi tôi đi".
Sự việc xảy ra đúng như ông ta nói. Con chó cắn hụt tôi chừng một foot, rồi chạy vào một con đường nhỏ, dừng lại, lùi lại, và rồi khi tất cả đã qua, nó vẫy đuôi, bên cạnh nó với sự vui mừng với mùi nước ngoài của tôi, chắc hẳn đang tạm thời nhầm tôi với một người nào đó khác.
Tôi vui mừng cho Raymond vì ông đã đi. Ông không thể an toàn ở Khu hoặc ở thị trấn vào lúc này. Danh tiếng đáng tò mò đã đến với ông vào lúc cuối – trở thành người đàn ông da trắng đi trước Tổng thống, và đã đẩy ông vào những điều tồi tệ có thể rơi lên Tổng thống – cái danh tiếng này có thể khiến Đôi Quân tự do giết ông, đặc biệt vào bây giờ, khi Tổng thống đã nói đến việc lên kế hoạch đến thăm thị trấn, và thị trấn vẫn đang chuẩn bị cho cuộc viếng thăm đó.
Những ngọn đồi đầy cây bụi ở trung tâm đã được phát quang. Những con đường gập ghềnh đã được làm phẳng và nâng cấp. Và sơn lại! Khắp nơi ở trung tâm, vỗ vào bê tông trát vữa và gỗ, dựng lên trên hè phố. Một ai đó đang dọn kho – màu hồng mau vôi màu đỏ màu tím màu xanh. Cây bụi đang chiến tranh, thị trấn đang ở vào tình trạng cuộc nổi loạn, với những bất ổn vào ban đêm. Nhưng đột nhiên ở trung tâm dường như có một buổi dạ hội hóa trang.