Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng

Chương 25

Docsach24.com

0 giờ 18 phút tối ngày thứ hai

Người quản lí nhóm những người chuyên làm công việc quản gia rất thích căn nhà như căn 22XB. Ở một nơi lạc hậu như thế này thì căn nhà giống như lâu đài cổ vậy. Nó đứng cách con đường riêng của nông trại khoảng chừng 100 thước Anh, phía cuối con đường đầy những vết xe lún và những thân cây trơ trọi. Mái nhà nghiêng dốc xuống, phủ đầy tuyết xốp vào buổi tối. Mành sáo thì bị mất vài miếng lát và gục xuống như một kẻ say rượu. Đằng trước kiến trúc bằng gỗ này có 4 cái lỗ, chứng tỏ trước đây có một ban công đã bị tháo đi.

Buổi họp không ở trong nhà mà lại diễn ra trên lối đi vào dành riêng cho người giúp việc ở phía cửa trước, gần rìa sân ngôi nhà cũ kỹ này. Họ đến trên 4 chiếc xe, mọt chiếc hiệu Vilkswagen, 2 chiếc mui kín hiêu Renault và nổi bật hơn cả là chiếc xe bóng nhoáng hiệu Audi 18; và nếu như có ai đó hỏi thăm mục đích của việc hội họp này, có lẽ họ sẽ trả lời rằng đây là một cuộc hẹn gặp gỡ giữa những người bạn cũ. Liếc nhanh qua ngôi nhà, ta có thể thấy được khá nhiều thứ. Thức ăn và rượu chứa đầy trong bếp, củi được chất đầy đủ cho lò sưởi trong phòng khách. Nhìn kĩ ngôi nhà, có vẻ như phòng ăn đã được chuẩn bị chu đáo cho một cuộc phỏng vấn và căn nhà này chứa đựng một vài dụng cụ giao tiếp độc đáo, không có bán trên thị trường. Dừng lại ở phòng ngủ bằng đá vôi, có các lỗ nằm phía bên trên tầng hầm, và giờ đây những cái lỗ đó đang được che lấp bởi một người đàn ông Ai Cập ở độ tuổi trung niên. Người đàn ông bị trói với còng, băng bịt mắt, và trần trụi với cái quần lót. Gabriel nhìn người đàn ông này với vẻ dò xét trong một lúc rồi đi lên bậc thang đến phòng ăn, nơi mà Yaakov đang đứng bên cạnh Sarah.

Gabriel hỏi. “Anh đã ở đó trong bao lâu?”.

“Khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ”, Yaakov trả lời.

“Có vấn đề gì không?”

Yaakov gật đầu. “Chúng tôi rời khỏi Amsterdam một cách nhanh chóng và hắn xử sự rất tốt trong suốt chuyến đi”.

“Anh có phải sử dụng thuốc cho hắn không?”.

“Không”.

“Còn vũ lực thì sao?”.

“Tôi đã tát yêu hắn vài cái, nhưng hắn sẽ không bận tâm đâu”.

“Có ai nói chuyện trước mặt hắn không?”.

“Chỉ một vài từ bằng tiếng Arập. Thế nhưng Ibrahim đã có nói một ít. Hắn đoán chắn mình đang trong tay của người Mỹ”.

Tốt, Gabriel suy nghĩ. Nó chính xác là những gì mà Ibrahim nghĩ. Anh để Sarah vào trong phòng khách, nơi mà Dina và Rimona đang đọc hồ sơ của tổ chức Thanh kiếm Allah trước tiếng nổ tanh tách của củi cháy trong lò sưởi. Sau đó Gabriel mở 2 cánh cửa hướng vào phòng ăn. Phòng trống trải, chỉ có cái bàn hình chữ nhật và 2 chiếc ghế dựa cao. Mordecai đứng trên ghế, gắn máy ghi âm vào bộ đèn chùm.

“Đây chỉ là cái dự phòng thôi”, anh nhảy khỏi ghế và chùi đôi bàn tay bẩn vào chiếc quần tây của mình.

