Hồng Ngọc

Chương 15

Giờ học trôi qua chậm đau chậm đớn, bữa trưa thì kinh khủng như mọi hôm (món pudding Yorkshire) và khi rốt cuộc được về nhà sau hai tiết Hóa buổi chiều, tôi lại có cảm giác sẵn sàng trèo lên giường ngủ.

Charlotte phớt lờ tôi suốt cả ngày. Một lần, tôi thử bắt chuyện trong giờ giải lao nhưng chị ta bảo: “Nếu em định xin lỗi thì – quên đi!”

“Cớ gì em phải xin lỗi cơ chứ?” tôi bực bội hỏi.

“Nếu chính em còn không biết…”

“Charlotte! Em đâu có lỗi, khi em thừa hưởng cái gien ngu ngốc này chứ không phải chị.”

Charlotte ném sang tôi cái nhìn nảy lửa. “Đó không phải cái gien ngu ngốc – đó là tài năng, là một thứ rất đặc biệt. Trao cho một người như em thì quả là phí phạm. Nhưng em thì quá trẻ con để hiểu được, dù chỉ là một chút xíu.”

Rồi chị quay lưng bỏ đi, để tôi đứng trơ lại.

“Rồi bạn ấy sẽ nghĩ lại,” Leslie nói khi đi lấy đồ trong tủ. “Trước hết bạn ấy phải làm quen với ý nghĩ rằng bạn ấy không còn là người đặc biệt nữa.”

“Nhưng chị ấy thật bất công,” tôi bảo. “Xét cho cùng thì tớ không lấy mất thứ gì của chị ấy.”

“Xét cho cùng thì có đấy!” Leslie chìa cái lược của nó ra. “Đây!”

“Để làm gì?”

“Chải đầu chứ còn làm gì!”

Tôi nghe theo, cầm lược chải tóc. “Sao tớ lại phải chải đầu?” tôi hỏi.

“Tớ chỉ muốn trông cậu thật xinh đẹp khi gặp lại Gideon. Thật may là cậu không cần tới thuốc chải mi, hàng mi của cậu vốn đen và dài phát ghen lên được…”

Nghe đến tên Gideon, mặt tôi đỏ ửng. “Có thể hôm nay tớ sẽ không gặp hắn. Bởi thực ra tớ chỉ về một căn hầm vào năm 1956 để làm bài tập.”

“Ừ, nhưng có thể hắn sẽ tình cờ gặp cậu trước hoặc sau đó.”

“Leslie, tớ không phải mẫu người của hắn!”

“Hắn không nghĩ thế,” Leslie bảo.

“Có đấy, hắn nghĩ thế đấy!”

“Thì đã sao? Người ta có thể đổi ý chứ. Dù thế nào chăng nữa, hắn cũng là mẫu người của cậu.”

Tôi há miệng ra rồi ngậm lại ngay. Phản đối là vô ích. Hắn từng là mẫu người tôi thích. Mặc dù tôi thực sự muốn dối lòng.

“Đứa con gái nào cũng phải thích hắn,” tôi nói. “Ít nhất là xét về ngoại hình. Nhưng hắn lúc nào cũng làm tớ tức điên, lại còn ra lệnh này nọ, và hắn đơn giản chỉ là… đơn giản là rất…”

“… rất tuyệt?” Leslie mỉm cưởi nhìn tôi thương mến. “Cậu cũng vậy, thật đấy! Cậu là cô gái tuyệt nhất mà tớ từng biết. Có thể là trừ bản thân tớ ra. Mà cậu cũng hay ra lệnh này nọ. Đi thôi. Tớ nhất định phải nhìn thấy chiếc Limousine tới đón cậu.”

James gật đầu chào lạnh tanh khi bọn tôi đi ngang hõm tường anh ngồi.

“Đợi một chút,” tôi bảo Leslie. “Tớ có chuyện muốn hỏi James.”

Thấy tôi dừng lại, vẻ lạnh nhạt trên mặt James biến mất, anh mỉm cười vui vẻ với tôi. “Tôi đã nghĩ lại về lần cuối chúng ta nói chuyện,” James bảo.

“Về việc hôn?”

“Không! Về bệnh đậu mùa. Có lẽ tôi bị nhiễm bệnh đó thật. À, hôm nay tóc cô óng ánh đẹp quá.”

“Cảm ơn anh, James, anh giúp em một việc nhé?”

“Tôi hy vọng chuyện đó không liên quan gì đến hôn.”

Tôi phì cười. “Nếu có thì cũng không tệ,” tôi bảo. “Nhưng em muốn nói đến cung cách ứng xử.”

“Cung cách ứng xử?”

“Anh luôn phàn nàn rằng em cư xử kém phép tắc. Anh nói đúng. Vì thế em muốn nhờ anh dạy em cách ứng xử cho đúng. Đúng với thời của anh. Cách nói chuyện, cách nhún chân chào, cách – đủ thứ, em làm sao để biết được?”

“…cách cầm quạt? Cách khiêu vũ? Cách ứng xử khi có mặt một quý tộc hàng vua chúa?”

“À, chuyện đó thì tôi có thể dạy cô,” James nói.

“Anh thật đáng yêu,” tôi quay người định đi tiếp. “À, anh James, anh biết đấu kiếm chứ?”

