Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 7 - Chương 22: Chốn thanh tịnh hương thầm ngào ngạt[26]

[26]

Trích Giá cô thiên - Quế hoa, Lý Thanh Chiếu. Nguyên văn Hán Việt: Tình sơ tích

viễn chích hương lưu - ND.

Ngày mùng Bảy tháng Tám năm Càn Nguyên thứ

hai mươi ba, Huyền Lăng hạ chỉ đại phong cho toàn thể lục cung, sắc phong Đoan

Phi Tề Nguyệt Tân làm Đoan Quý phi, Kính Phi Phùng Nhược Chiêu làm Đức phi, Mẫn

Phi Hồ Uẩn Dung làm Trang Mẫn Phu nhân, Chiêu dung Lữ Doanh Phong làm Hân Phi,

Chiêu viện An Ly Dung làm Ly Phi, Thục dung Từ Yến Nghi làm Trinh Phi, Tiệp dư

Chu Bội làm Khánh Quý tần, Dung hoa Lưu Lệnh Nhàn làm Thận Quý tần, Tiệp dư

Triệu Tiên Huệ làm Vận Quý tần, Phúc Tần Lê Oanh làm Phúc Quý tần, Mục Tần Uông

Hiên Anh làm Phân nghi, Tiểu nghi Diệp Lan Y làm Diễm Tần, Dư Dung Quý nhân Vinh

Xích Thược làm Vinh Tần, Xuân Quý nhân La Tích Tích làm Xuân Tần, Hủ Quý nhân

Chúc Hàm Chỉ làm Hủ Tần, Anh Quý nhân Giang Thấm Thủy làm Anh Tần, Khang Quý

tần Sử Di Vân làm Lương đệ, Mục Quý nhân Cảnh Thu làm Lương viện, Tài nhân

Nghiêm Trí Tú làm Lân Quý nhân.

Ngày Mười bảy tháng Tám lại có chiếu chỉ

ban xuống truy phong Đức phi Thẩm My Trang làm Huệ Nghi Quý phi, Cẩn Phi Thang

Tĩnh Ngôn làm Cung Cẩn Hiền phi, Thuần Tần Phương Thuần Ý làm Thuần Mẫn Phi,

Tương Quý tần Tào Cầm Mặc làm Tương Mục Phi, Thụy Tần Lạc Lâm Chân làm Chiêu

Tiết Phi, Thuận Tuyển thị Mộ Dung Thế Lan làm Thuận Thành Quý tần, thứ nhân

Dương Mộng Sinh làm Cung Tĩnh Quý tần.

Trong chỉ dụ có nói rõ đại quyền hiệp trợ

quản lý lục cung được giao cho mấy phi tần có địa vị cao nhất là Đoan Quý phi

Tề thị, tôi và Đức phi, nhưng Đoan Quý phi xưa nay vốn sức yếu nhiều bệnh nên

vừa nghe thánh chỉ xong liền lập tức cất lời thoái thác. Tôi đành đích thân tới

Phi Hương điện gặp mặt nàng ta, tha thiết khẩn cầu: “Xin tỷ tỷ hãy thương lấy

muội, ngày đó Hoàng thượng để muội hiệp trợ quản lý lục cung, muội dù cẩn thận

thế nào cũng vẫn không tránh được bị người ta ám hại. Tỷ tỷ còn nhớ việc về

chiếc áo của Hồ Uẩn Dung không? Chỉ xảy ra một chút là có người đã khép muội

vào tội không biết ước thúc rồi. Tỷ tỷ vào cung nhiều năm rất có uy vọng, Đức

phi tỷ tỷ thì được lòng mọi người, nếu tỷ tỷ và Đức phi tỷ tỷ đều đồng lòng với

muội, chúng ta hẳn có thể nương tựa vào nhau, bằng không bất kể là ai cũng khó

mà tránh khỏi mưu đồ hãm hại của người khác.”

Giờ đây Đức phi đã trở thành quý phi, địa

vị đứng hàng thứ nhất trong các phi tần, ngay đến Ôn Nghi Công chúa mà nàng ta

nuôi nấng cũng nhảy vọt lên trở thành vị công chúa tôn quý nhất. Đoan Quý phi

nghe tôi nói xong liền vừa vuốt ve Ôn Nghi vừa trầm tư suy nghĩ, cuối cùng cũng

khẽ gật đầu.

Đại lễ tấn phong cho các phi tần được cử

hành trong Thái miếu, kéo dài suốt ba canh giờ. Trong triều Càn Nguyên, đây mới

là lần thứ hai có chuyện đại phong cho toàn thể lục cung như thế, lần đầu tiên

là vào dịp đại hôn giữa Huyền Lăng và Thuần Nguyên Hoàng hậu. Trong dịp này,

gần như tất cả các phi tần từng được sủng hạnh trong năm Càn Nguyên thứ hai

mươi ba đều được tấn phong, toàn thể hậu cung ngợp trong không khí vui mừng náo

nhiệt, các vở kịch trên Thính Tiên đài ở Thượng Lâm uyển kéo dài suốt ba ngày

ba đêm, các cung thì cũng tưng bừng ca múa.