“Đã có một chiếc micro nhỏ ở dưới này”, anh vỗ tay lên bàn. “Đưa Ibrahim ngồi vào chiếc ghế này. Bằng cách này micro sẽ không bỏ sót bất cứ thứ điều gì anh ta nói”.

“Còn việc kết nối với bên an ninh?”.

“Nó ở ngay trên đó và đang hoạt động”, Mordecai nói. “Tôi sẽ cho những tín hiệu truyền đến đại lộ King Saul và họ sẽ truyền nó đến Langley. Dựa trên những gì chúng ta thu thập được từ người Mỹ, anh sẽ là người có vé hạng nhất để vào thị trấn đêm nay”.

Mordecai đi ra khỏi phòng và đóng cửa lại. Sarah nhìn quanh những bức tường trống, bình luận. “Chắc chắn ngôi nhà này có giá trị lịch sử lắm”.

“Trước chiến tranh, căn nhà này thuộc sở hữu của một gia đình Do Thái, tên chủ nhà là Rosenthal”, Gabriel nói.

“Và khi chiến tranh bùng nổ?”.

“Nó bị sĩ quan SSI tịch thu, và gia đình Rosenthal bị trục xuất tới Áo. Người con gái trong gia đình quyết định ở lại và giành lại tài sản của gia đình, nhưng đi được nửa đường thì cô ta bỏ cuộc và tới sống ở Israel. Người Đức không thật sự tỏ ra tốt bụng đối với người sống sót sau nạn huỷ diệt của phát –xít”.

“Vậy còn căn nhà?”.

“Cô ta không bán nó. Khi Shamron biết được rằng cô ấy vẫn còn sở hữu nó, ông thuyết phục cô ấy cho chúng ta sử dụng ngôi nhà này. Shamron luôn luôn cất giữ các thứ cần thiết cho một ngày tận thế. Các ngôi nhà, hộ chiếu và con người. Ngôi nhà này rất an toàn cho chúng ta sử dụng và là địa điểm hoạt động trong suốt chiến dịch “Cơn thịnh nộ của Chúa”. Eli và tôi trải qua rất nhiều đêm dài ở đây, thỉnh thoảng với những điều tốt, nhưng thỉnh thoảng cũng không”.

Sarah cúi mình xuống chiếc ghế đã được xếp sẵn cho Ibrahim Fawaz và khoanh tay lại. “Chuyện gì sẽ tiếp tục xảy ra ở đây đêm nay?”, cô hỏi.

“Phụ thuộc hoàn toàn vào Ibrahim. Nếu hắn hợp tác và nói với tôi sự thật, thì sau đó mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng. Còn nếu hắn không làm thế thì…”, Gabriel nhún vai. “Yaakov là một trong những người của Shabak có kĩ năng thẩm tra, hỏi cung giỏi. Anh ta biết cách nói chuyện với những kẻ không sợ cái chết. Những điều xảy ra cũng có thể là thứ không được thoải mái lắm”.

“Không thoải mái như thế nào?”.

“Cô đang hỏi liệu chúng ta có nên tra tấn hắn hay không à?”.

“Chính xác đó là điều tôi muốn nói”.

“Mục đích của chúng ta đêm nay là tạo thêm một đồng minh nữa, Sarah à, hoặc là sẽ tạo ra một người không phải là đồng minh với các tổ chức tín ngưỡng”.

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Ibrahim không muốn trở thành đồng minh của chúng ta?”.

“Nếu hắn không muốn trở thành đồng minh của chúng ta thì sau đấy có lẽ hắn sẽ nhanh chóng thấy mình ở một nơi mà người ta sẽ không bao giờ ngại ngần sử dụng các phương pháp bạo lực mạnh nhất để thu thập các thông tin. Nhưng bây giờ thì hãy để chúng ta hy vọng một chút rằng điều đó sẽ không xảy ra – tất cả vì mục đích của chúng ta”.