“Tất nhiên rôi,” James nói. “Không phải tôi tự khen, nhưng trong số bạn bè ở câu lạc bộ, tôi là một trong những tay kiếm cừ nhất. Chính Galliano nhận xét tôi có năng khiếu đặc biệt.”

“Quá siêu!” tôi nói. “Anh đúng là một người bạn chính cống.”

“Cậu định nhờ hồn ma dạy đấu kiếm?” Leslie chăm chú theo dõi cuộc trò chuyện. Tất nhiên nó chỉ nghe được những gì tôi nói. “Ma mà cũng nâng được kiếm lên?”

“Để xem,” tôi nói. “Dù sao anh ấy cũng thông thạo thế kỷ 18. Anh ấy tới từ đó chứ đâu.”

Gordon Gelderman bắt kịp bọn tôi ở cầu thang. “Này, cậu lại nói chuyện với hõm tường, Gwendolyn. Tớ vừa nhìn rõ.”

“Đây là hõm tường yêu thích của tớ, Gordon. Nó sẽ giận nếu tớ không nói chuyện với nó.”

“Cậu có biết cậu là người kỳ dị không?”

“Biết chứ, Gordon thân mến, tớ biết. Nhưng ít ra thì tớ cũng không nói giọng vịt đực.”

“Chuyện đó rồi sẽ qua,” Gordon nói.

“Nếu cậu cũng đi qua luôn thì hay,” Leslie bảo.

“À, chắc hai cậu lại muốn tiếp tục nói chuyện,” Gordon bảo. Tên này lúc nào cũng bám như đỉa. “Chuyện này thì tớ hiểu. Hôm nay các cậu mới chỉ chụm đầu bàn bạc có năm tiếng. Lát nữa gặp lại ở rạp phim chứ?”

“Không,” Leslie nói.

“Đằng nào tớ cũng không đi được,” Gordon bám theo bọn tôi qua tiền sảnh như cái bóng. “Tớ còn phải viết cái bài luận ngớ ngẩn về nhẫn triện. Tớ đã kể là tớ ghét lão Whitman chưa nhỉ?”

“Rồi, nhưng cậu mới kể có một trăm lần thôi,” Leslie nói.

Chưa ra khỏi cổng tôi đã thấy chiếc Limousine đỗ ở đó. Tim tôi bắt đầu đập gấp hơn. Về chuyện tối qua, tôi vẫn còn ngượng chín người.

“Wow! Xế hộp nào thế kia?” Gordon khẽ huýt sáo. “Có lẽ tin đồn về con gái của Madonna học ở trường mình là đúng thật, dĩ nhiên là dưới tên giả.”

“Dĩ nhiên,” Leslie hấp háy nhìn lên trời. “Thế nên nàng phải được Limousine đưa đón. Để không ai biết việc ẩn danh.”

Đám học sinh bu quanh chiếc Limousine. Cả Cynthia và cô bạn Sarah cũng dừng chân trên cầu thang và hau háu nhòm. Tuy nhiên họ không dán mắt vào chiếc Limousine mà nhìn sang phải một đoạn.

“Thế mà tớ cứ tưởng cô học sinh tiên tiến nhà mình không để mắt tới con trai,” Sarah nói. “Lại càng không đối với phiên bản siêu hạng kia.”

“Có lẽ đó là anh họ bạn ấy,” Cynthia bảo. “Hoặc anh trai.”

Tôi cấu tay Leslie. Quả thật, Gideon đang đứng trên sân trường, trông khá phủi bụi trong bộ quần bò áo phông. Và hắn đang nói chuyện với Charlotte.

Leslie vỡ lẽ ngay lập tức. “Thế mà tớ cứ tưởng tóc hắn dài,” giọng nó đầy oán trách.

“Thì chả dài là gì,” tôi bảo.

“Dài lưng chừng thôi,” Leslie bảo. “Hai chuyện khác nhau hẳn. Quá ngon.”

“Thằng cha lại cái, tớ cược năm mươi bảng là hắn lại cái,” Gordon bám vai tôi để nhòm được giữa tôi và Cynthia.

“Ôi Chúa ơi, chàng đã chạm vào nàng!” Cynthia nói. “Chàng nắm tay nàng!”

Đứng tận đây cũng thấy được nụ cười của Charlotte. Chị ấy hiếm khi cười (nếu không tính nụ cười miễn cưỡng kiểu Mona Lisa), nhưng đã mỉm cười thì long lanh. Thậm chí còn để hiện rõ đôi lúm đồng tiền. Gideon hẳn phải nhận thấy và đương nhiên hắn cũng ngây ngất.

“Chàng vuốt mà nàng kìa!”

Lạy Chúa. Đúng thế thật! Tim tôi nhói đau, không thể giấu được.

“Chàng lại còn hôn nàng nữa kìa!”

Tất cả gần như nín thở. Đúng là có vẻ như Gideon sắp hôn Charlotte.

“Chỉ lên má thôi,” Cynthia thở phào. “Ắt hẳn chàng là anh họ của bạn ấy. Gwenny, làm ơn nói rằng chàng là anh họ của Charlotte đi!”

“Không,” tôi nói. “Hai người không họ hàng gì cả.”

“Và chàng cũng không lại cái,” Leslie bảo.

“Cược không? Cứ nhìn chiếc nhẫn triện của hắn thì biết!”