Ly Phi An Ly Dung không được phép tham dự

buổi đại lễ sắc phong hôm đó, nguyên nhân tất nhiên là do Hoàng hậu suy nghĩ

tới cái thai trong bụng nàng ta. Thời tiết dịp này đang nóng, trong Thái miếu

có quá nhiều người, Ly Phi đã mang thai hơn bốn tháng quả thực không tiện góp

mặt, do đó cái danh xưng Ly Phi của nàng ta không tránh khỏi có chút hữu danh

vô thực. Thế nhưng Hoàng hậu cũng lập tức an ủi nàng ta, rằng chờ khi sinh nở

xong xuôi nàng ta sẽ được phong làm phu nhân, đâu cần lo cái việc nhất thời.

Lời của Hoàng hậu tất nhiên là có lý. Chẳng

hạn như lúc tôi đưa danh sách phi tần chuẩn bị được tấn phong cho nàng ta, nàng

ta liền đề nghị phong Tiệp dư Triệu thị làm quý tần, tôi không hề tỏ ý phản

đối.

Mà điều đáng chú ý là trong buổi lễ truy

phong được tổ chức sau đó ít ngày, theo sự diệt vong của nhà họ Quản và sự phục

hưng của nhà họ Chân, Thụy Tần Lạc thị vốn tự vẫn mà chết cũng được truy phong

làm phi, thụy hiệu là Chiêu Tiết. Đây kỳ thực cũng là điều trong tình lý, nhưng

việc Dương Mộng Sinh vốn đã bị phế làm thứ nhân được Thái hậu đề nghị truy

phong làm Cung Tĩnh Quý tần thì thật chẳng khác nào một cái tát nảy lửa vào mặt

An Ly Dung, bởi nó hoàn toàn phủ định kết luận khi xưa rằng nàng ta nhiều năm

không thể có thai là do bị Dương Phương nghi hãm hại. Trên thực tế, lần đó khi

biết việc Dương Phương nghi nuốt vàng tự sát, Huyền Lăng cũng tỏ ra thương cảm.

An Ly Dung sau khi biết tin thì lập tức cảm thấy bất an vô cùng.

Khi tới thỉnh an Thái hậu, tôi đã từng rất

nhiều lần nhìn thấy An Ly Dung đứng buông thõng hai tay bên ngoài hành lang của

Di Ninh cung, sắc mặt cung kính chờ được bái kiến. Cái bụng của nàng ta lúc này

đã nhô hẳn lên, Bảo Quyên và Bảo Oanh mỗi người đứng một bên dìu đỡ, lại càng

khiến nàng ta trông có vẻ yếu ớt, đáng thương hơn.

Thái hậu dường như không hề để tâm tới đứa

bé sắp chào đời trong bụng Ly Phi, thường xuyên bắt nàng ta phải chờ cả nửa

canh giờ rồi mới sai cung nữ ra bảo: “Thái hậu phải nghỉ ngơi, hôm nay không có

thời gian rảnh.” Trong quãng thời gian đó, sự thương yêu mà Thái hậu dành cho

tứ Hoàng tử Dư Nhuận lại càng thể hiện ra rõ ràng. “Ai gia đã có bốn đứa cháu

hiếu thảo rồi. Huệ Nghi Quý phi đi sớm, ai gia chỉ đành thương yêu đứa cháu này

hơn thôi.”

Chuyện như thế lại càng khiến các phi tần

thêm khinh miệt Ly Phi vốn đã hữu danh vô thực, chỉ sau một đêm trong hậu cung

đã có rất nhiều hoàng oanh được nuôi, chủ đề chính của mọi người trong mỗi lần

họp mặt cũng thường là con hoàng oanh mà mình nuôi bây giờ đã ra sao rồi.

“Nó cứ hót suốt ngày, giọng nghe hay lắm,

hệt như tiếng hát của Ly Phi vậy.”

“Tỷ tỷ quên rồi ư? Ly Phi giờ đã không thể

hát nữa rồi.”

“Ha ha, biết nhảy múa cũng được mà, nhìn

xem con hoàng oanh của ta đập cánh nhảy tưng tưng hay không này.”

“Tỷ tỷ lại quên rồi, bây giờ cô ta đang

mang thai, làm sao mà nhảy múa được nữa.”

Đương nhiên bọn họ chỉ lén lút nói ra những

lời này, không để truyền tới tai Huyền Lăng bao giờ. Có một lần, y hỏi tại sao

trong cung bây giờ lại có nhiều hoàng oanh đến thế, Khánh Quý tần liền che

miệng cười, đáp: “Bọn thần thiếp đều vô cùng ngưỡng mộ Ly Phi nương nương có

phúc mang được thai rồng, do đó mới nuôi hoàng oanh nhằm mong cũng được như

thế.”