“Anh không tán thành việc tra tấn?”.

“Tôi ước rằng tôi có thể nói việc ấy không có hiệu quả, nhưng nó không phải trường hợp này. Họ làm một cách bài bản, được huấn luyện một cách chuyên nghiệp, họ chịu áp lực về thể chất và tinh thần khi phải tiến hành bắt giữ những kẻ hkủng bố, mà những kẻ khủng bố này thường có những hành động ranh ma để có thể cứu lấy cuộc sống của chúng. Phải tốn bao nhiêu cho xã hội và các bộ phận an ninh được thuê mướn làm nhiệm vụ đó? Không may, đó lại là một cái giá rất cao. Nó đặt chúng ta vào vị trí giống như những người Ai Cập – người Gioócđan, Arập, vị trí của mỗi viên cảnh sát chìm hung bạo Arập buộc phải tra tấn đối phương. Những lý do đó gây nguy hại cho chúng ta bởi vì nó biến lòng tin thành cuồng tín”.

“Anh xử phạt bằng hình thức tra tấn nhưng không băn khoăn về việc nó có thể là hành động giết người?”.

“Không băn khoăn?”, anh chậm rãi gật đầu. “Giết người là gây ra sự mất mát nhưng tôi e rằng đó là việc duy nhất mà chúng ta có thể làm. Chúng ta phải giết những con quái vật trước khi nó giết chúng ta. Không giản đơn như việc những chiếc giày ủng nện trên mặt đất; cũng giống như cô, người Mỹ thường nói, khi chúng ta xâm lấn đất đai của họ sẽ khiến cho họ có tinh thần ngày càng cao hơn để chiến đấu và để chiến thắng. Những kẻ sát nhân phải đứng trong bóng tối, nơi mà không ai có thể nhìn thấy. Chúng ta phải truy lùng chúng một cách sát sao. Chúng ta phải đe doạ chúng”.

Anh nhìn sang cô một lần nữa. “Sarah, chào mừng cô đến với cuộc chiến đấu của chúng tôi. Cô là một công dân thực sự của chúng tôi kể từ tối nay”.

“Cám ơn anh, tôi đã trở thành một công dân của nơi này trong vài tháng nay rồi đấy chứ”.

Có tiếng gõ cửa. Đó chính là Yaakov.

“Tôi nghĩ hắn đã sẵn sàng để được hỏi cung”.

“Anh chắc không?”.

Yaakov gật đầu.

“Cho hắn thêm 10 phút nữa”, Gabriel nói. “Sau đó thì dẫn đến cho tôi”.

Họ dẫn người đàn ông lên cầu thang, vào chỗ ngồi đã được đinh trước với mắt bị bịt và đôi tay bị trói phía sau lưng. Hắn không yêu cầu được bảo vệ, không đòi hỏi gì cả và cũng không có dấu hiệu sợ hãi. Thực tế, Gabriel thấy hắn như là một anh hùng bị đoạ đày giờ đang chờ đao phủ ra tay hành quyết. Ở trong hầm bấy giờ rất tối, với chiếc đèn pin cầm theo, Gabriel có thể nhìn thấy da của hắn bị sưng tấy lên. Chờ vài phút trôi qua, Gabriel tiến đến chiếc bàn và tháo băng bịt mắt. Người đàn ông Ai Cập nheo mắt trước ánh sáng đột ngột và từ từ mở hai mắt nhìn trừng trừng vào Gabriel.

“Tôi đang ở đâu?”.

“Ông đang ở nơi khó khăn nhất của vấn đề”.

“Tại sao các anh lại bắt tôi?”.

“Không có ai bắt cóc ông cả. Đơn giản là ông được chăm sóc một cách hơi riêng tư và kỹ lưỡng thôi mà, ông đang được bảo vệ đấy”.

“Bởi ai? Vì lí do gì?”.

“Bởi người Mỹ. Và ắt hẳn chúng ta đều biết lí do tại sao”.

