Bà mẹ đang giúp bà ngoại khiêng những thau cám lẫn thân chuối xắt nhỏ đổ vào máng lợn trong khi anh Thu đang xối nước rửa chuồng. Mùi phân lợn nồng nặc, khó thở.
- Đi ra giếng súc miệng và rửa mặt đi các con.
Nấn ná một lúc nhìn bốn con lợn sữa sục mõm vào máng thức ăn, hai đứa nhỏ lửng thửng đi ra phía trước.
Năm đứa nhỏ con cậu Hai đang lảng vảng trước cửa nhà lớn rủ chúng ra giếng rửa mặt. Đến giếng mới nhớ không đem bàn chải và kem đánh răng, hai con nhỏ đành bắt chước theo những đứa nhỏ bà con dùng ngón tay trỏ chà hai hàm răng qua lại, súc miệng bằng bàn tay bụm chứa nước, rửa mặt bằng những cái quẹt nước ngang dọc qua loa, và lau mặt bằng vạt áo và tay áo. Con em tinh nghịch xách nước tưới những cây chuối quanh giếng. Đó là lần đầu tiên nó được xách nước từ giếng lên một mình. Bởi vì xách nước mà không cần phải đứng kề miệng giếng, chỉ đẩy cái đòn tre lên cho gàu sòng chìm xuống nước giếng và kéo chiếc gàu lên bằng sức nặng của những tảng đá nặng cột sau đòn tre, nên con em tha hồ đưa lên, kéo xuống cái gàu sòng nhiều lần như nó thích.
- Rửa mặt xong đi núi nghen? Chị Vương, con gái thứ hai của cậu mợ hai, hỏi hai đứa nhỏ khi cả bọn đi ra “ngõ”.
Ngồi trên tảng đá phẳng lớn giữa hai khóm tre trước cổng, hai đứa nhỏ thích chí lăn qua tuột lại trên mặt láng cứng và mát lạnh. Con chị hỏi qua loa:
- Núi ở đâu? Xa không?
- Không xa, ngay sau lưng nhà mình kìa! Anh Dân, con thứ ba của cậu mợ Hai, trả lời.
Con chị và con em xoay người lại. Sau lưng hai căn nhà mái lá của cậu mợ Hai và của bà ngoại là đỉnh núi với nhiều cây xanh thấp thoáng.
- Núi gần vậy hả? Con em ngạc nhiên hỏi.
- Gần vậy cho nên ngày nào rửa mặt xong tụi tao cũng “đi núi” cả. Anh Dân nói.
- Giờ tụi em đi không được rồi! Trưa hay chiều đi được không? Con chị nói khi nghe tiếng mẹ gọi vào ăn cơm sáng.
- Mấy anh chị đây thường “đi núi” buổi sáng nhưng ngày hôm nay chờ hai đứa “đi núi” buổi chiều cũng được. Chị Vương trả lời.
Mấy đứa nhỏ vào nhà bà ngoại. Trên nền đất, thức ăn sáng gồm có những chiếc bánh tráng gạo dày được nhúng ướt sũng trong cái rổ tre, chút cơm nguội trong cái nồi đồng, vài con cá rô trên chiếc dĩa đất và mắm nguyên chất trong cái chén sành. Hai đứa được bảo ăn, ngượng ngùng cuốn những miếng bánh tráng ướt trước cái nhìn chăm bẳm của những đứa bà con. Hai đứa cảm thấy mắc cở vì không thể mời những người đang ngồi kề ăn cùng. Mấy đứa nhỏ bà con không muốn ăn thức ăn không phải dành cho chúng, cũng không muốn nhìn miệng kẻ đang ăn nhưng chúng vẫn ngồi chờ hai con nhỏ bà con “thành thị” kia ăn xong để được chơi với nhau.
