eter ngủ được một lát thì có tiếng nhạc nhẹ làm anh tỉnh dậy. Anh mở mắt thấy trần nhà màu xám được dùng làm màn ảnh để chiếu phim. Anh cố gắng lau sạch kính của máy hô hấp để theo dõi diễn biến của phim được rõ hơn. Xung quanh anh, giường nào cũng có những sinh vật giống người đang nằm. Tất cả đều thức và nhìn lên trần. Họ không đeo mặt nạ mà gỉ có một vòi thở Oxy ở mũi.
Peter vội bật chiếc máy phiên dịch và lắng nghe.
Trên màn xám hiện ra cảnh một thanh niên và một thiếu phụ, theo dự đoán của anh về lứa tuổi và giới tính của họ. Hai người mặc quần áo thể thao, mũi vẫn đeo vòi thở Oxy ngồi trên ghế dài nói chuyện tình yêu. Câu chuyện buồn tẻ kéo dài. Họ nói về ngày “Đại lễ mùa Xuân” lúc đọ họ sẽ lại ôm lấy nhau … “Em đẹp lắm” – Người đàn ông nói: “Anh tốt lắm” – Cô gái nói. Sau đó chuyển cảnh, tiếp theo là mục lời khuyên của thầy thuốc: Ta phải nhai chậm hơn thì sẽ cần dùng ít Oxy hơn. Cảnh lại chuyển nữa. Một dàn đồng ca thiếu nhi hát về ngày Đại lễ mùa Xuân. Lời hát “Chúng em muốn vui vẻ và khỏe mạnh. Chúng em muốn cầu xin được dự ngày Đại lễ mùa Xuân” Lại chuyển tiếp phim màu. Giống như một phong cảnh của Trái Đất với bầu trời xanh và cánh đồng bát ngát mơn mởn. Lúc này, những người đang nằm bị kích động đặc biệt. Nhiều người ngồi dậy và bắt đầu hát. Hình màu chỉ hiện ra có một phút rồi trở lại đen xám. Mọi người lại im lặng. Có điều là hậu cảnh của cặp đôi nam nữ yêu nhau, bác sĩ, đồng ca thiếu nhi đều là những khối bê tông vuông vức.
Lúc này các hình ảnh biến mất. Những người nằm các giường bên trở dậy và đi vào phòng vệ sinh. Peter nằm lại để suy nghĩ. Lạc có nhạc êm dịu nổi lên. Anh nhận ra tiếng nhạc cụ gió và nhạc cụ dây. Giai điệu giống hệt như lúc đầu.
Peter cố gắng tập trung suy nghĩ. Tất nhiên ta bị tai nạn sau khi sửa con tàu vũ trụ. Có thể July còn sống sót và ở đâu gần đây. Cũng có thể nàng cũng bị bắt. Ta phải lập tức đi tìm nàng. Ta không được ăn những thức ăn ở đây vì có nhiều khả năng có thuôc mê mà ta chưa hiểu rõ. Tốt nhất là ta sẽ ăn những viên thức ăn vũ trụ còn dự trữ.
Ta phải tìm cách liên lạc với July. Liên lạc trên các làn sóng thường lệ với con tàu vũ trụ và trạm không gian Fortuna 710 đều không được. Nhưng trên người nàng cũng có một máy thu phát dự phòng khi có sự cố như của ta. Tại sao nàng không tìm cách lên tiếng?
Anh thử bật nút điện đài của mình một lần nữa. Vẫn hoàn toàn im lặng.
Anh nghĩ: Có lẽ uổng công vô ích! Chắc là các làn sóng thu phát đều bị chặn. Mình phải tìm cách ra chỗ thoáng. Đi ra, ra khỏi đây ngay.
Peter rửa mặt và làm vệ sinh thật nhanh, mặc lại bộ trang phục vũ trụ mà anh vẫn nhét trong túi. Anh chạy trong trừng mực chiếc máy hô hấp của anh cho phép.
Chạy giữa dường, anh mới chợt nghĩ ra: Không có ai tới thu tiền ăn và ngủ của anh. Cũng chẳng có ai nhòm ngó anh đến một lần.