“Nếu tôi trong tay người Mỹ thì tại sao anh ở đây?”.

“Bởi vì…hiển nhiên, vì tôi là người kể cho họ nghe những thứ về ông”.

“Cho tôi sự bảo vệ, đó chỉ là cái cách nói của anh thôi”.

“Nhưng những thứ bảo vệ này sẽ bị huỷ bỏ ngay lập tức nếu ông lừa dối tôi”

“Tôi chẳng làm gì cả”.

“Thật à?”.

“Tôi đã kể cho anh tất cả những gì tôi biết về âm mưu đó. Nếu anh và những người bạn Anh của anh hành động nhanh hơn thì có lẽ đã ngăn được điều ấy rồi”. Người đàn ông Ai Cập im lặng suy tư trong giây lát. Gabriel nói. “Tôi rất thích khi đọc quá khứ đầy sóng gió của ông trên báo, Ibrahim à. Tôi không biết nên nghĩ gì khi tôi đối diện với một người quan trọng như ông tối nay tại Amsterdam”.

Gabriel đặt xấp tài liệu lên bàn và đẩy đến gần Ibrahim. Ibrahim nhìn xuống một hồi rồi hướng mắt nhìn chằm chằm một lần nữa vào Gabriel.

“Anh lấy cái này ở đâu?”.

“Ông nghĩ là ở đâu?”.

Ibrahim cười hợm hĩnh. “Người Mỹ, người Do Thái và những viên cảnh sát chìm Ai Cập. Bộ ba đáng ghê tởm. Thế mà anh còn phải tự hỏi tại sao anh bị người Arập ghét bỏ”.

“Thời gian của chúng ta không có nhiều đâu, Ibrahim ạ. Ông có thể sẽ tốn thời gian để loanh quanh với mớ lí thuyết đó hoặc là ông sẽ sử dụng thời gian một cách hợp lý bằng cách kể cho chúng tôi nghe tất cả những gì ông biết về việc bắt cóc người phụ nữ Mỹ”.

“Tôi không biết một chút gì cả”.

“Ibrahim, ông đang nói dối”.

“Tôi đang nói với anh sự thật”.

“Ông là thành viên tổ chức Thanh kiếm Allah”.

“Không, trước đây tôi là thành viên của tổ chức Thanh kiếm Allah, nhưng tôi đã rời khỏi hội này khi tôi rời Ai Cập”.

“À, tôi nhớ rồi, ông đến châu Âu vì một cuộc sống tốt hơn – đó không phải là những gì ông nói với tôi sao? Nhưng điều đó không là sự thật, đúng không? Ông được phái đi châu Âu bởi một người bạn của ông là Sheikh Tayyib để thành lập một tổ chức nằm trong lòng thành phố Amsterdam, nó là hội Cộng đồng Hồi giáo Tây Amsterdam, hai hội này đều là bình phong cho hội Thanh kiếm Allah, đúng không Ibrahim?”

“Nếu tôi là thành viên tích cực của Thanh kiếm Allah, thì sao tôi lại phải làm việc với điệp viên của anh, là ông Solomon Rosner? Tại sao tôi kể với anh về âm mưu bắn chiếc máy bay phản lực? Và tại sao tôi phải cảnh báo anh về Samir Al-Masri và những người bạn của hắn đến từ nhà thờ Hồi giáo Al-Hijrah?”

“Toàn là những câu hỏi hợp lí. Và ông chỉ có 30 phút để trả lời một cách thoả đáng những câu hỏi đó. Ông có 30 phút để kể cho tôi nghe toàn bộ những gì ông biết về việc tổ chức bắt cóc Elizabeth Halton. Nếu không thì ông sẽ được yêu cầu rời khỏi đây và người Mỹ sẽ tiếp nhận ông. Hiện giờ họ đang rất giận dữ, Ibrahim. Và ông biết khi người Mỹ nổi giận là thế nào rồi đấy. Họ sẽ sử dụng những biện pháp khác hoàn toàn với bản chất của họ đấy”.