Charlotte rạng rỡ nhìn Gideon lần nữa rồi nhẹ nhàng quay đi. Rõ ràng tâm trạng u tối của chị ấy đã tan biến.

Gideon quay về phía bọn tôi. Tôi biết rõ cảnh tượng khi đó ra sao: bốn đứa con gái cộng với Gordon đang trố mắt nhìn và cười rúc rích trên cầu thang.

Tôi biết rõ đám con gái như em.

Đúng như mong đơi. Chết tiệt.

“Gwendolyn!” Gideon gọi. “Đợi em mãi!”

Cynthia, Gordon và Sarah nhất loạt nín thở. Thú thực là cả tôi cũng vậy. Chỉ có Leslie là tỉnh bơ. Nó huých tay tôi. “Nhanh chân lên. Chiếc Limousine của cậu đang đợi kìa.”

Mỗi bước xuống bậc thang, tôi đều cảm nhận rõ tia mắt của lũ ban đang xoáy vào lưng mình. Có lẽ cả lũ đang há hốc mồm. Gordon thì chắc chắn.

“Chào,” tôi nói khi tới chỗ Gideon. Không thể nói gì thêm. Giữa trời nắng, cặp mắt xanh lá của hắn còn lấp lánh hơn bình thường.

“Chào em.” Hắn quan sát tôi, có lẽ hơi kỹ. “Em lớn vọt qua đêm đấy à?”

“Không,” tôi kéo chụm ngực áo khoác. “Bộ đồng phục này bị co.”

Gideon cười. Rồi hắn nhìn qua vai tôi. “Kia là các bạn em? Hình như một cô vừa ngất thì phải.”

Lạy Chúa. “Cynthia Dale,” tôi không cần quay lại. “Bạn ấy mắc chứng thừa estrogen. Nếu anh thích thì tôi giới thiệu.”

Gideon ngoác miệng cười. “Có thể ta sẽ quay lại chuyện này. Đi thôi! Hôm nay còn nhiều việc phải làm.” Hắn khoác tay tôi (những tiếng rú đồng thanh cất lên từ phía cầu thang) và đưa tới chiếc Limousine.

“Tôi chỉ phải làm bài tập về nhà. Trong năm 1956.”

“Kế hoạch thay đổi rồi.” Gideon mở cửa xe cho tôi (bản hợp xướng rú tít lặp lại từ phía cầu thang.) “Chúng ta sẽ đi thăm kỵ ngoại của em. Chính bà ấy dặn là muốn gặp em.” Hắn đặt tay lên lưng để ấn tôi vào xe (lại một lần nữa có tiếng rú trên cầu thang).

Tôi thả người xuống ghế sau. Đối diện là một vóc dáng tròn trịa quen thuộc ngồi đợi sẵn.

“Chào ông George.”

“Gwendolyn, cô bé dũng cảm của ta, hôm nay cháu thế nào?” Ông George rạng rỡ với cái đầu hói bóng loáng.

Gideon ngồi xuống cạnh ông.

“À, dạ, cháu khỏe ạ, cảm ơn ông.” Tôi đỏ mặt khi nghĩ tới hình ảnh thảm hại của mình tối qua. Nhưng ít ra Gideon cũng không tuôn ra lời cạnh khóe nào. Hắn làm như không hề có chuyện gì xảy ra. “Chuyện kỵ ngoại của cháu thế nào rồi?” tôi vội hỏi. “Cháu không hiểu lắm.”

“Chính chúng tôi cũng không hiểu,” Gideon thở dài.

Chiếc Limousine chuyển bánh. Tôi phải cố nén để không ngoái lại nhìn đám bạn qua ô kính phía sau.

“Margaret Tilney, tên thời con gái là Grand, bà của quý bà Arista, người vượt thời gian gần nhất trước Lucy và cháu. Sau cú vượt thời gian lần thứ hai vào năm 1894, Đội cận vệ dễ dàng nhận dạng bà ấy bằng máy đồng hồ thứ nhất. Bà qua đời năm 1944, và trong quãng đời còn lại, bà thường phân nhánh hồi khứ bằng cỗ máy này. Trong Biên niên sử, quý bà Tilney thường được miêu tả là người thân thiện và có ý thức cộng tác.” Ông George căng thẳng xoa cái đầu hói. “Khi London bị đánh bom trong Thế chiến II, một nhóm cận vệ đã cùng bà và máy đồng hồ lánh về quê. Ở đó, bà ấy qua đời sau một lần viêm phổi, thọ 67 tuổi.”

“À, ừm… thật đáng buồn.” Tôi không biết làm gì với những thông tin nọ.

“Như cháu biết, Gideon đã trở về quá khứ tìm gặp và xin được máu của bảy người trong Hội Thập Nhị cho máy đồng hồ thứ hai. Đúng ra là sáu người, nếu chỉ tính cặp song sinh là một. Cộng với máu của cháu và cậu ấy thì chỉ còn lại bốn người trong hội. Mắt mèo, ngọc thạch, lam ngọc và Tourmaline đen.”

“Elain Burghley, Margaret Tilney, Lucy Montrose và Paul de Villiers,” Gideon phụ họa. “Còn phải tìm xin máu bốn người này trong quá khứ.”

Chi tiết này thì tôi hiểu, tôi nào có ngu đến thế.