Bà ngoại bảo anh Thu nhúng thêm bánh tráng đủ cho cả bọn cùng ăn. Bà mẹ ăn qua loa cho có lệ rồi cùng bà ngoại ra thăm vườn chuối. Một lát sau hai người cắt một buồng chuối mốc thành từng nải rồi xếp chúng cùng những xấp lá chuối vào trong một cái thúng nhỏ. Bà ngoại cặp thúng bảo tất cả đám trẻ cùng đi với bà ra chợ. Mấy đứa nhỏ hân hoan theo bà như sắp được chứng kiến một việc quan trọng nào đó mà bà sắp dành cho.
Sau khi mua bán trao đổi với những người bán lẻ ở nhóm chợ nhỏ của làng, bà ngoại đếm những đồng tiền lẻ và gom cả cho tất cả những đứa cháu nội và cháu ngoại mua những thứ mà chúng thích. Những đứa nhỏ con cậu mợ Hai ân cần chăm lo những sở thích của hai chị em chúng:
- Em thích mua món gì? Con Tín, đứa con thứ tư của Cậu mợ Hai, hỏi con chị.
- Em thích mua củ sắn và củ mì tinh luộc. Con chị mắc cở trả lời khi phải xưng hô chị em một cách ngược đời với đứa nhỏ hơn nó ba tuổi.
- Còn Vy thích mua mấy cục kẹo này! Con em láu táu chỉ tay vào cái tray tròn có những viên kẹo nâu làm bằng đường vàng lổn ngổn trong mớ bột trắng.
Con chị hỏi:
- Còn mấy “anh chị” muốn ăn gì?
Chị Vương xốc “anh” Cu Tèo, con Út của cậu mợ Hai, ngay ngắn bên hông, trả lời:
- Không ăn gì đâu! Tất cả số tiền này là cho hai em. Hai em không muốn mua nữa thì để dành hôm sau đi chợ mua kẹo ăn.
Mấy đứa nhỏ con cậu mợ Hai, kẻ gói kẹo, người ôm sắn, kẻ túm mì, người giữ tiền dùm cho hai chị con nhỏ. Và hai chị em, cảm động khôn cùng trước tấm chân tình thơm thảo, chia nhau những thứ có được để cùng ăn.
Bà ngoại không quan tâm đến số tiền có được từ những thứ mà bà hái trong vườn, cũng không để ý chuyện chia chác giữa những đứa cháu ngoại và cháu nội ra sao, bà đang khoe với những bà bán hàng sự viếng thăm bất chợt của con cháu bà từ “thành thị”và giải thích lý do tại sao con gái bà ở “thành thị” không về thăm cha và để tang cha được khi ông ốm nặng và qua đời.
Trưa hôm ấy, bà mẹ và bà ngoại lội xuống cánh đồng trước nhà cắt rau muống. Mấy đứa nhỏ con cậu mợ Hai nhìn chằm chằm người cô ruột, được thành thị hoá từ lời ăn tiếng nói, đến cử chỉ, và cách ăn mặc, xăn quần bì bõm dưới nước đồng cắt rau. Còn con chị khi nhìn thấy mẹ quấn quýt bên bà ngoại của nó thì nó hiểu rằng lớn tuổi như mẹ nó cũng muốn kề cận với mẹ ruột của mình.
Ăn cơm trưa xong, trong khi con em cùng với đám trẻ chơi với những con gà con và vịt con, con chị hỏi chị Vương:
- Đi núi chưa hả chị?
- Muốn đi giờ hả?
- Không, em chỉ hỏi vậy thôi. Tùy chị!
- Chị phải đi học hè. Lớp chỉ có một tiếng thôi, từ một giờ đến hai giờ.
- Chị học lớp mấy?
- Lớp bốn sang năm lên lớp năm. Em cũng học bằng lớp chị phải không? Cùng tuổi mà! Lớp hè này, nẫu dạy không lấy tiền, đi học với chị cho vui!
- Em đi chơi với chị thôi! Con chị nói.
