Con em ngồi cạnh, nhăn mặt:
- Chị Hạ mửa hôi quá hà! Sao chị mửa nhiều dữ vậy? Chị bị đau hả?
Con chị chưa kịp trả lời, vi cúi đầu xuống ói thốc vào trong cái túi ni lông chứa lõng bõng thức ăn và nước dãi nhầy nhụa mà nó chưa kịp quẳng ra ngoài xe.
Bà mẹ đang cúi đầu lúi húi lục trong cái giỏ dưới chân, kiếm thêm túi ni lông, dúi vào tay con em:
- Giữ cái túi ni lông này cho chị! Đây là cái túi ni lông cuối cùng. Nếu chị con còn mửa nữa, phải mửa ra ngoài xe thôi. Chị con mửa không phải vì bị đau đâu mà vì say sóng đó!
Con em tròn mắt ngạc nhiên
- Mình đâu có đi biển đâu mà say sóng vậy má?
- Say sóng là đi xe hơi không quen bị mửa.
- Con cũng đi xe lần đầu tiên sao con không bị say sóng?
- Có lẽ tại con khỏe hơn chị.
- Nhưng mà bây giờ chị Hạ mửa hôi quá làm con cũng muốn mửa theo! Con em bịt mũi than.
Bà mẹ cằn nhằn:
- Tối hôm qua má đã nói ngủ sớm đi mà hai đứa không chịu nghe! Ngủ không đủ, hay bị say sóng khi đi xe hơi lắm mà! Thôi thì giữ cái túi ni lông đó đi, có mửa thì mửa vào trong đó!
Con chị không nói được lời nào. Nước mắt nước mũi nó trào ra tràn đầy trên mặt. Chưa kịp gạt tay lau, nó lại cúi xuống, đưa miệng vào chiếc bao ni lông ói ra những giòng nước xanh, rồi nước vàng. Nhăn mặt, nó quẳng túi ni lông xuống đường và rùng vai liên tiếp. Bà mẹ vội vàng đứng dậy bảo con em thay chỗ ngồi. Đỡ đầu con chị nghiêng vào vai, bà rút khăn lau mặt, xoa dầu cù là vào cổ và trán nó, rồi bảo:
- Con để đầu xuống đây đi! Nhắm mắt lại cho đỡ chóng mặt thì không bị mửa nữa.
Nghe lời, con chị ngả đầu xuống, lăn vòng trên đùi mẹ, nhắm mắt. Miệng nó đắng ngắt vì chất nước xanh vàng vẫn còn vương trong cổ họng. Nó muốn xin mẹ nó nước uống để làm sạch cái cổ đắng nhưng lại sợ bị ói nữa nên đành nằm yên. Đầu của nó bị xóc lên xuống theo nhịp chạy của xe, và thỉnh thoảng bị tuột xuống bởi những lần xe thắng gấp nhưng sau đó được giữ lại và được vuốt ve bởi đôi bàn tay dịu dàng của bà mẹ và nó an tâm rơi vào giấc ngủ bình yên. Vài giờ sau, tiếng nói xôn xao của mọi người làm cho con chị choàng tỉnh. Nó giương đôi mắt ngái ngủ nhìn mẹ.
- Đã đến nơi rồi hả má?
Bà mẹ gật đầu:
- Đã đến bến xe Tuy Hòa rồi nhưng con cứ nằm một chút nữa đi. Chờ người ta đi xuống hết rồi mình xuống.
Con chị vùng dậy, nhìn qua cửa xe. Nhiều người đi tới lui chộn rộn giữa mấy chiếc xe đò trên bãi đậu. Họ gọi nhau, nói chuyện với nhau với những âm thanh lạ kỳ, lúc thì nhão nhoẹt lúc thì nặng nề chói tai.
Con em vươn vai, vừa ngáp, vừa hỏi:
- Ủa! Đã đến quê ngoại, đến nhà ngoại rồi hả má?
Bà mẹ khom lưng rút hai chiếc giỏ dưới gầm ghế ra vừa trả lời
- Chưa đâu con. Mình chỉ mới tới Tuy Hòa thôi chứ chưa đến nhà ngoại. Mình phải đón xe lam lên ngã ba Quốc lộ rồi đi bộ lên Minh Đức mới tới.