“Chính xác. Chúng ta không nghĩ lại gặp trục trặc với Margaret.” Ông George ngả người ra sau. “Có thể với những người khác, nhưng Margaret không có lý do gì để dự đoán khó khăn. Cuộc đời của bà ấy được Đội cận vệ ghi chép lại rất tỉ mỉ. Chúng ta biết chính xác nơi bà ấy ở từng ngày trong đời, do đó không khó khăn gì để sắp xếp cho Gideon gặp bà ấy. Đêm qua cậu ấy đã về năm 1937 để gặp bà Margaret Tilney tại Temple, ngay trong nhà chúng ta.”

“Thật ạ, đêm qua? Trời đất, thế anh ngủ vào lúc nào?”

“Lẽ ra mọi người nghĩ là sẽ nhanh thôi,” Gideon khoanh tay trước ngực. “Chúng tôi dự tính một tiếng đồng hồ cho việc này.”

Ông George kể: “Nhưng trái với mong đợi, bà Margaret không chịu cho máu, sau khi nghe cậu ấy giải thích.” Ông ấy nhìn tôi đầy vẻ chờ đợi. Ông muốn nghe ý tôi về chuyện này chăng?

“Có thể là… à, ừm… kỵ không hiểu,” tôi nói. Chuyện cũng rắc rối đấy chứ.

“Kỵ hoàn toàn hiểu ý tôi.” Gideon lắc đầu. “Kỵ biết từ trước khi tôi đến, rằng cỗ máy thứ nhất bị đánh cắp và tôi xin máu cho cỗ máy thứ hai.”

“Nhưng làm sao mà kỵ biết được chuyện xảy ra nhiều năm sau đó? Kỵ có khả năng tiên tri à?” Vừa thốt lên câu hỏi thì tôi cũng chợt hiểu ra mọi chuyện. Có vẻ như tôi đã dần dần nắm được mấy chuyện vượt thời gian này.

“Có ai đó đã tới trước anh và kể cho kỵ nghe?” tôi nói.

Gideon gật đầu khẳng định. “Và khuyên kỵ đừng bao giờ cho máu. Kỳ lạ hơn nữa là kỵ còn từ chối nói chuyện với tôi. Kỵ gọi lính cận vệ và sai lôi tôi đi khuất mắt kỵ.”

“Nhưng người đó là ai?” Tôi ngẫm nghĩ. “Thực ra chỉ có thể là Lucy và Paul. Họ có khả năng vượt thời gian và muốn ngăn việc khắc nhập hội.”

Ông George và Gideon đưa mắt nhìn nhau.

“Từ khi Gideon trở về, chúng ta có một vấn đề nan giải,” ông George nói. “Có thể phỏng đoán chuyện gì đã xảy ra, nhưng không có bằng chứng. Vì thế sáng nay Gideon đã ngược về quá khứ lần nữa và gặp bà Margaret Tilney.”

“Thế là anh bận bịu cả một ngày hôm qua, nhỉ?” Tôi tìm vẻ mệt mỏi trên mặt Gideon nhưng không thấy gì. Hắn tỉnh như sáo. “Tay anh sao rồi?”

“Tốt. Em hãy nghe kỹ lời ông George. Chuyện này quan trọng.”

“Lần này Gideon trực tiếp tới gặp bà Margeret ngay sau cú vượt đầu tiên của bà, đó là năm 1894,” ông George nói. “cháu cần phải biết là dường như gien vượt thời gian chỉ xác định được trong máu sau cú vượt thời gian đầu tiên. Bởi vì rõ ràng máy đồng hồ không chịu nhận dạng những người vượt thời gian nếu máu của họ được lấy trước cú vượt đầu tiên. Bá tước Saint Germain đã từng tiến hành một số thí nghiệm và suýt nữa vì thế làm hỏng hẳn cỗ máy. Do đó xin máu của người vượt thời gian khi người đó còn bé là vô ích. Mặc dù điều này thực ra đơn giản hơn nhiều, cháu hiểu chứ?”

“Vâng,” lần này tôi đáp gọn lỏn.

“Vậy nên sáng nay Gideon đã tới gặp bà Margaret hồi còn trẻ vào đúng thời điểm phân nhánh hồi khứ chính thức đầu tiên của bà ấy. Sau lần vượt thời gian đầu tiên, bà ấy đã được đưa tới Temple ngay lập tức. Nhưng giữa lúc chuẩn bị nhận dạng qua máy đồng hồ thì bà ấy đã vượt thời gian lần thứ hai, cú vượt ngoài tầm kiểm soát lâu nhất được ghi lại cho tới lúc đó. Bà ấy biến mất hơn hai tiếng đồng hồ.”

“Ông George, ông nên bỏ hẳn những chi tiết ít quan trọng,” Gideon đề nghị với giọng hơi sốt ruột.

“À, ừ, ta kể đến đâu rồi? Như vậy là Gideon đã gặp bà Margaret vào thời điểm phân nhánh hồi khứ đầu tiên. Và một lần nữa, cậu ấy kể lại câu chuyện máy đồng hồ bị đánh cắp và về cơ may có thể sửa sai mọi chuyện bằng máy thứ hai.”

“À!” tôi cắt ngang, “vì thế mà kỵ Margaret khi về già đã biết được toàn bộ câu chuyện. Chính Gideon đã kể cho kỵ nghe.”