Anh lại tới quảng trường màu xám. Đó là một sân betông rộng, phẳng lỳ, ở giữa không có vòi phun nước, không có đường phố, chỉ có ghế đá và chỗ ngồi chơi cho trẻ em. Lúc này trên các ghế dài lại có người ngồi. Vẫn những người đeo vòi trước mũi và hầu hết họ xoay xoay trong tay một cái gì tròn tròn như chiếc đồng hồ quả quýt. Quảng trường khá rộng, trải dài gần như hết tầm mắt. Xung quanh có những ngôi nhà màu xám. Đó là những hộp bằng bê tông gần giống nơi anh đã ngủ. Anh phát hiện ra một điều rất kỳ lạ. Những nhà này hoàn toàn không có cửa sổ mà chỉ có cửa ra vào. Peter ra giữa quảng trường bật máy thu phát, chiếc loa vẫn câm tịt, không bắt được một đài nào, cũng như phát tín hiệu mà không được trả lời.
Anh nghĩ, ta phải leo lên một vị trí cao hơn để định hướng tốt hơn và dùng máy thu phát có hiệu quả. Anh đi liều về một phía. Đồng hồ của anh vừa chỉ giờ Trái Đất và giờ vũ trụ. Nhưng ở trên cái hành tinh quái quảy này là sáng hay chiều, là ngày hay đêm? Còn cái thứ ánh sáng ảm đạm trên hành tinh này, không biết nó nhận được từ đâu. Tất nhiên phải có một hoặc nhiều Mặt Trời nào đó. Nhưng ánh sáng Mặt Trời làm sao qua được bầu khí quyển dơ bẩn này. Phải, chỉ có cách lên được một cao điểm. Nếu càn có thể lên nóc một ngôi nhà nào đó ít người qua lại.Từ đó anh mới có thể định hướng được. Gần quảng trường có một ngôi nhà giống như cái mà anh đã ngủ đêm qua. Nhà hình hộp, tường xám nhẵn lỳ, ngay cả cửa ra vào cũng như nhau: Một khung cửa lớn, trong lắp một tấm kính mờ. Mãi tới giờ anh mới nhận thấy rằng phía trên cửa có số 3. Còn ngôi nhà kế bên, phía trên của có số 4. Chính xác hơn là trên cửa một ngôi nhà có ba vạch thẳng đứng. Còn trên cửa kế bên có 4 vạch. Anh tò mò bước vào ngôi nhà mang số 3. Ngay cửa cũng có một tiền sảnh rộng rãi, không khác với ngôi nhà có phòng ăn và phòng ngủ. Peter bước vào tiền sảnh qua một cánh cửa treo bằng tủy tinh dáng như cửa một nhà kho. Các cánh cửa treo đều mang một bảng màu trắng đục như sữa. Phía trên mỗi chiếc cửa là một ký hiệu khác nhau. Trên cửa đầu tiên tấm bảng vẽ một chiếc giầy, trên cửa thứ hai vẽ một bộ áo liền quần và cửa thứ ba mang hình một con búp bê. Peter bị cuốn theo một đám đông đang đổ xô vào cửa có hình chiếc giầy. Đó là một nhà kho hết sức rộng. Trên các giá kê thành hàng san sát nhau là những đôi giày cùng kiểu bằng da nhân tạo gần giống cao su màu xám. Trên giá, giày được xếp theo cỡ. Phía ngoài cửa là các giày vừa cỡ với Peter. Những người đi vào không ai hỏi ai điều gì. Mặt họ chẳng thể hiện nét gì quan tâm hay tò mò. Họ lấy cỡ giày phù hợp với mình trên các giá. Họ diện ngay giầy mới, vứt bỏ giày cũ vào một hố sâu ngay dưới giáy bày hàng. Xong việc, họ lại chậm rãi bước ra khỏi kho cũng như lúc họ tới. Peter dừng lại trước một giá trắng và cầm lên một đôi giày. Một tiếng chuông báo động nổi lên, anh giật mình đặt đôi giày trở lại thì nghe có tiếng loa, anh vội bật chiếc máy phiên dịch liên hành tinh và nghe lời hướng dẫn. “Không vừa cỡ chân anh. Đi quá vào dãy phía trong”
Lúc này anh mới nhận thấy có một tấm cao su màu xám chạy dọc theo các giá để giày. Những người đi tìm giày bước dọc theo tấm thảm đó và học dừng lại khi có một đèn tín hiệu nhỏ bật sáng. Tất nhiên là cỡ chân được đo ngay trên thảm nhờ một hệ thống máy tự động. Và khi một người bước tới chỗ có giày vừa cỡ chân anh ta thì máy tự động báo hiệu có thể lấy ở chỗ đó.