Đôi mắt con em sáng rực, tỉnh hẳn cơn ngái ngủ:
- Đi bộ nữa? Trời ơi! Sao mình phải đi bộ? Mình phải đi bộ xa lắm không hả má?
- Chắc là khoảng ba cây số thôi con. Thường thường từ sáng sớm đến trưa hay có xe ngựa đi từ Ngã Ba Quốc Lộ vào làng Minh Đức nhưng bây giờ đã ba bốn giờ chiều rồi không còn xe ngựa nữa. Mặc may thì đón được xe ngựa còn không thì phải đi bộ thôi.
Xuống xe lam là lúc trời đã về chiều và quả như bà mẹ nói, ba mẹ con không tìm thấy xe ngựa nào đi về phía làng Minh Đức. Hai tay hai chiếc giỏ nặng trĩu, bà mẹ vội vã bước nhanh về phía trước, hai đứa nhỏ xách hai chiếc giỏ nhỏ đi chầm chậm theo sau. Trên đường đất thoai thoải mà dọc hai bên là những ngôi nhà mái tôn vách đất được xây trên cao, con chị ý thức được nó đang đi dần dần xuống một con dốc đất. Những làn gíó mát rượi từ dưới dốc thổi lên làm nó cảm thấy dễ chịu. Vừa đi vừa hít thở không khí trong lành, con chị khoan khoái mỉm cười. Nó thà đi bộ và hít khí trong lành còn hơn bị tù túng ngồi chẹt trong xe và ói mửa không ngừng. Đến lúc ấy nó không còn nghĩ chuyện đi xe hơi bác Cả là ao ước của nó nữa. Bất chợt, một giọng nói đầy luyến âm và láy nhão cắt đứt giòng tư tưởng của nó:
- Coi nẫu chớ bay! Nẫu ăn mặc cái kiểu gì lạ chưa bay!
Đưa mắt nhìn bên vệ đường, con chị bắt gặp những ánh mắt tò mò của những đứa trẻ ở cùng độ tuổi đang ngưng trò chơi đá cầu. Sắc phục đơn giản và nước da đen cháy của chúng làm con chị chăm chú nhìn kỹ hơn. Đa số bọn chúng đi chân đất, con trai ở trần mặc quần đùi nâu hay đen, con gái mặc quần đen và áo ba bà màu sẫm. Khi đi qua mặt bọn chúng, mặc dù đi gần sát, nó chỉ hiểu được bập bõm vài chữ mà bọn con nít đang nói chuyện với nhau. Nghi hoặc bọn nhỏ nói xấu điều gì về mình, con chị mắc cở, nhấc cánh tay đang xách chiếc giỏ nhỏ lên cao để kéo vành mũ xuống che khuất đôi mắt. Con em ngoài cổ nhìn bọn chúng, chỉ tay bảo con chị:
- Coi kìa chị Hạ! Chiều rồi mà tụi nó còn đi chân không! Tụi nó còn dơ hơn tụi mình đó chị!
Con chị nói nhỏ:
- Kệ tụi nó! Ngó tụi nó làm chi cho tui nó để ý.
Mấy đứa nhỏ tinh nghịch ném vài hòn đất nhỏ sau lưng hai chị em. Quay phắt người ra sau, hai đứa trợn mắt, gườm gườm nhìn bọn trẻ. Chưa kịp nói lời đay nghiến nào để trả đũa hành vi chọc phá, cả hai há hốc miệng, lắng nghe những người lớn đang đứng gần đó mắng bọn trẻ xối xả:
- Chơi “dãy sao” bay? Khiến nẫu chửi hửng? Đi dìa đi! Đừng chơi ở dây nữa!
Một người đàn ông đạp xe đạp chạy ngang ngoái đầu nhìn bà mẹ, hỏi trống không:
- Dìa Minh Đức phải không “dãy”? Quá giang xe không?
Bà mẹ nói to đáp lại:
- Dạ không cảm ơn anh. Tui đi có tới ba mẹ con còn bao nhiêu giỏ xách nữa làm sao anh chở cho hết
Ông ta ngừng xe, hỏi tiếp:
- Dìa nhà ai ở Minh Đức “dãy”? Muốn chở dùm một đứa không?