“Đúng, đó cũng là một khả năng,” ông George nói. “Nhưng cả lần này bà Margaret trẻ tuổi cũng đã biết trước mọi chuyện rồi.”

“Vậy là đã có người tới trước Gideon. Lucy và Paul đã dùng máy đồng hồ đánh cắp để ngược về quá khứ và kể cho kỵ Margaret rằng chắc chắn sớm muộn sẽ có người xuất hiện để xin máu của kỵ.”

Ông George im lặng.

“Lần này kỵ có cho máu không?”

“Không,” ông George nói. “Cả lần này bà ấy cũng từ chối.”

“Tuy nhiên, ở tuổi mười sáu người ta chưa đến nỗi cứng đầu cứng cổ như lúc về già,” Gideon nói. “Lần này kỵ còn chịu nói chuyện vài câu. Và cuối cùng kỵ bảo, nếu có nhượng bộ thì kỵ chỉ thương thảo với em.”

“Với tôi?”

“Bà ấy nói rõ tên em, Gwendolyn Shepherd.”

“Nhưng…” Tôi cắn môi, trong khi ông George và Gideon nhìn tôi chăm chú. “Tôi tưởng Lucy và Paul đã biến mất trước khi tôi ra đời. Làm sao họ có thể biết tên tôi để kể cho kỵ Margaret?”

“Chà, đó chính là vấn đề nan giải,” ông George nói. “Cháu biết đấy, Lucy và Paul lấy cắp máy đồng hồ vào tháng Năm, năm cháu chào đời. Thoạt tiên họ cầm nó theo và lẩn trốn ở thời hiện tại. Họ đã khéo lừa được nhóm thám tử của Đội cận vệ trong vài tháng bằng cách ngụy tạo dấu tích và các mẹo khác. Họ luôn thay đổi chỗ ở và mang máy đồng hồ đi khắp châu Âu. Nhưng các điểm trú ngụ của họ càng ngày càng bị chúng ta thu hẹp hơn, và họ hiểu rằng chỉ có thể thoát thân nếu đem theo máy đồng hồ trở về quá khứ. Tiếc là họ nhất định không chịu bỏ cuộc. Hai đứa tuyệt đối không khoan nhượng khi bảo vệ các lý tưởng sai trái của mình.” Ông thở dài. “Hai đứa còn trẻ và đầy ham mê…” Ánh mắt ông trở nên mơ màng.

14.1

Gideon hắng giọng, ông George không nhìn vô định nữa. Ông tiếp tục: “Cho đến giờ chúng ta vẫn nghĩ họ thực thi bước này vào tháng Chín tại London, vài tuần trước khi cháu chào đời.”

“Lúc đó họ vẫn không thể biết được tên cháu!”

“Chính xác,” ông George nói. “Vì thế sau sáng nay, chúng ta đã dự đoán họ dùng máy đồng hồ trở về quá khứ sau khi cháu ra đời.”

“Bất kể vì lý do gì,” Gideon phụ thêm.

“Chúng ta cũng phải tìm hiểu, Lucy và Paul biết được tên và sứ mệnh của cháu từ đâu ra. Gì thì gì, bà Margaret đã tuyệt đối từ chối hợp tác.”

Tôi ngẫm nghĩ. “Vậy làm sao lấy được máu của kỵ?” Lạy Chúa, có thật là tôi vừa thốt ra câu ấy? “Mọi người sẽ không dùng vũ lực chứ?” Trong trí tưởng tượng của tôi hiện lên hình ảnh Gideon lăm le cầm sẵn thuốc mê, dây trói và kim tiêm to tướng, khiến tôi mất cảm tình với hắn đáng kể.

Ông George lắc đầu. “Một trong mười hai quy định tối thượng của Đội cận về là chỉ dùng vũ lực khi không thể đạt mục đích qua thương thảo và đồng thuận. Vì thế chúng ta trước tiên sẽ theo đề nghị của bà Margaret: Chúng ta cử cháu tới đó.”

“Để cháu thuyết phục kỵ?”

“Để chúng ta biết động cơ của bà ấy và biết bọn mớm tin. Chính bà ấy bảo muốn nói chuyện với cháu. Chúng ta muốn biết bà ấy sẽ nói gì.”

Gideon thở dài. “Rồi cũng chẳng đảo ngược được tình thế đâu, suốt sáng nay tôi đã nói như nói với bức tường.”

“Chính vì thế mà Madame Rossini đang may cho cháu một chiếc váy mùa hè của năm 1912,” ông George nói. “Cháu cần làm quen với kỵ của cháu.”

“Vì sao lại đúng vào năm 1912?”

“Chúng ta chọn hoàn toàn ngẫu nhiên. Mặc dù vậy, Gideon vẫn cho rằng các cháu có thể sa bẫy.”

“Sa bẫy?”

Gideon không nói gì, chỉ nhìn tôi chằm chằm, đầy vẻ lo lắng.

“Hầu như có thể loại trừ khả năng này, nếu xét về logic,” ông George nói.

“Nhưng vì sao lại có người muốn giăng bẫy chúng cháu?”

Gideon cúi xuống phía tôi. “Em nghĩ xem: Lucy và Paul đang giữ trong tay máy đồng hồ, trong đó máu của mười người được nhận dạng. Để khắc nhập huyết hội và tận dụng được điều bí mật cho riêng mình, họ chỉ còn thiếu máu của hai chúng ta.”