An Ly Dung ngày càng u uất, điều duy nhất

khiến nàng ta vui mừng là phụ thân của nàng ta - An Bỉ Hòe rốt cuộc cũng đã

được Huyền Lăng tha tội, ban cho ngàn lạng vàng về quê dưỡng lão.

Mà khiến người ta bất ngờ nhất vẫn phải kể

đến việc truy phong cho Mộ Dung Thế Lan. Tôi vẫn luôn cho rằng Huyền Lăng chẳng

có tình cảm gì với nàng ta, nhưng rồi hôm đó, trong cung của tôi khi nói tới

cuộc vui ở Quan Võ đài, y đã lộ vẻ ngơ ngẩn. “Phong thái của Ngọc Nhiêu khi

cưỡi ngựa bắn cung rất giống với Thế Lan hồi mới vào cung.” Sau khi Mộ Dung Thế

Lan chết, đây là lần đầu tiên y nhắc tới nàng ta trước mặt tôi như thế. “Khi đó

nàng ấy mới mười bảy tuổi, rất bạo dạn, cũng rất ngây thơ, đáng yêu, hệt như

một bông hồng vậy, kiều diễm nhưng nhiều gai.”

Lúc đó tôi và Huyền Lăng cùng ngồi ngoài

sân hóng mát, tôi vừa phe phẩy chiếc quạt tròn trong tay vừa khẽ cười, nói:

“Nghe nói năm xưa Mộ Dung thị cũng từng đua ngựa với Hoàng thượng, như thế bộ

dạng của Dư Dung Quý nhân khi cưỡi ngựa lẽ ra phải giống nàng ta hơn chứ nhỉ?”

“Quả thực rất giống.” Huyền Lăng đưa mắt

nhìn tôi. “Hoàn Hoàn, nếu trẫm truy phong cho nàng ấy, nàng sẽ không phản đối

chứ?”

Y hỏi như vậy, trong lòng hiển nhiên đã có

dự tính rồi. Có điều Mộ Dung Thế Lan tuy độc ác nhưng chuyện dù gì cũng đã trôi

qua nhiều năm, hơn nữa tôi cũng có chỗ trách nhầm nàng ta, thế là khẽ gật đầu.

“Người chết thì đã chết rồi, thần thiếp cũng không muốn nhớ mãi ân oán năm xưa

làm gì, việc này xin tùy Hoàng thượng quyết định.”

Một làn gió thổi tới khiến mấy sợi tóc rối

của y nhè nhẹ tung bay, y dõi mắt nhìn về phía xa, trong mắt thấp thoáng mấy

tia tang thương dâu bể. “Trẫm còn muốn ban cho Dư Dung Quý nhân ngôi tần nữa.”

Tôi thoáng trầm ngâm, rất nhanh sau đó đã

cười, nói: “Tuy theo tổ chế thì tấn phong cho cung nữ phải theo từng cấp, nhưng

nếu Hoàng thượng thích thì thỉnh thoảng phá lệ một lần cũng không sao cả.”

Trên trời, vầng trăng dìu dịu treo cao,

xung quanh là vô vàn vì sao lấp lánh. Hồ nước trước Nhu Nghi điện sóng gợn dập

dềnh, bốn phía xung quanh đều tĩnh lặng, ngay đến lòng người cũng theo đó mà

trở nên sáng trong hơn mấy phần. Y khẽ vuốt ve mái tóc dài buông xõa của tôi,

nói: “Nàng có thể thông cảm được như vậy thì tốt quá rồi. Dung Nhi không được

lòng mẫu hậu, thành ra Dung Nhi buồn bã, mẫu hậu khó chịu, mà trẫm cũng phiền

muộn vô cùng.”

Sau khi sự náo nhiệt của buổi lễ sắc phong

qua đi, tôi rốt cuộc đã tìm được thời gian rảnh rỗi để triệu Vệ Lâm tới gặp

mặt. Lúc này đang là cuối hạ, rất nhiều loài hoa mùa hạ ngoài vườn dường như

biết rằng thời của mình sắp hết nên cố hết sức nở rộ đẹp tươi, còn tỏa hương

nồng nàn như muốn níu giữ thời gian.

Tôi lúc này đang ngồi trước giá thêu cẩn

thận thêu bức hình Điêu Thuyền bái nguyệt lên một tấm vải đã được căng ra thẳng

tắp, mỗi lần cây kim thêu đâm xuyên qua tấm vải thậm chí còn có thể nghe thấy

một tiếng “xoạt” nhè nhẹ. Tôi chẳng buồn ngẩng đầu, hờ hững nói: “Bản cung

triệu đại nhân tới là muốn hỏi một câu này, thai khí của Ly Phi có thật sự ổn

định không?”