“Người Israel đã đi quá đà rồi”.

Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông làm mất thời gian rồi đấy. Nhưng có lẽ là kế hoạch của ông. Ông nghĩ có thể giữ được điều ấy đến lúc chết à. Bốn ngày là thời gian quá dài để giữ bí mật rồi, Ibrahim. Ông sẽ không giữ mãi được đâu. Hãy bắt đầu đi. Khai báo đi”.

“Tôi chẳng có gì để khai báo”.

Nhưng giọng nói của Ibrahim dường như yếu ớt hơn. Gabriel lợi dụng ngay khoảnh khắc này. “Kể cho tôi nghe tất cả những gì ông biết đi, Ibrahim, nếu không ông sẽ bị người Mỹ xử lí đấy. Và nếu như người Mỹ không có những thông tin mà họ muốn thì họ sẽ đưa ông lên máy bay đến Ai cập rồi họ để cho SSI tiến hành thẩm vấn ông”. Anh nhìn vào vết phỏng trên cánh tay của người đàn ông Ai Cập. “Ông hiểu rõ phương thức của người Mỹ mà đúng không, Ibrahim?”.

“Tra tấn với những điếu thuốc là những gì tốt nhất mà họ dành cho tôi. Những điều anh nói chẳng làm tôi sợ. Tôi không tin ở đây có sự hiện diện của người Mỹ và tôi cũng không tin sẽ có ai đó buộc tôi phải về Ai Cập để chất vấn. Tôi là cư dân Hà Lan. Tôi có quyền”.

Gabriel nghiêng lưng ghế dựa và đập mạnh 2 lần vào hai cánh cửa bằng cái nắm tay. Một lát sau, Sarah đứng bên cạnh ông ta với cái nhìn ngượng ngập, Ibrahim thì nghoảnh mặt đi xấu hổ và tỏ ra lúng túng trong ghế ngồi.

“Chào ông Fawaz. Tên tôi là Catherine Blanchard, tôi làm việc cho CIA. Cách đây một dặm, có một chiếc máy bay với nhiên liệu đã được đổ đầy đang sẵn sàng đưa ông tới Cairo. Nếu ông còn có thêm câu hỏi nào nữa thì sau khi rời khỏi cánh cửa này tôi sẽ giải đáp cho ông”.

Sarah rời khỏi phòng và quay lưng đóng cửa lại. Ibrahim nhìn trừng trừng vào Gabriel một cách giận dữ.

“Tại sao anh dám để cho người phụ nữ đó nhìn tôi trong bộ dạng này?”.

“Để lần tới ông khỏi phải nghi ngờ lời nói của tôi”.

Người đàn ông Ai Cập nhìn vào mớ tài liệu. “Họ nói gì về tôi?”.

“Họ nói rằng ông là một trong những thành viên đầu tiên của tổ chức Thanh kiếm Allah tại Minya. Họ nói ông có mối quan hệ liên kết mật thiết với Sheikh Tayyib Abdul – Razzaq và người anh em của hắn ta là Sheikh Abdullah. Họ nói ông là người tổ chức nhóm khủng bố tại trường đại học Minya và là người tuyển mộ những sinh viên trẻ làm thành viên của nhóm khủng bố Hồi giáo. Họ nói rằng ông muốn thực hiện việc cai trị theo tín ngưỡng”.

“Đã có những thông tin sai lầm”, Ibrahim nói. “Nhưng có một thông tin vô cùng quan trọng. Thực tế thì hội Thanh kiếm Allah ở trường đại học không hề hoạt động khủng bố. Hội Thanh kiếm Allah quay trở lại hoạt động khủng bố không trước mà sau cuộc mưu sát Sadat”.

Fawaz lại nhìn vào mớ hồ sơ. “Họ còn nói ông bị bắt giữ ngay trong tối đó bởi kẻ sát nhân giết Sadat”.