Hai đứa nhỏ nhìn người đàn ông lạ lắc đầu nguầy ngậy trong khi bà mẹ đặt hai chiếc giỏ xuống đường, vừa lau trán vừa tươi cười:
- Tụi này không bao giờ để người lạ chở đâu anh! Nếu có tiện đường thì anh làm ơn ghé vào nhà bà Năm Điền nhắn dùm có con Ba Háo ở Nha Trang về thăm. Tui cảm ơn anh nhiều lắm.
- Được rồi! Tui đi ngang ngõ đó mà. Để tui báo bả cho!
Dứt lời, người đàn ông đạp xe vùn vụt xuống dốc và ba mẹ con với những chiếc giỏ nặng trĩu đi sau.
Cuối con dốc, hai dãy nhà bên đường chấm dứt bằng những khóm tre cao ngất. Trước mặt ba mẹ con là cánh đồng bao la bát ngát. Cánh đồng giục bà mẹ nhanh bước mặc dù hai chiếc giỏ oằn nặng như muốn tuốt hai cánh tay bà ra khỏi thân. Con em bước nhanh theo mẹ. Nó xuýt xoa luôn miệng:
- Quê ngoại đẹp quá! Đẹp nhất trên thế gian này đó má!
Con chị im lặng bước chầm chậm đàng sau. Nó không ghẹo con em khi con này nói những chữ “đẹp nhất trên thế gian” như những lần trước. Cái đẹp thực tế của cánh đồng hoàn toàn thu hút nó. Chưa bao giờ, ngay cả trong cảnh thần tiên khi mơ mộng và tưởng tượng, nó thấy màu xanh lá cây nào đẹp như những màu xanh lá của cánh đồng trước mặt. Màu xanh phơi phới của cỏ, xanh mơn mởn của lúa non, xanh vàng của lúa đang chín, xanh lá cây tươi của những khóm chuối, xanh nhạt nhòa của những khóm tre, và xanh lá nâu thẫm của cây cối phủ trên những ngọn núi xa xa, đều đón chào nó nồng nhiệt như chúng đang khoe tất cả màu xanh lá cây đẹp nhất của trần gian. Đôi mắt con chị đói khát nuốt chửng những làn sóng lúa xanh đang đuổi nhau tận tít chân trời. Nó mơ mộng là người lữ hành tự do đang lang bạt trên con đường đất vắng mà hai bên đường chỉ có một màu xanh lục và xanh lá non. Những màu xanh thiên nhiên đang lung linh nhảy múa và reo vui với những cơn gió như đang reo vui trong ý nghĩ của nó. “Quê ngoại của mình đẹp lắm! Đẹp đến nỗi không nơi nào sánh bằng, chứ không phải là ‘xứ nẩu’ mà các cô hay châm biếm đâu!” Hít sâu mùi thơm của lá, và của lúa, con chị khoan khoái ngẩng đầu lên. Bầu trời xanh ở trên cao với những cụm mây trắng như bông dường như rơi xuống thấp hơn để đùa vui với đàn chim cánh trắng đang bay la lả. Nó hân hoan đón những cơn gió thơm mùi lúa chín và mùi cây cỏ quyện lại trong khi bước đều đặn theo sau mẹ và em.
Đi hết cánh đồng, ba người đi chầm chậm vào ngôi làng nhỏ nơi có rất nhiều vườn chuối và nhà tranh vách đất. Bà mẹ vẫn là người đi đầu, con em bám chặt theo sau và con chị đi tuột xa tít sau cùng. Một vài người bên đường đi theo bà mẹ hỏi một vài câu lớn tiếng như tiếng nói của người đàn ông họ gặp trên con dốc. Những câu hỏi trong trỏng, trống không, đứt đoạn, không đầu không đuôi, không chủ ngữ, không vị ngữ, và cũng không rõ ràng dành cho người nào. Ngang qua nhóm chợ chiều, con chị nhíu mày khó chịu nghe những câu hỏi như hỏi cung do ba người đàn bà đặt ra khi họ vây quanh bà mẹ và con em giữa đường
- Chời quơi! Con Ba Háo đây na bay? Lấy chồng ở thành phố từ “năm nẵm” giờ mới dìa sao hả Háo?
- Mấy đứa con gái của mày lớn chừng dầy rồi hửng? Lấy chồng thành thị cách gì mà con lớn chừng dầy mới về quê “dãy” mày?