Vệ Lâm đáp: “Phải vọng văn vấn khiến thì

mới có thể phán đoán chuẩn xác được, ngày đó vi thần theo nương nương tới Cảnh

Xuân điện mới chỉ được vọng văn, vậy nên đáp án đưa ra chưa chắc đã đúng.”

Tôi cười, nói: “Vệ thái y tâm tư kín đáo,

biết rõ bản cung sau khi đưa ngài qua đó ắt sẽ hỏi câu này, chắc sẽ không bao

giờ nói với bản cung một đáp án tưởng như đúng mà lại sai đâu.”

Vệ Lâm khẽ lắc đầu, nói: “Đúng như nương

nương mong muốn, đứa bé của Ly Phi sợ là không cách nào sinh ra được.”

Tôi mỉm cười ngẩng đầu lên, bên khóe môi lộ

ra một tia dữ dằn. “Bản cung chẳng qua chỉ tùy tiện hỏi một câu thế thôi, sao

đại nhân đã biết rằng bản cung không mong Ly Phi sinh đứa bé đó ra? Đại nhân

nên biết vu cáo bản cung không phải là tội nhỏ đâu.”

Vệ Lâm cười nhạt một tiếng, trong mắt

thoáng qua một tia sáng rực. “Người bắt mạch cho Ly Phi là Hứa thái y đã báo

rằng thai tượng ổn định, nếu nương nương tin vào điều này thì đã chẳng gọi vi

thần đến hỏi rồi.”

Tôi bất giác bật cười, chỉ tay vào chiếc

ghế bên cạnh. “Ngồi xuống nói chuyện đi.” Tôi ngừng công việc trên tay lại,

chậm rãi nói: “Đại nhân đã biết mong muốn của bản cung, vậy thì không cần nói

những lời chiều theo tâm ý của bản cung nữa, cứ nói sự thực là được rồi.”

Vệ Lâm khom người, nói: “Tranh thủ lúc

không ai để ý, vi thần đã xem qua mạch án, thấy viết là thai tượng ổn định,

phương thuốc an thai bên trên cũng là loại bình thường, thế nhưng trong số các

loại dược liệu được kê ra lại có thêm mấy vị thuốc an thai bổ khí như ngải

diệp, hoàng cầm, trữ ma căn và bạch truật.”

Nơi đáy lòng tôi bất giác sinh ra một tia

mừng rỡ, ngoài mặt thì lại làm ra vẻ kinh ngạc. “Mấy thứ khác thì bản cung

không biết nhưng ngải diệp vốn dùng để ôn kinh chỉ huyết, không đến lúc thiết

yếu thì quyết không thể dùng được.”

“Nương nương nói không sai. Ngày đó trong

Cảnh Xuân điện của Ly Phi, vi thần đã thấy có dấu vết của việc xông ngải diệp

rồi, tuy bọn họ có đốt hương hòng át thứ mùi ấy đi nhưng vi thần tin rằng mình

quyết không ngửi nhầm. Ly Phi mới mang thai bốn tháng mà đã phải dùng ngải

diệp, qua đó đủ thấy đã có triệu chứng xuất huyết. Ngoài ra hoàng cầm và trữ ma

căn đều được dùng để chỉ huyết giải độc, bạch truật thì có công dụng bổ khí,

kiện tỳ, chỉ hãn, chỉ từ mấy loại thuốc này là đủ biết Ly Phi khí huyết hư tổn,

thai tượng rất không ổn định. Bây giờ khí sắc của Ly Phi còn tốt như thế hoàn

toàn là nhờ có mấy vị thuốc kia đề thần, cơ thể thực chất đã hư hao rất nặng,

thêm vào đó thời gian gần đây tâm trạng của cô ta lại không được tốt, chỉ e

càng về sau thai nhi sẽ càng nguy hiểm, gần như không thể kéo dài đến ngày sinh

nở được.” Y hơi cúi về phía trước, hạ thấp giọng nói: “Thể chất của Ly Phi rất

yếu, lại có hiện tương bị xạ hương xâm nhập vào người, vốn không dễ gì thụ

thai. Chẳng biết cô ta đã dùng cách gì mà mang thai được như bây giờ, thế nhưng

đứa bé đó có tám, chín phần mười là không giữ được.”

Tôi cầm chén trà tới khẽ nhấp một ngụm,

cười nói: “Việc trên đời vốn thường khó đoán, không phải Vệ thái y cũng cho

rằng đứa bé đó còn một, hai phần mười khả năng giữ được ư? Hiện giờ Ly Phi là

khối thịt trong lòng Hoàng thượng, các vị thái y ắt đều phải dốc toàn lực để

giúp Ly Phi có thể sinh nở thuận lợi.”

“Nhưng...” Vệ Lâm đưa mắt liếc tôi một cái.