Chị Vương chuẩn bị tươm tất khi đến lớp. Chị thay bộ quần áo đen rách vá bằng chiếc áo bà ba màu xanh đọt chuối nhạt và quần đen thẳng thớm. Chị chải và kẹp tóc gọn phía sau bằng chiếc kẹp ba lá. Chị mang đôi dép nhựa sứt quai được buộc cẩn thận và ngay ngắn bởi chiếc ghim băng. Chị trở thành một cô thôn nữ nhỏ nhắn, mộc mạc và đáng yêu đến độ con chị cảm thấy mình xa lạ, lòe loẹt và đỏm dáng trong bộ đồ bộ đang mặc, mặc dù màu sắc của nó không rực rỡ như hôm qua.
Ra khỏi cổng, chị Vương không đi dọc theo hàng tre về phía cuối làng để thỏa mãn trí tò mò của con chị. Trái lại, ôm tập vở trên tay, chị đi ngược về hướng chợ. Con chị vội bước theo bên cạnh. Đó là lúc duy nhất con chị không thấy chị Vương ẵm “anh” cu Tèo kè kè bên hông.
Cả hai đi lên triền núi đối diện khu chợ của làng để đến hai lớp học có tường bằng đất sét, mái bằng tranh, và cửa sổ, cửa ra vào bằng cây siêu vẹo. Bàn ghế gỗ cũ xộc xệch chỉ vừa đủ cho tám đứa học trò, mà lúc đó lớp có đến mười hai đứa kể cả con chị nên chúng phải ngồi khít vào nhau. Thầy giáo chỉnh tề trong áo sơ mi trắng bỏ vào quần xanh đen thắt nịt lưng. Thầy nói giọng Tuy Hoà và không hề ngạc nhiên trước sự hiện diện của con nhỏ chị. Thầy kêu nó lên bảng hỏi vài câu về văn phạm Việt ngữ để thử sức rồi kêu nó giải những bài tập toán mà thầy đã cho lớp tuần rồi. Bài toán nó giải là toán trừ ba số có mượn và toán nhân một số hàng ngàn với hai con số. Những loại toán này so với chương trình học của thành phố chỉ dành cho học trò lớp ba và dĩ nhiên là con chị làm được một cách dễ dàng. Được thầy và bạn trong lớp khen, nó thích chí lắm. Lúc ấy nó ao ước được học ở trường làng Minh Đức mãi để khỏi phải học chương trình toán quá cao của thành phố. Chị Vương luôn miệng thì thầm bảo nó chỉ cho chị cách làm toán khi về nhà.
Hai chị em trở về đúng lúc dì Bốn, dì Sáu, và dì Bảy đưa con họ đến thăm ba mẹ con. Mọi người quây quần trước hiên nhà cậu mợ Hai ăn xôi đậu phọng, bánh tráng nướng trét nước mật, khoai lang luộc, chuối mốc chín hườm luộc và bánh cốm đường gừng. Những thức ăn này do các dì đem đến như quà họp mặt.
Trong lúc trò chuyện vui vẻ, dì Bảy hỏi hai chị em con nhỏ:
- Hai cháu có thương “quại” không?
Cả con chị và con em đều mắc cở, nhưng đều gật đầu.
- Dạ có. Con em trả lời.
Câu hỏi của dì Bảy là một câu hỏi đường đột đối với con chị. Nó thắc mắc tại sao dì Bảy không hiểu rằng câu chất vấn kia bất công đến độ áp đặt người trả lời không thể nào nói chữ “không” một cách bất lịch sự.
Dì Sáu hỏi vặn:
- Nói thương “bà quại” sao hai cháu không nói má “dìa” thăm “bà quại” thường xuyên “dãy”?
Con em nhún vai, rụt cổ:
- Con không biết.