- Mày biết ba mày chết chưa “dãy” Háo? Tệ gì mà tệ dữ “dãy” mày! Ông Năm Điền bịnh nặng nhắn mày mấy bận, chờ mày hết ngày này sang ngày khác mà sao mày đành tâm không dìa “dãy”mày? Chời quơi! Lấy chồng thành thị cách gì mà cha chết không dìa gặp mặt “dãy”!
Bà mẹ ậm ừ trong miệng một vài lời gì đó mà con chị, dù đã đi đến sát bên cạnh bà, không thể nào hiểu được bà đang chào mấy người đàn bà kia hay qua loa những lời vô nghĩa để tránh khỏi trả lời những câu hỏi tò mò đường đột. Nó liếc ba người đàn bà đi chân đất, quần ống cao ống thấp, và những chiếc nón lá rách tả tơi với ánh nhìn ác cảm. Tiếng nói “đồ dân nẫu” vang lên làm nó thảng thốt. Nó nhận ra tiếng nói ấy không phải là tiếng nói của bà bác Cả hay cô Út mà chính là tiếng nói khe khẽ thốt ra từ trong hai hàm răng của nó. Nó cũng nhận ra rằng tiếng nói xúc phạm vừa qua không phải xuất phát từ trong đầu mà thật sự từ trong miệng của nó. Cho dù tiếng nói ấy có khẽ đến độ chẳng ai nghe được, nó ân hận vì đã nói những chữ hỗn xược. Nó trách những người đàn bà quá nhiều chuyện khiến cho nó đã thốt ra những chữ mà nó từng ghét cay ghét đắng mỗi khi nghe mẹ nó bị làm bẽ mặt trong khuôn viên nhà họ Hoàng. Nó suy nghĩ và tự an ủi lương tâm là những chữ “đồ dân nẫu” từ miệng nó không phải bắt nguồn cách phục sức mộc mạc bình dân của những người ở quê ngoại mà bởi vì cung cách ba người đàn bà nông thôn mới gặp này đối xử với mẹ nó giữa đường lộ một cách quá suồng sã, và bất lịch sự. Buồn thay, do bị thu thập và nhập tâm từ lâu đời, nó đã thốt ra những lời mà nó từng oán ghét.
Ba người đàn bà bị con chị rủa thầm “thứ nẫu” kia không hề biết họ đang bị khinh ghét, cũng như không hề hay biết họ đang làm chuyện mà những người văn minh thành phố gọi là “lắm điều, nhiều chuyện”; họ chụm lại nhau thành một nhóm nhỏ, bàn tán lớn tiếng với nhau:
- “Dãy na” chị? Từ ngày nó đi lấy chồng nó chưa dìa đây lần nào sao?
- Dìa nẳm nào đâu? Cha nó bệnh nó cũng không dìa, cha nó chết nó cũng không dìa, “nẫu, nẫu” ở đây nói biết mấy mà bà không nghe “dãy”?
-Tệ gì tệ dữ “dãy” ông! Tui tưởng nó không dìa thăm lúc ba nó chết chứ đâu biết nó chưa dìa năm nào! Ăn ở như “dãy” làm sao “nẫu” không nói được ông!
Ba mẹ con bước đi nhanh như chạy; dường như họ chẳng muốn nghe những điều ba người đàn bà kia bàn tán sau lưng, thế mà, họ cứ phải đi trước những người ấy. Vài người đi chợ về, đi theo toán người tạo thành một cái đuôi dài. Đến ngã ba, bà mẹ bước ngập ngừng nhìn con đường có chiếc cầu gỗ dẫn ra cánh đồng lúa xa một lúc rồi đi rẽ về phía con đường đất hẹp giữa lũy tre thẳng tắp chạy dài ôm vòng những ngôi nhà dưới chân núi và cánh đồng rau muống, rau môn nối liền với cánh đồng lúa rộng mênh mông xa tít đến chân trời. Hàng tre xanh um, cao ngất và thẳng tắp ven đường thỉnh thoảng bị những tảng đá thấp có mặt phẳng láng làm đứt ngang. Những tảng đá này được xem là những “cái cổng” hay “ cái ngõ” khi mà chúng thông thương những căn nhà tranh vách đất qua vườn chuối hay vườn hoa với con đường đất trước mặt. Những đứa nhỏ đang chơi trước “cổng” vụt chạy theo sau toán người, reo hò ầm ĩ. Chúng trầm trồ và xuýt xoa hai bộ đồ sáng rực cùng màu mà hai chị em con nhỏ đang mặc. Và cứ như thế, họ trở thành đám rước linh đình mà trong đó ba mẹ con nghiêm trang đi trước với đám người cười nói ồn ào với những tiếng “nẫu”, “dãy na”, “quý trời đất quơi!” sau lưng.