“Ly Phi dùng ngải diệp như thế chứng tỏ đã biết việc mình khó giữ được cái thai

này, còn Hoàng thượng thì lại chưa biết gì cả. Nếu cái thai này thật sự không

giữ được, nương nương cho rằng ai sẽ phải chịu trách nhiệm đây?”

Trái tim tôi bất giác nảy lên một cái như

bị sét đánh trúng, chỉ sau nháy mắt đã hiểu rõ nguồn cơn, mồ hôi lạnh sau lưng

tuôn ra không ngớt. Thế nhưng ngoài mặt tôi vẫn ra vẻ thản nhiên, còn khẽ nở nụ

cười điềm đạm. “Nếu cô ta tự không giữ được thì không có gì, nhưng lỡ như đụng

phải ai thì coi như người đó xui xẻo.” Tâm tư tôi bỗng thầm máy động. “Chuyện

này chỉ có hai chúng ta biết thôi, bản cung tất nhiên không phải lo bị liên can

gì cả.”

Vệ Lâm gật đầu, nói: “Chính thế, có điều

nương nương với Ly Phi nương nương xưa nay vẫn luôn thân thiết, chắc Hoàng

thượng sẽ không nghi ngờ gì nương nương đâu.”

Tôi vốn biết Vệ Lâm khôn ngoan hơn Ôn Thực

Sơ rất nhiều, nhưng cũng không ngờ y lại có đầu óc đến thế. Sau một thoáng trầm

ngâm tôi bỗng nhớ tới một việc, bèn nói với Hoa Nghi: “Đi lấy chiếc hộp sứ hoa

xanh trong ngăn kéo thứ ba bên dưới bàn trang điểm của bản cung lại đây.”

Đó là một chiếc hộp sứ to bằng ngón tay

cái, bên trong có một viên hương liệu màu hồng. Tôi đặt nó tới trước mặt Vệ

Lâm. “Ngưng Lộ hương mà ngày đó cô ta dùng trong Cảnh Xuân điện không có vấn đề

gì cả, nhưng thứ này thì bản cung lại không thể nhìn ra là gì, đại nhân hãy xem

thử một chút xem sao!”

Y đưa lên mũi ngửi kĩ một hồi, sau đó lại

dùng ngón tay bóp lấy một ít bột vụn ra nhúng vào nước ngửi tiếp. Tôi thấy thần

sắc y có vẻ nặng nề, khuôn mặt thì không biết vì cớ gì mà lại đỏ lên, trông có

vẻ rất kỳ dị. Tôi cũng làm theo y, lấy một ít hương liệu nhúng vào nước và đưa

lên mũi ngửi, lập tức cảm thấy lòng thầm ấm áp, trái tim thì đập rộn lên từng

hồi, càng lúc càng nhanh, dần dần còn cảm thấy cả thân thể đều có chút lâng

lâng hưng phấn. Tôi biết là không hay, vội vàng vẩy mạnh tay một cái vứt thứ đó

đi, quát lớn: “Cận Tịch!”

Khi Cận Tịch vội vàng chạy đến thì tôi đã

vốc nước lạnh lên hắt vào mặt mình, dần tỉnh táo trở lại. Cận Tịch lấy một khối

băng đến áp lên mặt Vệ Lâm, một hồi lâu sau y mới khôi phục lại thần sắc bình

thường, khom người áy náy nói: “Vi thần thực sơ suất quá, không ngờ thứ hương

liệu này lại ghê gớm như vậy!”

Tôi ban cho y một chén trà đắng được pha

rất đặc, nói: “Đại nhân cứ nói cho ta hay trong đó có những gì là được rồi.”

Y khẽ nhấp một ngụm trà, đôi hàng lông mày

nhíu chặt như dính cả vào nhau vì quá đắng. Mãi một hồi lâu sau y mới hơi hắng

giọng, chậm rãi nói: “Y lan, đậu khấu, sơn thù du, nhục thung dung, thanh mộc

hương, xà sàng tử, thiên gia hoa, nhũ hương, thiềm tô, mẫu lệ và viễn chí.”

Tôi không nghe ra được gì, cất giọng nghi

hoặc: “Hình như là các vị thuốc thì phải?”

Y gật đầu, nói: “Nếu chia riêng rẽ chúng ra

thì chỉ là các loại dược liệu bình thường, nhưng nếu trộn lẫn tất thảy vào thì

sẽ hữu hiệu với cả nam và nữ...”

Y không nói tiếp nữa nhưng tôi cũng đã biết

đây là thứ gì, bất giác đỏ bừng hai má, bèn hỏi: “Thứ này sao mới chỉ nhúng một

ít vào nước mà đã có công hiệu ghê gớm như vậy?”