Peter lại tiếp tục đi, vừa đi vừa quan sát tấm cao su. Qua hai hàng tủ, đèn tín hiệu màu vàng bật lên. Peter với tay lấy một đôi giày trên tủ và đi thử. Đôi giày vừa khít. Anh liền vứt đôi giày mang theo từ Trái Đất vào chiếc hố cạnh đó. Đôi giày mới thật là hay, không những nó vừa chân mà còn đàn hồi rất êm. Anh rời khỏi kho giầy. Không ai nói với anh một lời. Cũng không ai đòi tiền giày.
Vừa tìm giày, vừa quan sát, Peter đã phí hết một giờ. Không. Đây không phải là chủ đích của anh khi vào đây. Anh cần tìm xem chỗ nào có một cầu thang có thể đưa anh lên mái bằng. Và ở đó, anh sẽ tìm cách sử dụng điện đài một lần nữa. Anh tiếp tục bước vào các cửa tiếp nhưng lại lập tức quay trở ra vì không tìm thấy chỗ nào có cầu thang. Có những chỗ, kho có nhiều tầng, ví dụ ở kho có các bộ quần áo liền quần. Các bộ quần áo được xếp cao tới ba tầng lầu. Nhưng ở đó cũng chỉ có cầu thang đi bên trong gian nhà kho và dẫn tới những tầng có giá để quần áo khác. Còn không có một lối nào đưa ra ban công hoặc sân thượng. Và cũng không chỗ nào có một chiếc cửa sổ để anh có thể mở ra và thử đứng ở đó sử dụng điện đài. Hoặc từ đó anh có thể nhìn ra xung quanh để tìm phương hướng. Trong kho, hàng hóa nhiều vô kể. Những con người (Peter tạm gọi các sinh vật có đeo vòi thở đang chen chúc chung quanh anh là những con người), họ nhận được tất cả mọi thứ mà không phải chờ đợi. Phải nói rằng chữ tất cả này có ý nghĩa chủ yếu là trang phục, quần áo lao động và quần áo lót. Không nơi nào có áo khoác ngoài và chăn. Trong một kho khác rất rông, những chiềc vòi hô hấp được xếp thành đống. Đó là những chiếc vòi hô hấp được xếp thành đống. Đó là những chiếc mặt nạ để đeo trước mũi. Tất cả đều làm theo một kiểu giống nhau và được sắp xếp theo cỡ lớn nhỏ. Kèm theo mỗi chiếc mặt nạ có hai hoặc ba chiếc khăn bằng gạc để đeo miệng. Anh đoán hẳn là khăn gạc dùng tốn hơn. Trong kho mặ nạ thở này Peter cũng nhận ra những tấm băng cao su. Nhưng ở đây nó không trải trên mặt đất mà chăng ngang tầm mặt người. Khi anh bước tới khoảng giữa kho, đèn tín hiệu bật sáng. Lần này Peter không chần chừ, cầm ngay chiếc mặt nạ trên giá gần nhất. Anh đeo thử. Nó hoàn toàn áp chặt vào mũi và mặt anh. Đồng thời, anh giật mình phát hiện ra rằng khi anh hít vào thì chiếc vòi chụp mũi này dán cặt vào mũi anh nhưng không có không khí từ ống đưa vào. Hay chiếc bình chứa có khuyết tật gì đây. Nhưng kia rồi, tiếng chuông báo động lại réo lên và chiếc máy phiên dịch liên hành tinh của anh giúp anh hiểu lời thông báo.
- Anh hãy mang máy đến trạm nạp Oxy gần nhất.
Như vậy là trong bình chứa chưa có không khí và phải đưa tới một nơi nào đó để nạp. Anh hơi mừng nghĩ rằng. Nơi người ta nạp Oxy chắc phải có văn phòng hay bàn giấy, tóm lại, một nơi phân phối. Ở đó chắc anh có thể hỏi được những điều cần thiết. Anh cố gắng lắm mới giật được chiếc mặt nạ đang làm anh sắp nghẹt tở. Anh vộ vàng đeo cheiéc mặt nạ Trái Đất của anh vào. Tất cả xảy ra chưa đầy nửa phút mà anh cảm thấy như bị nghẹt thở. Mồ hôi vã ra, nhịp tim đập dồn dập, anh phải dừng lại nghỉ trong giây lát. Anh bỏ chiếc mặt nạ mới nhận được vào túi khoác vai.