“Và?”

“Đó là điều cuối cùng”.

“Thật là khó mà ngạc nhiên. Những điều xảy ra sau khi tôi bị bắt đi là những điều mà họ chẳng muốn viết ra giấy”, Ibrahim nhìn vào các hồ sơ giấy tờ. “Anh có muốn biết chuyện gì đã xảy với tôi vào tối hôm đó không? Anh có muốn tôi điền cho đầy đủ vào những giấy tờ mà anh còn thiếu kia không? Những giấy tờ mà anh đưa ra trước mặt tôi như là một minh chứng cho tội lỗi?”.

“Ông có 30 phút để nói cho tôi nghe sự thật, Ibrahim. Ông có thể sử dụng thời gian theo ý ông muốn”.

“Tôi mong muốn kể cho anh nghe một câu chuyện về một người bạn của tôi – một câu chuyện của kẻ mất tất cả mọi thứ vì niềm tin”.

“Tôi đang nghe đây”.

“Có thể cho tôi ít cà phê không?”.

“Không”.

“Vậy anh có thể tháo còng tay cho tôi được không?”.

“Không”

“Tay tôi đau quá”.

“Ông phải cố mà chịu thôi”.

“Ông ta là giáo sư nên rất được mọi người nể trọng”. Ibrahim bắt đầu miêu tả, không phải với câu chuyện về một người đàn ông,mà lại bắt đầu bằng sự đấu tranh – sự đấu tranh để làm tăng cường niềm tin trong thế giới trần tục – thuyết Nasser, Baath, Cộng sản, liên minh Arập, xã hội Arập – cái duy nhất được nhắc đến, vào tháng 6 năm 1967, tất cả các học thuyết chỉ là mặt nạ cho sự hèn kém và suy tàn của Arập.

“Anh là người trong số những người có thể thoát khỏi cơn bão đấy”, Ibrahim nói. “Người Palestine có học thuyết Ngày tận diệt vào năm 1948. Đối với chúng tôi, năm 1967, chỉ có 6 ngày trong tháng 6 để có thể biến Arập thành trung tâm của mọi thứ. Nasser và những người theo chủ nghĩa duy vật đã bảo với chúng tôi rằng họ là những kẻ cực kỳ mạnh mẽ”.

“Ông đã ở trong quân ngũ vào năm 1967?”.

Hắn ta gật đầu. “Tôi đã hoàn tất nghĩa vụ quân sự. Tôi học Đại học Cairo năm 1967. Trong vòng một tuần sau khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi tổ chức một nhóm bất họp pháp tên là Người Hồi giáo. Tôi là một trong những người lãnh đạo phong trào cho đến năm 1969 khi hoàn tất học vị tiến sĩ kinh tế. Trước khi tốt nghiệp, tôi đã có 2 sự lựa chọn: đi làm việc cho cơ quan Pharaoh như là một viên chức hoặc là dạy học ở trường Pharaoh. Tôi chọn hướng thứ hai và chấp nhận một vị trí tại trường Đại học Minya, miền trung Ai Cập. Sáu tháng sau thì Nasser chết”.

“Và mọi thứ bị thay đổi”, Gabriel nói.

“Hầu như chỉ qua một đêm là mọi thứ thay đổi”. Ibrahim nói với vẻ đồng tình. “Sadat khuyến dụ chúng tôi. Hắn cho chúng tôi sự tự do và tiền bạc để tiến hành thành lập tổ chức. Chúng tôi để râu. Chúng tôi thành lập hội những người thanh niên và các quỹ từ thiện giúp người nghèo. Chúng tôi đã có những cuộc tập dượt gần giống như trong quân đội tại một trại trên sa mạc, được trả chi phí bởi chính phủ và tài sản của Sadat. Chúng tôi đã sống cuộc sống của chính mình, dựa vào luật pháp của Đấng tối cao và chúng tôi muốn luật pháp này sẽ trở thành luật Ai Cập. Sadat hứa với chúng tôi rằng hắn ta sẽ tạo nên một học viện sharia. Nhưng hắn ta không giữ lời hứa, sau đấy hắn ta lại gây ra những hành động tồi tệ hơn bằng cách kí một hiệp ước hoà bình với quỷ sứ, và đó là lí do mà hắn và vợ hắn phải trả giá”.