Vệ Lâm nói: “Bên trong đó, chỉ riêng y lan

và xà sàng tử đã có hàm lượng rất cao rồi, mà đây vốn là một loại hương liệu,

nếu mang đi đốt, dược tính chỉ e sẽ còn mạnh hơn, do đó thường thì khi sử dụng

chỉ cần đem trộn một ít vào các loại hương liệu khác là cũng đủ rồi, ngoài ra

làm như thế người khác còn không dễ gì phát hiện ra được.”

Tôi thầm máy động trong lòng, bỗng nghĩ tới

một việc, bèn hỏi: “Hoa y lan vốn đã có công hiệu khiến người ta động dục rồi,

nếu kết hợp với Nga lê trướng trung hương thì sẽ ra sao?”

“Cũng cùng công hiệu, chỉ là không thể bằng

được loại hương này. Bởi lẽ hoa y lan dù sao cũng chỉ là hoa cỏ, còn y lan

trong loại hương này thì đã được tinh luyện rồi. Nương nương thử nghĩ mà xem,

hoa y lan không phải mùa nào cũng có, nhưng đã có loại hương này rồi thì không

còn phải âu lo gì nữa.”

Tôi gật đầu, nói: “Vậy được rồi, bản cung

đã rõ, đại nhân cứ về trước đi, có gì bản cung sẽ cho truyền.”

Mấy ngày tiếp đó thời tiết vô cùng nóng

nực, đêm đến thì lại có gió lạnh hoặc mưa rào, sau mấy phen nóng lạnh thất

thường, tôi rốt cuộc đã bị nhiễm phong hàn phải nằm giường không dậy nổi. Cơn

bệnh này kéo dài mãi mà vẫn không có dấu hiệu khỏi khiến tôi ngày càng tiều

tụy. Các phi tần lục tục tới thỉnh an nhưng tôi chẳng có sức để gặp, cuối cùng

đành dứt khoát không gặp ai hết, giao mọi sự vụ trong cung cho Đức phi quản lý,

bản thân thì tĩnh tâm dưỡng bệnh. Huyền Lăng thương tôi vô cùng, mỗi ngày đều

tới Nhu Nghi điện hai lần sáng tối, ngay đến thuốc cũng tự tay bón cho tôi từng

thìa.

Sáng hôm ấy thức dậy, tôi thấy tinh thần

tốt hơn một chút, vừa khéo lúc này Huyền Lăng cũng tới chỗ tôi sau khi vừa tan

buổi chầu sớm, hai chúng tôi liền tán gẫu về những chuyện xảy ra trong thời

gian vừa rồi. Dưới ánh ban mai đẹp như tranh vẽ, chúng tôi ngồi mặt đối mặt,

thực cũng có mấy phần dáng vẻ của một cặp phu thê tương thân tương ái.

Hoa Nghi vén rèm đi vào, dâng lên một bát

cháo trắng thanh đạm, lại cho thêm mấy lát gừng tím lên trên.

Huyền Lăng đón lấy bát cháo, cất giọng trìu

mến: “Để trẫm bón cho nàng.”

Hoa Nghi đứng thõng tay một bên, nói:

“Nương nương, Ly Phi nương nương tới thỉnh an.”

Huyền Lăng tiện miệng nói: “Gọi nàng ta vào

đây đi.”

Hoa Nghi thoáng có chút do dự. “Ly Phi

nương nương đã tới mấy ngày rồi nhưng nương nương đều không gặp.”

Huyền Lăng lộ vẻ không vui, ngoảnh đầu qua

hỏi Hoa Nghi: “Ly Phi ngày nào cũng tới đây thỉnh an ư?”

Hoa Nghi bối rối không biết phải làm sao,

rất nhanh sau đó đã thành thực trả lời: “Dạ phải, mỗi buổi sáng đều tới, có

điều nương nương không gặp lần nào.”

Huyền Lăng đặt bát cháo xuống chiếc bàn nhỏ

bên cạnh, nói với tôi: “Dung Nhi giờ đang mang thai, sao nàng lại để nàng ấy

đứng bên ngoài mà không cho vào như thế?”

Tôi ngoảnh mặt qua một bên. “Thần thiếp quả

thực không muốn gặp muội ấy.”

Bầu không khí đông cứng trong khoảnh khắc,

y khẽ gọi tôi: “Thục phi.” Trong tiếng gọi ấy đã thấp thoáng mang theo một tia

tức giận. Tôi lúc này không trang điểm, thêm vào đó lại đang ốm nên gầy rộc đi,

khuôn mặt rơm rớm nước mắt trông thật đáng thương. “Hoàng thượng cũng nghĩ là

thần thiếp nên gặp An muội muội ư? Thần thiếp còn chưa khỏi bệnh phong hàn, nếu

gặp muội ấy rồi, nhỡ làm tổn thương tới muội ấy và thai nhi trong bụng thì phải

làm sao? Thần thiếp thà bị Hoàng thượng trách móc chứ quyết không dám sơ sảy.”