“Nhưng… chẳng phải Lucy và Paul vẫn muốn ngăn việc khắc nhập hội và khám phá ra bí mật hay sao?” tôi nói.

Ông George và Gideon lại đưa mắt nhìn nhau.

“Đó là điều mẹ cháu nghĩ,” ông George nói.

Đó cũng là điều tôi tin cho tới giờ. “Còn mọi người thì không tin?”

“Em thử suy luận ngược lại xem. Nếu Lucy và Paul muốn giữ kín bí mật này cho riêng họ?” Gideon hỏi. “Nếu chính vì lý do đó mà họ đã đánh cắp máy đồng hồ? Nếu vậy thì họ chỉ còn cần máu của hai chúng ta – là thứ duy nhất họ còn thiếu – để vượt mặt bá tước Saint Germain.”

Tôi đợi một lát cho ngấm những lời này. Rồi tôi bảo: “Và vì chỉ có thể gặp chúng ta trong quá khứ nên họ buộc phải dụ chúng ta đến nơi nào đó để lấy máu?”

“Họ biết rằng chỉ lấy được máu của chúng ta bằng vũ lực,” Gideon nói. “Ngược lại thì chúng ta cũng biết rõ là họ sẽ không tự nguyện cho máu.”

Tôi nghĩ đến mấy người tấn công bọn tôi trong công viên Hyde hôm qua.

“Đúng thế,” Gideon cứ như đọc được suy nghĩ của tôi. “Nếu bữa trước giết được chúng ta thì họ có thể lấy bao nhiêu máu cũng được. Vậy chỉ còn phải tìm ra lý do vì sao họ biết được chúng ta sẽ có mặt ở đó.”

“Ta biết Lucy và Paul. Thực ra ta không nghĩ hai đứa sẽ làm chuyện đó,” ông George nói. “Chúng lớn lên cùng những quy định tối thượng của Đội cận vệ và chắc chắn sẽ không bảo ai giết họ hàng của mình. Cả hai đứa đều coi trọng việc thương thảo và đồng…”

“Ông đã từng biết Lucy và Paul, ông George,” Gideon bảo. “Nhưng liệu ông có thực sự biết được họ đã trở thành người như thế nào trong khoảng thời gian qua?”

Tôi hết nhìn người này lại tới người kia. “Nếu có thể thì cháu muốn biết kỵ trông đợi gì ở cháu,” tôi nói. “Và sao lại là bẫy, khi chúng ta tự chọn thời điểm gặp mặt?”

“Ta cũng nghĩ thế,” ông George nói.

Gideon thở dài chán nản. “Bàn cãi làm gì, khi đã có quyết định từ lâu.”

Madame Rossini choàng qua đầu tôi chiếc váy trắng kẻ caro chìm dài trùm mắt cá, cổ bẻ kiểu lính thủy. Eo váy thắt ruy băng lụa bóng màu xanh da trời, cùng loại vải với chiếc nơ trang điểm trên cổ áo, đính liền với hàng cúc.

Tôi hơi thất vọng khi ngắm mình trong gương. Trông tôi rất ngoan ngoãn. Bộ cánh gợi nhớ đến trang phục của những bõ già ở nhà thờ St. Luke, nơi nhà tôi thỉnh thoảng tới dự lễ Chúa nhật.

“Thời trang năm 1912 đương nhiên không thể đem so sánh với sự cực đoạn thời Rococo,” Madame Rossini đưa cho tôi đôi ủng cài khuy. “Ta cho rằng người ta muốn che bớt hơn là phô ra những nét quyến rũ của người phụ nữ.”

“Cháu cũng thấy vậy.”

“Bây giờ làm tóc,” Madame Rossini ấn nhẹ tôi xuống ghế, rẽ một đường ngôi lệch thật sắc rồi kẹp thành từng lọn ra phía gáy.

“Trông có vẻ, à, ừm, hơi phồng trên tai, phải không ạ?”

“Kiểu của nó thế,” Madame Rossini bảo.

“Nhưng cháu thấy nó không hợp với cháu, bà nghĩ sao ạ?”

“Cháu thì kiểu gì cũng hợp, thiên nga cao cổ bé nhỏ của ta. Vả lại đây không phải cuộc thi hoa hậu. Vấn đề ở đây là…”

“…tính nguyên bản. Cháu biết.”

Madame Rossini bật cười. “Thế thì tốt.”

Lần này bác sĩ White tới đón tôi xuống hầm giấu máy đồng hồ. Như mọi khi, mặt ông khó đăm đăm, bù lại thì hồn ma nhí Robert rạng rỡ nhìn tôi.

Tôi tươi cười nhìn lại. Thằng cu thật đáng yêu với những lọn tóc vàng và cặp má lúm. “Chào em!”

“Chào chị Gwendolyn,” Robert đáp.

“Không có lý do gì để hân hoan mừng ngày gặp mặt đến thế đâu, “bác sĩ White vung vẩy dải băng đen bịt mắt.

“Ôi không, việc gì phải lặp lại trò này?”

“Không có lý do gì để tin cô được,” bác sĩ White nói.