“Ông tán đồng cuộc mưu sát Sadat?”.

“Tôi đã quỳ gối và cảm tạ Đấng tối cao vì đã trừng phạt hắn ta”.

“Và sau đó một cuộc vây bắt được tiến hành”.

“Hầu như liền ngay sau đó”, Ibrahim nói. “Sự lo lắng sợ hãi về cái chết của Sadat chỉ là phát súng khởi đầu cho một cuộc cách mạng Hồi giáo sẽ lan toả khắp đất nước. Họ đã sai, dĩ nhiên, nó không ngăn họ thực hiện các hành vi khủng bố đối với những người tin rằng nó là một âm mưu hoặc tin rằng có những âm mưu có thể sắp xuất hiện”.

“Tại trường đại học, họ xuất hiện vì ông à?”.

Ông ta gật đầu. “Tôi rời khỏi trường khi xế chiều và về căn hộ chung cư. Khi tôi về đến nơi, chẳng có ai ở đấy cả. Tôi hỏi thăm hàng xóm xem họ có thấy vợ và con tôi đâu không. Hàng xóm bảo rằng vợ và các con tôi đã bị bắt đi. Tôi đến đồn cảnh sát, nhưng vợ và con tôi không ở đó, cảnh sát bảo họ không ghi nhận được bất kỳ một trường hợp bắt cóc nào cả. Sau đó tôi đi tới cơ quan đầu não của SSI tại Minya”. Giọng của ông ta kéo dài, ánh mắt nhìn vào đống tài liệu.

“Anh bạn của tôi, anh có biết cây cầu bắc qua Jahannam không?”.

“Đó là cây cầu mà tất cả người Hồi giáo phải đi qua để lên thiên đàng”, Gabriel nói. “Nó là sản phẩm của trí tưởng tượng. Những người Hồi giáo tin rằng khi còn sống, nếu làm điều tốt đẹp thì khi chết, bước qua cầu là sẽ lên tới thiên đàng. Nhưng nếu làm điều xấu xa độc ác thì sẽ phải xuống địa ngục với những hình phạt vô cùng đau đớn”.

Ibrahim lại nhìn vào đống tài liệu, rõ ràng ông ta thật sự bị ấn tượng bởi sự hiểu biết của Gabriel về Hồi giáo. “Tôi là kẻ không có may mắn được thấy chiếc cầu bắc qua Jahannam. Tôi buộc phải đi qua nó và bước xuống địa ngục vào một đêm tháng 10 năm 1981”.

Gabriel tháo còng cho Ibrahim và ra hiệu cho ông ta tiếp tục kể.

Ibrahim kể rằng mình bị giam vào một xà lim và bị đánh đập tàn nhẫn trong suốt 12 tiếng đồng hồ. Kết thúc xong việc tra tấn này, ông ta bị dẫn vào phòng tra vấn và người tra vấn là tay khá lão luyện của SSI, tay này biết mọi thứ về kế hoạch của tổ chức khủng bố Hồi giáo ở Minya. Ông ta trả lời các câu hỏi một cách thành thật rằng mình không thật sự biết về các kế hoạch tấn công – và ngay lập tức ông ta bị đưa về xà lim giam giữ, và lại bị đánh đập trong vòng vài ngày nữa. Sau đó ông ta lại được đưa tới trước một viên thẩm tra và lại phủ nhận các kế hoạch tấn công khủng bố được dự trù sẵn. Lần này, viên thẩm tra của SSI đưa ông ta vào một xà lim khác. Trong xà lim này, có đứa bé gái khoảng tuổi niên thiếu đang trong tư thế trần truồng và bất tỉnh, cơ thể bị treo lên với hai tay trên trần nhà. Cô bé bị đánh đập, cơ thể toàn vết trầy xướt, vết cắt bởi sự tra tấn bằng dây và dao cạo, mặt cô bé bị biến dạng bởi các vết sưng và đầy máu me. Phải một lúc, Ibrahim mới nhận ra cô bé chính là đứa con Jihan bé bỏng của mình.