Huyền Lăng dãn hẳn đôi mày, mỉm cười, nói: “Trẫm

biết mà, nàng với Ly Phi xưa nay vẫn luôn thân thiết với nhau, sao có thể không

để ý tới nàng ấy giống như mẫu hậu được.”

Tôi vừa khóc vừa cười, phỉ phui nói: “Rõ

ràng là Hoàng thượng đã cả nghĩ mà.” Sau đó lại khẽ đẩy y một cái. “An muội

muội bây giờ chắc còn đang chờ bên ngoài đấy, thần thiếp tuy có lòng suy nghĩ

cho muội ấy nhưng chưa chắc muội ấy đã hiểu. Xin phiền Hoàng thượng đưa muội ấy

về rồi nói cho muội ấy thông tỏ mọi điều, bằng không lỡ có khúc mắc gì thì thật

là không hay.”

Y nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Trẫm bón cho

nàng ăn xong rồi sẽ đi.”

Tôi nở nụ cười tươi. “An muội muội đang

mang thai làm sao chờ lâu được, Hoàng thượng mau đi đi! Muội ấy vốn đã hay cả

nghĩ, sau khi mang thai còn thường xuyên suy nghĩ vu vơ, như thế thực không có

lợi cho thai nhi chút nào. Thần thiếp vốn nên bầu bạn với muội ấy nhiều một

chút mới phải, phiền nỗi thân thể chẳng ra sao, việc này đành nhờ Hoàng thượng

vậy.” Hơi dừng một chút, tôi thoáng để lộ mấy tia buồn bã. “My Trang tỷ tỷ đi

sớm, thần thiếp rất mong An muội muội được mẹ tròn con vuông.”

Huyền Lăng hết sức vui mừng, sau một hồi

chần chừ rốt cuộc đã rời đi.

Tôi dần trầm mặt xuống, khẽ dặn dò Hoa

Nghi: “Cô ta có tới nữa ta cũng sẽ không gặp, muội mà nhìn thấy cô ta thì cứ

tránh đi thật xa là được, đừng động đến thân thể cô ta, bằng không dù có trăm

cái miệng cũng chẳng giãi bày được nỗi oan ức đâu.”

Một lát sau, Tiểu Liên Tử đi vào bẩm báo:

“Nương nương, có một cung nữ từ Cảnh Xuân điện tới đây thỉnh an.”

Tôi hơi trầm ngâm rồi đưa mắt ra hiệu, Hoa

Nghi lập tức chạy ra ngoài, rất nhanh sau đó đã vui vẻ dẫn theo một người đi

vào, cười tươi, nói: “Nương nương, Diên Vũ Nhi tới thỉnh an nương nương này.”

Tôi khẽ cười, trách: “Hoa Nghi, muội thực

không biết lớn nhỏ gì cả, không mời Diên Vũ cô nương vào đây ngồi mà cứ lôi lôi

kéo kéo người ta là thế nào.”

Diên Vũ Nhi thẹn thùng hành lễ: “Nghe nói

Thục phi nương nương bị ốm, nô tỳ Diên Vũ đặc biệt tới đây thỉnh an nương

nương.”

Tôi cười khách sáo. “Cô nương đã có lòng

rồi. Vừa rồi chủ tử của cô cũng tới, sao cô không đi cùng luôn thế?”

Diên Vũ Nhi cúi gằm mặt, cắn chặt môi,

gượng cười, nói: “Nhìn thấy Hoàng thượng cùng chủ tử đi rồi nô tỳ mới dám tới

đây.”

“Diên Vũ cô nương nói gì vậy, sao nghe cứ

như là chủ tử của cô không thích cô xuất hiện trước mặt Hoàng thượng thế?” Tôi

cười, nói: “Hoa Nghi, mang nho với sữa ra mời Diên Vũ cô nương đi!”

Hoa Nghi thè lưỡi, nói: “Dù nương nương

không nói thì nô tỳ cũng định làm vậy rồi đây.”

Diên Vũ Nhi ngạc nhiên nhìn tôi và Hoa

Nghi, cười nói: “Nương nương đối xử với Hoa Nghi tốt quá!”

Tôi mỉm cười, nói: “Các cô thường ngày hầu

hạ cũng vất vả rồi, hà tất phải bạc đãi làm gì. Chủ tử của cô vốn yếu đuối,

tính tình lại tốt, chắc đối xử với các cô cũng không tệ chút nào.”

Diên Vũ Nhi gượng cười một tiếng, cúi đầu

không nói năng gì. Hoa Nghi khẽ kéo tay cô ta, không kìm được nói: “Chẳng phải

thế đâu, Diên Vũ Nhi đã hầu hạ Hoàng thượng mấy tháng nay rồi, thế mà Ly Phi

nương nương vẫn chẳng chịu xin Hoàng thượng ân thưởng cho cô ấy. Mà không có

danh phận thì thôi cũng đành, nhưng đám tiểu cung nữ trong Cảnh Xuân điện ức

hiếp cô ấy mà Ly Phi cũng không ngăn lại.”