Ra khỏi kho mặt nạ, anh bước vào kho đồ chơi. Peter thấy những mô hình máy, những búp bê mặc đồng phục lao động áo liền quần và cũng đeo mặt nạ. Có lẽ đến hàng trăm ngàn con búp bê. Chỉ có điều tất cả đều màu xám và chỉ khác nhau về cỡ lớn nhỏ. Phía trước anh, trong gian hàng cũng có một vài người lớn. Rất nhiều người lấy một tứ gì tròn tròn như một chiếc hộp phấn trên các giá. Anh tớ gần coi kỹ hơn và nhận ra đó là một trò chơi luyện tính kiên nhẫn. Trong đó có những hòn bi và một khe nhỏ. Phải tìm cách lắc hộp sao cho những hòn bi đó lách qua những chướng ngại hình học và lăn tới đích. Peter chợt hiểu rằng, những người ngồi ở ghế dài trên quảng trường lúc trước cầm những vật trên tay vừa xoay vừa lắc chính là trò chơi này đây.
Trong cửa hàng hiếm có này, anh thấy có nhiều trẻ con. Chúng đi một mình hoặc đi từng nhóm. Mặt xanh rớt. Chúng lấy một hoặc hai thứ đồ chơi rồi đi tiếp.
Trong đống hàng hóa khổng lồ này, nổi lên một sự đơn điệu. Màu xám ngự trị rõ rệt. Và còn điều này nữa: Có rất ít chủng loại mặt hàng. Trong một nửa cửa hàng đồ chơi trên Trái Đất cũng có nhiều những chiếc máy nhỏ, xe hơi, tên lửa và nhiều đồ chơi cơ khí, kế đó thể nào cũng có những con gấu con, chó con … Còn ở đây thì điều kỳ lạ là không có hình dáng một con vật nào trong đống đồ chơi khổng lồ này. Ngay ở các hộp đồ chơi cho các em tập lắp ráp, cũng chỉ có những cấu kiện xây dựng màu xám, không có cửa, chỉ dùng lắp được những ngồi nhà hình hộp đơn điệu và ảm đạm.
Sau kho đồ chơi là kho sách. Đó cũng là một kho như các kho khác. Trên những chiếc giá rất dài, Peter chỉ thấy có tám hay mười tựa sách, loại nào cũng nhiều vô kể. Trên giá đầu tiên nỏi bật lên chữ Sách học. Anh cầm một cuống dầy nhất, cắp nách đi tiếp. Anh ít chú ý đến những cuốn sách khác. Còn có một tập sách mỏng với tự đề Tình yêu và một tập khác: Tôi chỉ đợi ngày Đại lễ mùa xuân. Trên bìa cuốn này có hình một người đàn ông và một người đàn bà quỳ gối cùng ngước mắt lên trời.
Anh nắm chặt cuốn sách học và cảm thấy hồi hộp vô hạn. Không tự kìm chế được, anh lấy chiếc máy phiên dịch đọc: Tờ bìa có ghi Sách giáo khoa cho trẻ em, không ghi dùng cho lứa tuôi nào và khoa nào, ngành nào. Đó là cuốn sách giáo khoa dày nhất có trong kho sách.
Peter cảm thấy cuốn sách sẽ giải đáp cho anh nhiều điều bí ẩn của hành tinh này. Anh rảo bước trở lại tiền sảnh. Một lần nữa anh nhìn quanh thật kỹ lưỡng để tìm một lối lên mái nhưng vô hiệu … Anh đành bước nhanh ra đường và trở lại quảng trường. Từ đó anh đi đại vào một ngôi nhà có năm vạch thẳng đứng đánh dấu ở mặt trước. Anh lại gặp một hình ảnh quen thuộc: tiền sảnh rộng rãi, có cửa quay bằng kính mờ về mọi phía. Nhưng trên cái cửa đó không ghi một ký hiệu nào. Anh chặc lưỡi, theo một cửa bước vào.