Đến một tảng đá khá lớn, bằng phẳng và láng bóng, bà mẹ dừng lại đặt hai chiếc giỏ lên trên. Hai đứa nhỏ tin chắc là mẹ chúng định ngồi nghỉ mệt, toan đặt những chiếc giỏ nhỏ mà chúng đang xách cạnh bên, phải trố mắt ngạc nhiên nhìn đám người đàn ông đàn bà, thanh niên thanh nữ và trẻ con, từ hai căn nhà tranh thấp thoáng bên trong, ào ạt chạy ra, rối rít gọi chào:
- Chị Ba dìa! Chị Ba dìa đúng rồi mẹ “quơi”!
- Đi “dô” nhà mau lên “quớ” chị Ba! Mẹ đang ở trong nhà đó chị!
- Hai cháu đây “na”? Đi mau với dì “dô” nhà chào “quại” “quớ” cháu!
Hai đứa nhỏ ngỡ ngàng khi mà những chiếc giỏ của bà mẹ và của chúng bị xách đi mà không được một lời hỏi ý kiến có thuận hay không. Chúng lặng lẽ bước theo mẹ và toán người trên lối trồng những cánh hoa nhỏ có màu cam thẫm buồn bã hai bên, rồi ngang qua vườn chuối đầy những buồng xanh, qua cái lu nước cạnh bụi hoa đỏ thắm bên cái sân xi măng rộng chứa đầy lúa phơi, qua cái nhà mái tranh vách đất đồ sộ để đến căn nhà nhỏ cũng vách đất mái tranh nơi mà đám gà vịt lớn nhỏ chạy lộn xộn ra ra, vào vào trong nhà, bậc cấp hay sân đất tự do trong khi tiếng vịt kêu, lợn la ủn ỉn náo động hơn tiếng nói cười xôn xao của người bu quanh trước cửa.
Một bà lão vóc người nhỏ thó trong chiếc áo dài đen ngắn ngủn đến tận đầu gối, tóc bạc búi cao, gương mặt xanh xao với nhiều vết nhăn trên trán, trên góc đuôi mắt, trên má và ngay cả trên đôi môi khô, ngỡ ngàng nhìn đám đông người đang vây quanh trước cửa nhà bà.
- Chị Ba dìa rồi đây mẹ! Một người đàn bà, kéo tay bà mẹ đẩy sát trước mặt bà, nói.
Chằm chằm ánh mắt trên khuôn mặt bà mẹ như muốn nhận rõ chắc chắn điều vừa nghe, đôi mắt của bà lão tóc bạc như bị thôi miên và bà mẹ bước nhanh về phía trước, đến sát mặt bà lão tóc bạc hơn, nói trong nức nở:
- Mẹ ơi, con đưa hai cháu về thăm mẹ đây!
Hai đứa nhỏ được lôi ra khỏi “đám rước”, đến giữa bà mẹ và bà già tóc bạc, khoanh tay cúi đầu như mẹ bảo:
- Dạ thưa bà ngoại, chúng con về thăm ngoại.
Như bị một cơn gió độc đột ngột tạt vào, khuôn mặt bà lão tóc bạc trở nên lạnh lùng như một khối băng. Nguẩy đầu, quay phắt người đi vào nhà, ngồi cạnh chiếc ghế cạnh bàn thờ có cẩn xà cừ giữa nhà, bà nói rành rọc từng chữ như cố mài chúng thành những lưỡi băng đá sắc bén:
- Đi luôn đi! “Dìa” đây làm gì “dãy”? Bỏ cha, bỏ mẹ được thì cứ đi luôn! Bây giờ là người tỉnh thành rồi còn biết gì quê cha đất tổ nữa!