Tôi làm bộ giật mình, vội đứng dậy, nói:

“Không ngờ lại có chuyện như vậy ư? Hoa Nghi, muội chớ có lôi lôi kéo kéo nữa,

Diên Vũ cô nương bây giờ đã là tiểu chủ rồi, phải biết phân biệt tôn ti chứ!”

Diên Vũ Nhi vội vàng quỳ xuống, khúm núm

bất an nói: “Nương nương đừng nói như vậy, nô tỳ chỉ là một tiểu cung nữ thôi,

đâu phải tiểu chủ gì cho cam. Hoa Nghi đối xử với nô tỳ rất tốt, nếu nương

nương bắt nô tỳ với cô ấy phải phân ra kẻ trên người dưới, như thế nô tỳ thực

là tội đáng muôn chết.”

Tôi vội vàng đưa tay ra hiệu cho Hoa Nghi

đỡ cô ta dậy, cất giọng dịu dàng: “Thứ cô nương còn thiếu chỉ là danh phận mà

thôi, chứ đâu có khác gì các tiểu chủ khác. Chủ tử của cô đang mang thai nên

hay quên cũng là điều bình thường, chờ hôm nào bản cung gặp Hoàng thượng sẽ

nhắc tới việc này là được rồi. Có điều chuyện về Vinh Tần khi xưa chẳng hay cô

nương có biết không?”

Diên Vũ Nhi cúi đầu, rụt rè đáp: “Nô tỳ có

biết. Khi đó Hoàng thượng sủng ái Vinh Tần nên sắc phong vội quá, kết quả là

làm kinh động đến thai khí của Trinh Phi nương nương khiến Trinh Phi nương

nương khó sinh.”

Tôi quan sát khuôn mặt thanh tú của cô ta

một chút, khẽ cười, nói: “Cô nương đúng là có lòng, không ngờ lại biết rõ

chuyện này như vậy.”

Tôi khẽ ho hai tiếng, Hoa Nghi vội vàng

mang nước tới cho tôi, nói: “Nương nương đang ốm mà còn suy nghĩ nhiều như thế

làm gì, hãy nghỉ ngơi một chút đi đã.”

Tôi đưa tay xoa ngực, chậm rãi nói: “Không

sao. Diên Vũ cô nương, gần đây chủ tử của cô vẫn khỏe chứ?”

Cô ta hơi do dự , như vô tình như hữu ý né

tránh ánh mắt của tôi. “Vẫn ổn, chỉ là nửa đêm thỉnh thoảng lại thức giấc.”

“Bất luận Ly Phi có tốt hay không, trong

việc này cô cũng đừng nên nôn nóng quá. Bây giờ thai rồng mới là quan trọng

nhất, lỡ như chủ tử của cô có điều gì sơ sảy thì những người hầu hạ bên cạnh

như bọn cô ắt sẽ bị phạt đầu tiên, biết chưa?”

Cô ta hơi rụt người lại, ngoan ngoãn đáp:

“Dạ, nô tỳ biết rồi.”

Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài ô cửa sổ trổ hoa,

chỉ thấy bên bờ hồ, những lùm bách hợp đang nở hoa rực rỡ, dưới ánh bình minh

chiếu xuống trông lại càng thanh tao, đẹp đẽ vô cùng.

Diên Vũ Nhi nhìn đi theo hướng ánh mắt tôi,

không kìm được cất tiếng khen: “Hoa này thật là đẹp quá, không giống hoa bách

hợp bình thường chút nào.”

Hoa Nghi cất tiếng cười giòn tan, nói: “Đó

là hoa bách hợp đuôi cáo, cô nhìn nhụy hoa xem kìa, đã có màu đỏ lại còn dài và

cong cong, giống hệt như đuôi cáo vậy. Điều hiếm có là nó còn tỏa mùi hương rất

thơm và dễ sống nữa, chỉ cần là nơi có nước ắt sẽ sống được.”

Tôi thầm máy động trong lòng, khẽ cười,

nói: “Vừa rồi cô nói là chủ tử của cô đêm ngủ không ngon, mà hoa bách hợp lại

có công hiệu thanh tâm an thần, giúp người ta xua đi những cơn kinh sợ, nếu cô

thường xuyên hái nó về cắm trong điện thì ắt sẽ rất có ích cho chủ tử của cô.

Chủ tử của cô mà khỏe mạnh, Hoàng thượng ắt sẽ vui vẻ, đến lúc đó chưa biết

chừng lại ban danh phận cho cô. Cổ nhân đã dạy chúng ta rằng cầu người chẳng

bằng cầu mình, câu ấy quyết chẳng sai đâu.”

Diên Vũ Nhi ngoan ngoãn gật đầu. “Đa tạ

Thục phi nương nương dạy bảo!”