“Hừ, đưa đây cho tôi, khiếm nhã vừa vừa thôi chứ!” Madame Rossini giật phăng dải băng đen từ tay ông ta. “Lần này tôi không cho phép ai phá hỏng kiểu tóc.”

Đích thân Madame Rossini thận trọng buộc dải băng bịt mắt. Không một sợi tóc nào bị xô lệch.

“Chúc cô bé may mắn,” bà nói khi bác sĩ White dẫn tôi đi ra. Tôi vẫy tay tạm biệt trong bóng tối. Lại cảm giác khó chịu khi mò mẫm bước vào khoảng không. Tuy nhiên quãng đường dần dần trở nên quen thuộc. Và lần này đã có Robert luôn miệng nhắc nhở trước. “Còn hai bậc nữa, bây giờ rẽ trái, đi vào cửa bí mật. Cẩn thận kẻo vấp phải ngưỡng cửa. Còn mười bước nữa là tới cầu thang lớn.”

“Cảm ơn, thật là một dịch vụ tuyệt vời.”

“Đừng mỉa mai,” bác sĩ White đáp.

“Sao chị nghe được em, còn bố thì không?” giọng Robert buồn bã.

“Đáng tiếc là chị cũng không biết,” lòng tôi dạt dào thương cảm. “Em có muốn nhắn gì cho bố không?”

Robert không nói gì.

Bác sĩ White bảo: “Glenda Montrose nói đúng. Cô là người ưa độc thoại.”

Tôi đưa tay lần mò dọc bờ tường. “À, tôi biết hõm tường này. Bây giờ sẽ có giật cấp, à đây rồi, và hai tư bước nữa thì rẽ phải.”

“Cô đếm bước chân!”

“Cho đỡ ngán thôi. Bác sĩ White, sao ông lại đa nghi đến thế?”

“Ồ, ta có đa nghi đâu. Ta tin cô mà. Cho tới lúc này. Vì hiện tại cô vẫn khá lành, cùng lắm chỉ bị kích động bởi những ý tưởng chọc ngoáy của mẹ cô. Nhưng không ai biết là cô sẽ ra sao. Vì thế ta không muốn cô biết đường tới chỗ cất giấu máy đồng hồ.”

“Cái hầm này cũng đâu quá lớn,” tôi nói.

“Cô thì biết gì,” bác sĩ White nói. “Khối người mất tích ở đây rồi đấy.”

“Thật à?”

“Ừ.” Trong giọng ông ta thoáng tiếng cười, tôi biết ông ta đang đùa. “Có người đi lạc mất mấy ngày mới tìm được đường ra.”

“Em ước gì nói được với bố là em rất ân hận,” Robert nói. Có lẽ cậu nhóc đã phải suy nghĩ rất lâu về điều này.

Thằng bé tội nghiệp. Tôi thực chỉ muốn dừng lại và ôm lấy nó. “Nhưng đó đâu phải lỗi.”

“Cô có chắc không?” Bác sĩ White tưởng tôi vẫn đang nói về những người bị lạc trong hầm.

Robert sụt sịt. “Sáng hôm đó, em và bố cãi nhau. Em bảo em ghét bố và ước có một người bố khác.”

“Nhưng có lẽ bố em không coi đó là những lời thật lòng. Chắc chắn là không.”

“Có đấy, bố nghĩ thế. Và giờ bố nghĩ là em không yêu bố, mà em lại không thể nào nói được với bố nữa.” Giọng nói trong vắt giờ run rẩy, vò nát tim tôi.

“Vì vậy mà em vẫn còn ở đây?”

“Em không muốn để bố một mình. Tuy không nhìn và nghe thấy em, nhưng có thể bố cảm nhận được là em đang ở cạnh bố.”

“Ôi cưng.” Giờ thì tôi không thể nào chịu được nữa và phải dừng chân. “Bất cứ người bố nào cũng biết rằng trẻ con đôi khi nói những điều mà chúng không nghĩ thế.”

“Đúng vậy,” giọng bác sĩ White đột nhiên nghèn nghẹn. “Nếu ta ra lệnh cấm trẻ con xem ti vi suốt hai ngày trời chỉ vì chúng để phơi xe đạp dưới mưa, thì cũng không cần phải ngạc nhiên khi chúng gào lên và nói những điều chúng không nghĩ thế.”

Ông đẩy tôi đi tiếp.

“Cháu thật vui khi nghe ông nói vậy, bác sĩ White.”

“Cả em nữa!” Robert bảo.

Suốt quãng đường còn lại, cả tôi và Robert đều rất vui. Một cánh cửa nặng nề mở ra, rồi khép lại sau lưng chúng tôi.

Khi chiếc băng bịt mắt được mở ra, hình ảnh đầu tiên tôi trông thấy là Gideon đội mũ hình trụ. Ngay lập tức tôi cười phá lên. Ha ha! Lần này đến lượt hắn làm kẻ dở hơi đội mũ!

“Hôm nay cô bé rất phấn khích,” bác sĩ White bảo. “Nhờ những cuộc độc thoại dài.” Giọng ông không cay nghiệt như mọi khi.

Ông Villiers cũng bật cười cùng tôi. “Ta thấy buồn cười, trông cứ như giám đốc rạp xiếc.”

“Mọi người thấy vui là tốt,” Gideon bảo.