Con chị không trả lời. Nó vừa không thích lối hỏi vặn, hỏi đố vừa bực bội vì các bà dì coi thường chị em nó non nớt đến độ ngốc nghếch. Ngày họp mặt đầu tiên giữa ba mẹ con và gia đình ngoại xảy ra mới ngày hôm qua và lời giải thích của bà mẹ với nỗi uất ức vẫn còn trong trí nó, thế mà có thể nào dì Sáu của nó quên mau như vậy. Nó cau mày, bực mình hơn khi nghe dì Bốn hỏi:
- Hai cháu thương bà nội hay bà ngoại nhiều hơn “dãy”?
Con em khôn ngoan trả lời:
- Con thương bà nội và bà ngoại đồng đều nhau, không ai hơn ai cả!
Con chị biểu lộ sự bất mãn một cách thẳng thừng, nó nói:
- Con thương ai là con để trong bụng chứ không muốn cho ai biết điều đó!
Ba bà dì của nó đỏ mặt. Họ bực tức tột cùng trước thái độ hỗn xược của nó. Còn nó thì biết rõ ba dì này là những người từng vào Nha Trang giúp mẹ nó khi bà sinh nó và con em. Họ đã đem các thứ do bà ngoại gửi cho, và đã tận tình chăm sóc mẹ con nó khi chúng vừa mới lọt lòng. Những câu chuyện đầy tình nghĩa của bà ngoại và các dì do mẹ nó kể đã khảm sâu vào tim nó ngay từ lúc nó đủ trí khôn và nó luôn luôn giữ tình máu mủ thân thương với bên ngoại trong trái tim âm thầm của nó. Tuy nhiên, tình cảm của nó dành cho phía ngoại đậm đà sâu sắc bao nhiêu nó không thích nghe một ám chỉ ngầm nào so sánh tình cảm giữa họ nội, và họ ngoại bởi vì tình cảm mà nó dành cho gia đình nội và gia đình ngoại không thể nào tách biệt và chia rẽ trong trái tim không hề thiên vị của nó.
Mấy đứa con nít - con của cậu mợ Hai, con của dì Bốn, con của dì Sáu, và con của dì Bảy - không thấy thú vị gì khi họp mặt chung với những người lớn, rủ hai chị em con nhỏ ra trước ngõ chơi. Chúng đi dọc theo lũy tre trước nhà, bứt những đọt lá tre, gắn thành vòng tròn, kết thành những sợi dây chuyền, những vòng tay rồi nói cười xôn xao và vui vẻ.
Chơi chán, chị Vương hỏi:
- Hai đứa Hạ,” Qui”(Vy) muốn đi núi chưa “dãy”?
- Muốn! Em muốn đi!
Con chị vừa trả lời, cả bọn đều ưng thuận. Cả trai cả gái, mười ba đứa lục tục đi theo con đường dốc hướng lên núi cao. Những căn nhà hai bên triền dốc, được xây cao ráo trên những lớp đá chồng cao thẳng tắp gọn gàng như những tòa lâu đài ngự trị trên sườn núi cao hùng vĩ bởi vì chúng có ngói đỏ và tường xi măng. Có lẽ đó là những căn nhà của những người giàu có của làng. Ven theo triền đá là những cây hoa đủ màu với những con bướm và con chuồn chuồn chập chờn bay lên xuống. Cuối khúc nhà ở, đường lên núi càng dốc, và những chuồng ngựa, chuồng trâu, chuồng bò liên tiếp san sát nhau. Vài con ngựa còn ở trong chuồng hí vang như muốn báo động cho chủ biết nhiều kẻ lạ đang xâm nhập nơi chúng đang cư ngụ và đang làm chúng hoảng sợ. Mùi phân nồng nặc của mấy cái chuồng súc vật này làm con chị ngạt thở, xây xẩm muốn oẹ.
Con em bịt mũi, bịt miệng than:
- Chỗ này thúi quá.