Khung cảnh hoàn toàn khác. Anh cảm thấy như đang ở phòng điều khiển một nhà máy điện, hay trong phòng lái một con tàu vũ trụ hoặc trong phòn chỉ huy một chiếc máy bay, hay đài chỉ huy một chiếc tàu, cũng có thể là phòng chỉ huy một nhà máy tự động. Máy móc được bày thành hàng dãy dài trước các bàn lắp đầy đồng hồ và dụng cụ đo lường. Có nhiều người ngồi làm việc, trước mũi vẫn đeo ống thở. Họ điềm nhiên ấn vào các nút khác nhau, quay các tay quay khác nhau mà không hề nói với nhau một lời hay mảy may quan tâm lẫn nhau. Peter đi qua một bàn điều khiển thì một chiếc đèn màu lục tươi bật lên kèm theo tiếng nói. Chiếc máy phiên dịch lập tức chuyển cho anh:
- Ấn vào đòn bẩy phía bên phải cho đến khi có tín hiệu vo vo nổi lên. Sau đó cũng ấn như vậy với đòn bẩy bên trái.
Peter muốn đi tiếp nhưng sự tò mò còn mạnh hơn ý chí. Anh ngồi lên chiếc ghế tựa màu xám rất tiện nghi. Nhìn thấy trên bàn điều khiển có các đòn bẩy. Anh ấn vào các đòn bẩy như hướng dẫn. Anh cứ thế hết phải rồi trái, rồi phải … cứ như thế anh làm việc khoảng hai tiếng, cho đến khi anh cảm thấy chán ngấy. Anh vừa nhỏm lên định đứng dậy bỏ đi. Ngọn đèn lập tức bật sáng và mọt cánh tay bằng chất dẻo không biết từ đâu chìa ra. Peter lúng túng thì lời hướng dẫn vang lên:
- Đưa bình chứa Oxy.
Peter không kịp hiểu, đứng ngẩn ra. Chiếc máy vẫn tiếp tục nhắc lại lời chỉ dẫn. Chợt óc anh lóe lên một tia sáng: Phải rồi, chiếc bình chứa Oxy của chiếc mặt nạ mà anh vừa nhận trong kho hàng. Cánh tay kỳ lạ chụp lấy chiếc bình nâu của máy hô hấp như một thanh nam châm. Phía thành bình hiện ra một khe nhỏ và ở chiếc máy cũng tự mở ra một ô cửa nhỏ. Giống hệt như trong một chiếc máy tự động bán kẹo, có ba viên tròn dẹp rớt qua ô cửa chạy tọt vào trong bình chứa. Xong việc, các khe và ô cửa tự động đóng lại.
Ồ! Điều bí mật là như thế đấy! Đó là một trạm nạp Oxy. Người ta phải làm một công việc lao động nào đó và những chiếc máy sẽ tự động trả công cho anh bằng cách nạp Oxy vào máy hô hấp cho anh. Nhưng có thực là những viên khi nãy có chứa Oxy không?
Peter hồi hộp đổi mặt nạ. Lần này anh chuẩn bị kỹ càng từng động tác, từng tư thế để có thể lập tức đeo ngay trở lại chiếc máy hô hấp cũ của mình khi cần thiết. Nhưng không phải sử dụng tới biện pháp đề phòng này. Thành công rồi! Chiếc máy mới hoạt động thật kỳ diệu. Không khí qua ống và mũi anh rất dễ chịu. Peter thử phân thích hỗn hợp khí. Chất khí từ các viên tròn dẹp đó sinh ra gồm có Nitơ và Oxy. Thành phàn hỗn hợp giống như không khí ở Trái Đất.
Anh tò mò muốn thử lại lần nữa, bước qua chiếc máy kế bên. Không biết có nên gọi là máy hay gọi là bàn điều khiển? Tùy ý. Ở đây cũng có một chiếc đèn tín hiệu sáng lên. Tiếp theo là lời chỉ dẫn. Nhưng ở đây chân phải đạp vào một chiếc bàn đạp đồng thời tay quay một chiếc vôlăng. Peter cũng làm việc ở đây một lát và khi anh đứng lên thì có một bàn tay bằng chất dẻo đưa ra. Đã biết, nên Peter đưa bình chứa Oxy. Lần này anh chỉ được nhận có một viên Oxy.
Bây giờ đã rõ. Trên hành tinh này, Oxy được dùng làm Tiền, là thước đo giá trị như ngày xua thường làm ở Trái Đất. Công lao động được tính đổi thành Oxy. Vậy là anh đã làm được một công viẹc lao động có ích nào đó và được trả công bốn Đơn vị Oxy.