Bật khóc nức nở trước ngưỡng cửa, bà mẹ nói không ngừng như thể chưa bao giờ được tự do nói:
- Tại sao mẹ nỡ đuổi mẹ con con đi? Đâu có phải là con không muốn về thăm cha, thăm mẹ, nhưng mà từ khi chồng con chết, con phải làm việc vất vả để nuôi hai đứa con của con, “lớp” ăn, “lớp” học, con không thể nào kiếm được tiền xe về quê. Con mang tiếng lấy chồng thành thị mà có ích sướng gì đâu hả mẹ? Thân con chỉ là con tôi, con mọi trong gia đình chồng của con mà có cha mẹ anh em nào biết cho? Con tưởng đâu là con về đây được mẹ và anh chị em thương lo chăm đón ngờ đâu cả mẹ cũng hất hủi con. Có phải mẹ giận con vì cha đau nặng mà con không về thăm cha không? Mẹ oán con vì lúc cha chết con không về để nhìn mặt cha lần cuối phải không? Sao mẹ không thương con mà hiểu dùm cho con là con không có tiền để đi xe về? Con là người chứ có phải là súc vật đâu mà không biết tình cha con, hả mẹ? Tại sao mẹ nỡ...
Bà mẹ càng nói, tiếng nói của bà càng sôi nổi và mạnh mẽ như thể bà khí thế lắm, vậy mà chưa thố lộ hết nỗi uất ức, toàn thân của bà lả dần như sắp quỵ xuống trước cửa ra vào khiến mọi người sợ hãi vội vàng dìu bà đến cái giường tre cạnh bàn thờ.
Người đàn ông trung niên, trong bộ đồ bà ba nâu đen, đến bên bà già tóc bạc khuyên can:
- Con đã nói với mẹ nhiều lần rồi! Nó làm gì có tiền mà đưa con nó “dìa” đây chịu tang cha? Ai cũng có phần số và duyên kiếp. Số nó không được gặp cha lần cuối cũng phải chịu thôi!
Một người đàn bà trẻ, kéo tay hai đứa nhỏ đặt trên hai vai của bà lão tóc bạc.
- Nói xin lỗi “quại” dùm cho mẹ cháu đi! Nghe lời dì Bảy đi cháu!
Con em sợ sệt rụt tay về. Con chị đứng yên không phản đối nhưng ánh nhìn của nó vô cùng ác cảm trên khuôn mặt bà già tóc bạc, người đã làm cho mẹ nó khóc vật vã và đau khổ. Thình lình, bà già tóc bạc chụp lấy bàn tay nó, khóc sướt mướt:
- Cháu tui ở thành thị mà ốm yếu “dãy” na trời? Ở trỏng mẹ không có gì cho cháu ăn sao hả cháu? Mẹ cháu làm không đủ nuôi cháu ăn phải không?
Nước mắt con chị rớt ra. Nó không biết đối phó như thế nào với cái đầu đang khóc nấc trên ngực và cái ôm đang xiết cứng toàn thân của nó. Nó mang máng nhớ lại câu ca dao tục ngữ mà mẹ nó thường ngâm nho nhỏ trong một giọng trầm buồn vào những lúc nào đó trong căn nhà nhỏ của ba mẹ con nó: “Nghèo thì mất thảo mất ngay, ơn cha cũng bỏ nghĩa thầy cũng quên!” Nó không nhớ là mẹ nó đã đọc những câu câu ca dao này vào những lúc nào nhưng vì nó nghe nhiều lần như tiếp thu một khúc nhạc đơn điệu được lập đi lập lại hoài nên nó đã thuộc lòng vanh vách. Đến lúc ấy, nó hiểu thêm về chữ nghèo mà mẹ nó âm thầm than thở một mình. Giận bà ngoại đã gây ấn tượng không thú vị trong phút ban đầu và làm cho mẹ nó buồn, nhưng nó vẫn đứng yên cho bà ôm chầm và than khóc.
Một người đàn ông trẻ hơn và thấp hơn người đàn ông trung niên, đưa cho hai chị em chúng mỗi đứa ba cây nhang:
- Lạy ông ngoại đi hai cháu!