Trừ cái mũ hình trụ ta thì trông hắn khá bảnh. Quần dài đen, áo đuôi tôm đen, sơ mi trắng – trông gần như sắp tới đám cưới. Hắn quan sát tôi từ đầu tới chân, còn tôi căng thẳng nín thở chờ cú trả đũa. Nếu là hắn, ngay lập tức tôi sẽ nghĩ ra cả chục câu chế nhạo trang phục của mình.

Nhưng hắn không nói gì, chỉ nhếch mép cười.

Ông George bận rộn với máu đồng hồ. “Gwendolyn đã được căn dặn kỹ rồi chứ?”

“Tôi nghĩ vậy,” ông Villiers nói. Ông ấy đã nói với tôi cả nửa tiếng đồng hồ về “Chiến dịch Ngọc thạch”, trong khi Madame Rossini chuẩn bị trang phục. Chiến dịch Ngọc thạch! Cứ như tôi là nữ đặc vụ Emma Peel. Leslie và tôi rất thích bộ phim Cô dâu báo thù có Uma Thurman đóng.

Tôi vẫn không sao hiểu nổi lý do khiến Gideon khăng khăng nghĩ bọn tôi có thể bị giăng bẫy. Tuy kỵ Margaret Tilney muốn nói chuyện với tôi, nhưng kỵ đâu nêu thời điểm. Ngay cả khi kỵ định dụ tôi vào bẫy thì kỵ cũng không thể biết bọn tôi sẽ xuất hiện vào ngày giờ nào trong cuộc đời kỵ.

Và khả năng Lucy và Paul rình được chính xác thời điểm gặp bọn tôi là cực kỳ mong manh. Tháng Sáu năm 1912 được chọn ra một cách ngẫu nhiên. Khi đó, kỵ Margaret Tilney 35 tuổi, sống cùng chồng và ba con trong một ngôi nhà ở Belgravia. Bọn tôi sẽ tới thăm kỵ chính tại đó.

Tôi ngẩng lên và trông thấy ánh mắt Gideon đang nhìn mình chằm chằm. Nói chính xác hơn là nhìn vào khe áo ngực. Đồ đểu!

“Này, anh nhìn gì ngực tôi?” tôi nghiến răng giận dữ.

Hắn cười và khẽ đáp: “Không hẳn.”

Đột nhiên tôi hiểu ra ý hắn. Thời Rococo dễ giấu đồ dưới lớp đăng ten hơn nhiều, tôi nghĩ.

Tiếc là cả ông George cũng đã chú ý tới bọn tôi.

Ông rướn người ra nhìn. “Có phải điện thoại di động không?” ông hỏi. “Nhưng cháu không được đem theo đồ vật của thời chúng ta về quá khứ!”

“Sao lại không ạ? Biết đâu chúng sẽ rất có lợi!” (Ảnh chụp Rakoczy và huân tước Brompton quả thực rất chuẩn!) “Nếu lần trước Gideon đem theo một khẩu súng tử tế thì mọi chuyện đã đơn giản hơn rất nhiều.”

Gideon lắc đầu ngán ngẩm.

“Thử hình dung xem, cháu làm mất chiếc điện thoại di động này ở quá khứ,” ông Villiers nói. “Có thể người nhặt được không biết đó là gì. Nhưng cũng có thể họ biết. Lúc đó chiếc điện thoại của cháu sẽ làm thay đổi tương lai. Hoặc một khẩu súng! Không tưởng tượng nổi hậu quả ra sao, nếu nhân loại nảy ra ý nghĩ sử dụng vũ khí tinh nhuệ sớm hơn thời điểm thực ra đã là quá sớm.”

“Ngoài ra, những vật này còn là bằng chứng về sự tồn tại cảu các người và của chúng ta,” bác sĩ White nói. “Chỉ cần một bất cẩn nhỏ cũng có thể làm thay đổi tất cả, và như vậy làm nguy hại tới tính liên hoàn.”

/

Tôi cắn môi. Ví dụ tôi làm mất lọ xịt hơi cay ở thế kỷ 18 thì tương lai có thể thay đổi ra sao. Biết đâu sẽ theo hướng tích cực, nếu rơi vào tay đúng người…

Ông George chìa tay: “Để ta giữ nó.”

Tôi thở dài moi chiếc điện thoại trong ngực áo ra và đặt vào tay ông. “Nhưng sau đó phải trả lại cho cháu ngay đấy!”

“Xong chưa?” Bác sĩ White hỏi. “Máy đồng hồ đã sẵn sàng.”

Tôi đã sẵn sàng. Hơi nhộn nhạo trong bụng. Và phải thú thực rằng tôi thích chuyện này hơn phải ngồi lì trong tầng hầm ở một năm chán ngấy nào đó để làm bài tập về nhà.

Gideon nhìn tôi dò xét. Có lẽ hắn đang đoán xem tôi còn có thể giấu gì trong người. Tôi ngây thơ nhìn lại – lần sau tôi mới đem lọ xịt cay theo. Tiếc thật.

“Sẵn sàng chưa, Gwendolyn?” cuối cùng hắn hỏi.

Tôi mỉm cười. “Sẵn sàng, nếu anh cũng vậy.”

*******************************

“Thời thế đảo điên! Những số phận đáng nguyền rủa! Phải chăng ta sinh ra là để dẹp yên mọi sự bất bằng!”

William Shakespeare, Hamlet