Mấy đứa nhỏ bà con họ ngoại bình thản không nói gì; chúng cũng không bịt mũi, không khạc đờm, không nhổ nước miếng. Kẻ chân đất, người mang dép cao su, kẻ mang dép nguyên quai màu mới toanh, người mang dép xẹp quai dây chuối thoăn thoắt bước lên những viên đá to nhỏ mòn nhẵn gắn chặt vào đường mòn dưới chân. Xuyên qua khỏi các khóm cây um tùm, con đường mòn càng lúc càng mở rộng hơn. Đến một nơi không có cây cao nào ngoài những bụi cây nho nhỏ, cả bọn đứng lại nhìn lên bầu trời quang đãng và muôn vàn cây cối tươi xanh trên đỉnh núi trước mặt.
Chị Vuơng chỉ về phía đám cây có những con chim vờn bay lên xuống cách đó độ hai chục mét, nói như reo:
- Lên phía đó tìm chim chim, dú dẻ ăn đi bay! Xong rồi hãy “đi núi”!
Con chị háo hức đi nhanh theo hướng chỉ của chị Vương. Nó bỏ quên sự phân vân về lối nói chữ của chị ấy. Chả là họ đang ở núi rồi sao?
Những con chim thấy bóng người, vụt bay ra khỏi những cành cây thấp nơi có những trái xanh, trái đỏ trái vàng. Bọn nhỏ tranh nhau bu đến cây là tròn có những chùm trái đỏ dài như những hạt đậu chín mùi trĩu nặng toòng teng trên những nhánh cây.
- Trái này là trái chim chim đó. Hái ăn đi!
Con chị, ảnh hưởng những câu chuyện kể của mẹ, nghi ngại hỏi hết đứa bà con này đến đứa bà con khác:
- Trái này có phải là trái độc không? Đã thấy ai ăn chưa? Có thấy chim vẫn còn sống sau khi ăn trái này không?
- Trời “quơi” lần nào lũ tao đi núi cũng hái chim chim, dú dẻ, nhãn lồng ăn. Đâu có ai chết đâu mà sợ! Ăn thử đi! Anh Dân nói to như la.
Vừa nghe nói thế, con em hái ngay một trái bỏ vào miệng, khen rối rít.
- Trái chim chim ngon quá!
Con chị nghe lời, hái và nếm thử. Thích thú với vị ngon lạ, nó cùng với đám trẻ thi nhau đi quanh gốc chim chim bứt hết các chùm đỏ, nhai hết chùm này sang chùm khác, và nhả hột xung quanh gốc cây.
- Có phải trái đỏ này bị chim ăn nhiều nên người ta gọi là trái chim chim không? Con chị hỏi
- Có thể! Anh Dân trả lời - Nhưng trái dú dẻ vàng này thì không biết vì sao nó có tên là dú dẻ?
Con chị nhận hai trái hình bầu dục màu vàng mơ trên tay anh ta, nuốt nước miếng:
- Anh hái ở đâu vậy?
Anh Dân vừa chỉ khóm cây dày lá xanh thẫm chi chit những trái, con chị và cả bọn trẻ bu lại thi nhau bứt hái, nói cười rộn rã. Tỏ ra là người am hiểu vị trí các loại cây ăn trái mà ngọn núi có được, anh Dân tiếp tục lục tìm và đưa hai chị em đến bụi dây đầy những trái vàng chanh và cây xoay có những trái đen nho nhỏ chi chít trên cành.
- Đây là bụi nhãn lồng! Còn đây là cây “xay”! Trái nào cũng ăn được hết. Hái ăn đi đừng sợ! Anh Dân nói.
Thích thú với những trái lạ chưa từng được thưởng thức trong đời, hai chị em con nhỏ réo nhau đến bụi này đến cây khác xúm xít cùng mấy đứa nhỏ bà con bứt bứt, khèo khèo, hái hái rồi chia nhau ăn hết loại trái này đến loại trái khác.