Đột nhiên Peter cảm thấy bụng đói còn cào. Làm sao nhớ được phòng ăn hôm trước ở chỗ nào nhỉ. Anh quyết định, đầu tiên đi tìm phòng ăn. Kiếm một cái gì ăn và sau đó lại tiếp tục lên đường đi tìm một điểm cao. Nghĩa là một vị trí thích hợp cho cuộc thu phát vô tuyến. Nếu không thì cũng phải tìm được một phòng chỉ dẫn nào đó để có thể bắt liên lạc được với các sinh vật ở hành tinh kỳ lạ này …
Anh lại trở lại quảng trường và phải tự thừa nhận rằng anh không tài nào tìm được cái nhà ăn hôm trước. Lúc này, có vẻ sáng sủa hơn hôm trước. Anh nhìn được mọi vật rõ hơn. Nhưng khắp nơi cũng chỉ là những khối bêtông màu xám và những bức tượng phẳng lỳ.
Anh quyết đinh, cứ đi hú họa từ ngôi nhà này qua ngôi nhà khác cho đến khi tìm được chỗ ăn.
Ngôi nhà kế bên là một loại bệnh viên. Có những bệnh nhân đang được nằm trên cáng khiêng vào. Peter nhận xét thấy không có bệnh nhân nào bị thương, cũng không có người nào rên rỉ hay kêu la, cũng không có ai còn tỉnh táo cả. Họ như là chìm trong một giấc ngủ sâu, nằm bất động trên cáng. Các nhân viên cấp cứu cũng đeo mặt nạ trước mặt, thong thả đưa bệnh nhân vào cửa … Sau bệnh viện, Peter lại tới một ho và cuối cùng anh cũng thấy một ngôi nhà giống ngôi nhà đêm trước. Ở đó cũng có các phòng tắm, phòng nghỉ và một phòng ăn lớn rất rộng rãi. Cuối cùng anh đã tìm được nó.
Lần này, anh tự tin ngồi ngay vào một chiếc bàn. Theo bản thực đơn, anh gọi món Bánh bột tảo và Sốt nấm. Lúc này anh biết cách khéo léo đưa cuống muỗng vào miệng dưới chiếc khẩu trang và bắt đầu hút. Peter đói và háu ăn đến mức quên phứt đi việc phân tích thức ăn. Chung quanh những người đàn ông và đàn bà đeo mặt nạ cũng ngồi hút món ăn của họ. Họ ăn xong đứng dậy và lại có những nguồi khác tiếp tục tới ăn. Peter quyết định ăn xong ngồi nguyên tại chỗ dể đọc lướt qua cuốn sách giáo khoa một lát. Tại đây anh phát hiện ra ở bàn thứ ba có một thanh niên không ăn mà lấy muỗng quết quết món súp đặc lên một chiếc khăn bằng lên thành những nét nguệch ngoạc. Chàng thanh niên chăm chú làm việc. Chàng không hề chú ý đến ai và cũng chẳng ai quan tâm tới chàng.
Chỉ có mình Peter tò mò ngồi ngắm anh ta. Chàng thanh niên lấy cán muỗng quệt một vệt cháo đặc lên chiếc khăn và kiên nhẫn chờ cho đến khi cháo khô. Anh ta gấp chiếc khăn lên vệt dó, quệt một vệt khác và tiếp tục vẽ một ký hiệu gì đó. Phải … Nom cứ như chàng ta đang viết hoặc vẽ. Đột nhiên, Peter nhớ lại: Trong các kho hàng, không chỗ nào có giấy, bút, mực, màu, phấn … Tất cả văn phòng phẩm đều không có thứ nào hết. Các loại đồ gỗ, máy ảnh, hoa, đồng hồ đeo tay, máy thu thanh, thảm, rèm cửa, tranh anh, tuyệt nhiên chẳng có thứ nào! Vậy chàng thanh niên này đang làm gì? Chiếc loa treo trên bàn anh lại lên tiếng:
- Anh còn dùng món gì nữa không?
- Cho một phần Kem phúc bồn tử - Anh nói nhanh vì còn muốn tiếp tục quan sát chàng thanh niên. Món kem đã hiện lên. Đúng lúc này, chàng thanh niên nhận thấy có người đang quan sát mình. Anh đột nhiên nhìn lên và giật minh, không dấu được sự hoảng hốt. Anh vộ gấp chiếc khăn lại, bỏ vào một chiếc túi nhỏ và bước vội ra ngoài, bỏ dở luôn phần thức ăn trên bàn.