“Con bé được làm cho tỉnh lại bằng xô nước lạnh”, ông ta nói. “Con bé nhìn tôi một hồi, nhưng nó cũng không nhận ra được tôi. Viên thẩm vấn lấy roi da quất mạnh vào con bé trong mấy phút, sau đó có mấy kẻ khác đưa con bé xuống và bắt đầu hãm hiếp nó trước mặt tôi. Con gái tôi nhìn tôi trong lúc nó bị bọn thú này hành hạ. Con bé cứ kêu van. “Ba ơi, cứu con với”.”Hãy ngưng lại và tao sẽ nói cho bọn mày những gì bọn mày muốn biết”. Nhưng tôi có cái gì đâu để mà nói, làm sao mà bọn chúng ngừng tay đây”.

Ông ta bắt đầu run lên giận dữ. “Bây giờ tôi có thể mặc quần áo không?”.

“Cứ nói tiếp đi, Ibrahim”.

Hắn ta im lặng hồi lâu. Trong thời gian ấy, Gabriel lo rằng hắn sẽ không kể nữa, nhưng sau đó, hắn ta run run và bắt đầu nói tiếp.

“Họ đưa tôi đến một xà lim bên cạnh để tôi phải nghe tiếng kêu van đau đớn của con gái tôi trong suốt đêm dài ấy. Lần thứ ba, tôi bị mang tới trước viên thẩm tra. Tôi nói với ông ta mọi thứ mà tôi nghĩ hầu như có thể khiến đứa con gái của tôi bớt đi khổ sở. Tôi đưa cho hắn một vài thông tin quan trọng nhưng đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi đưa cho hắn ta tên các thành viên của hội Thanh kiếm Allah. Tôi đưa cho hắn ta các địa chỉ mà tôi đã gặp gỡ các thành viên trong hội và tên của các sinh viên ở trường đại học có liên quan đến các hành động cực đoan. Tôi nói cho hắn tất cả những gì hắn muốn nghe, dẫu rằng tôi biết tôi đang làm tổn hại đến các bạn vô can, các đồng nghiệp của tôi, họ rồi chắc sẽ phải chịu đựng như tôi đã phải chịu đựng. Hắn ta có vẻ thoả mãn với những gì mà tôi khai. Tuy nhiên, tôi vẫn bị tra tấn một lần nữa vào đêm ấy. Khi tra tấn xong, tôi bị dẫn vào xà lim và bị để mặc cho chết. Lần đầu tiên, tôi không ở một mình, còn một tù nhân khác nữa ở đấy”.

Gabriel hỏi. “Ông có nhận ra anh ta không?”.

“Biết chứ”.

“Anh chàng đó là ai?”.

“Đó chính là Sheikh Abdullah. Sheikh nói với tôi bằng giọng như nhà tiên tri Mohammed “Tin vào Đấng tối cao. Đừng tiêu tan hy vọng”. Hắn ta xoa lên các vết thương cho tôi và cầu nguyện cho tôi trong hai ngày kế tiếp. Tôi vẫn còn sống được là nhờ hắn”.

“Còn đứa con gái của ông?”.

Ibrahim nhìn đồng hồ đeo tay của Gabriel. “Tôi đã tốn mất bao nhiêu thời gian rồi trước khi tôi được nộp cho người Mỹ?”

Gabriel tháo đồng hồ và chùi nó trên túi áo.

“Tôi có thể mặc lại quần áo không?”

Gabriel dựa lưng nghiêng chiếc ghế rồi gõ mạnh hai lần vào cửa.