Nghe lời ông ta, hai đứa nhỏ ngoan ngoãn xá lạy tấm hình của ông lão hiền hậu trên bàn thờ ba lần. Khi bà mẹ lục lọi trong hai chiếc giỏ và đem ra những thứ trái cây, thức ăn, nhang, bánh thắp hương, chiếc bàn thờ trở nên thịnh soạn và ấm cúng hơn.
Đám đông hàng xóm đang tò mò hóng chuyện được thưa mời về, lặng lẽ giải tán. Những người còn lại trong gia đình hàn huyên, tâm tình cho đến chiều tối. Qua đối thoại của họ, hai đứa nhỏ biết được người đàn ông trung niên, cao nghều như cò là cậu Hai, anh của mẹ nó và là con trưởng của gia đình. Người đàn bà thấp như vịt đẹt là vợ cậu Hai, mợ Hai. Tuy là cặp vợ chồng có chiều cao chênh lệch khá rõ, họ kế thừa cơ ngơi khổng lồ sau khi ông ngoại qua đời chẳng khác nào như cơ ngơi của ông bà bác Cả trong khuôn viên nhà họ Hoàng sau khi ông nội nó qua đời. Họ có một căn nhà đồ sộ, một cái sân phơi lúa vuông vức, và ba thửa rung lúa rộng lớn. Không những họ được “hào của” mà còn được cả “hào con”. Sáu người con của gia đình họ là con số kỷ lục mà chẳng có người bà con nào trong dòng họ dám đạt đến. Chị Vịnh, con đầu của họ hơn con chị hai tuổi, chị Vương bằng tuổi con chị, và bốn người kia, anh Dân, chị Tín, anh Tiến và anh Cu Tèo, đều nhỏ tuổi hơn cả con chị và con em nhưng hai chị em nó phải lễ phép xưng hô anh chị và khoanh tay cúi đầu chào kính trọng như người lớn vì vai vế họ cao hơn chúng trong mối quan hệ bà con: cha của họ là anh của mẹ hai đứa nhỏ. Bà mẹ là người con thứ hai của gia đình nhưng được gọi là Ba khi mà người con đầu đáng lẽ phải gọi là Nhất hay Một, lại được gọi là Hai, cậu Hai. Và do lẽ đó, bà mẹ có đến hai tên thứ: “Ba” theo thứ tự trong gia đình mình và “Năm” theo thứ tự ra đời của ông chồng. Dì Bốn, có khuôn mặt giống bà mẹ cũng như những bà dì kia như tạc nhưng đẫy đà nhất trong đám chị em, đã từng đóng kịch giả làm bà mẹ để trấn an ông bố của hai chị em con nhỏ bằng cách nhận lời kết hôn sau khi ông được súc ruột lần tự tử thứ hai. Dì Bốn cũng như dì Sáu, dì Bảy đều có hai đứa con gái, và đều ở nhà chồng gần đó. Họ không thể ở trong khuôn đất nhà bà ngoại bởi vì phận họ là gái, có chồng phải theo chồng. Chỉ có anh Thu con của dì Năm đã chết và cậu Tám là người được ở chung với bà ngoại và cậu Tám. Anh Thu thường đi sớm về tối để giúp bà ngoại trong việc đồng áng. Anh có vai em trong mối quan hệ bà con với hai con nhỏ vì mẹ anh ta thứ năm, em gái của bà mẹ, nhưng do tuổi anh lớn hơn hai đứa nhỏ khá nhiều nên chúng khăng khăng gọi là anh. Cậu Tám học cao nhất trong gia đình ngoại, đang làm thôn trưởng cho thôn Minh Đức và có khả năng làm xã trưởng trong tương lai. Cậu chuẩn bị làm đám cưới với vị hôn thê đang sinh sống tại thị trấn Tuy Hòa.
Tối hôm ấy anh Thu giúp bà ngoại lo cơm nước. Ba mẹ con hai đứa nhỏ ăn cơm với bà ngoại, cậu Tám và anh Thu. Bữa cơm chỉ có rau muống luộc chấm mắm, và cá rô nướng vậy mà hai chị em con nhỏ ăn rất nhiều cơm. Cơm lúa mới hạt thơm và dẻo như nếp tươi làm chúng thấy ngon miệng.Ăn xong, cậu Tám và anh Thu xin ngủ nhờ tại nhà cậu mợ Hai.