Một lúc sau, con em nhăn mặt la lên:
- Em đau bụng quá. Em mắc đi cầu.
Chị Vương nói:
- Ở đây bây giờ đi “cầu” xa tít ngoài đồng chịu không thấu đâu, đi “núi” được rồi!
Dứt lời chị xốc “anh” Cu Tèo đi ngược lại con đường mòn và ngừng lại ở chỗ quang đãng nhất, nơi không có cây cao ngoài những bụi thấp lè tè mọc chi chit và lẫn lộn trên các ụ đá cuội lớn nhỏ.
- Vào trong mấy bụi cây trong kia tìm chỗ ỉa đi! Chị Vương ra lệnh.
Nói xong, chị đi tìm một bụi cây cởi quần cho cu Tèo trước khi cởi quần cho mình, rồi ngồi xụp xuống im lìm. Ngạc nhiên thay, lời của chị Vương tưởng chỉ dành cho con em, không ngờ tất cả những đứa bà con, đứa nào đứa nấy cũng tìm một bụi cây, cởi quần ngồi im lặng. Con em bắt chước tìm một bụi cây cho nó. Ngơ ngác một mình trên lối đi, con chị chợt thấy chột bụng nên nó đành len lỏi vào trong các bụi rậm để tìm một chỗ. Giải quyết cơn đau bụng xong, con chị bối rối không biết làm sao để chùi sạch chỗ hôi thối. Nhìn qua lại những người ngồi gần, nó chờ học cách giải quyết vấn đề khó khăn mà nó đang có. Anh Tiến, chị Tín, con Thoa - con dì Bốn - xách quần đi khúm núm dọc ngang tìm kiếm thứ gì đó dưới đất. Rồi mỗi đứa ngồi trên một gồ đá lồi lên từ mặt đất, lắc lư những cái mông tròn chà hậu môn lên mặt láng của các gồ đá như thể những cái gồ đá lồi tròn kia là “vật chùi sạch hậu môn”!
Khi thấy con em bắt chước làm hoàn toàn giống như mấy đứa bà con, mà ngay cả lúc đó “anh” Cu Tèo mới bốn tuổi cũng xoay tròn cái mông thuần thục và nhuần nhuyễn trên ụ đá tròn như đã thực tập khá nhiều lần. Con chị la lớn:
- Trời ơi! Làm cái kiểu gì mà “mọi rợ” vậy?
Vừa la xong, nó thảng thốt bụm miệng ngay. Con em cũng thảng thốt, dáo dác nhìn nó. Hai chữ “mọi rợ” mà chị em chúng đã móc nghéo và thề thốt chẳng bao giờ nói ra kể cả lúc chúng được giàu sang sau này bây giờ lại vang vọng giữa núi đồi xuyên qua bao nhiêu cây cối từ trong miệng con chị. Biết tất cả mọi người đang chằm chằm nhìn nó, con chị ngồi im thin thít, khép chặt đầu gối, và cúi đầu xuống đất.
Chị Vương hốt hoảng xốc “anh” Cu Tèo đến gần nó:
- Mọi rợ ở đâu “dãy”?
Con nhỏ chị ngửng đầu lên, ấp a ấp úng, lấp bấp giải thích:
- Ơ... không có!... không có mọi rợ nào ở đây cả! Ý em muốn nói là sao mình chùi đít trên mấy ụ đá vậy? Lỡ mấy người nào đã chùi vào đó trước rồi thì sao? Dơ chết!
Chị Vương co chân, phủi cỏ dính quần, vô tư nói:
- Có gì đâu mà lo “dãy”! Ban đêm nào, ban khuya nào mưa không “dìa” núi! Mấy khối đá ở núi Chớp Chài này được nước mưa rửa sạch sáng ngày ra nắng làm khô như mình giặt áo quần vậy mà!
Ngày nào tụi chị cũng “đi núi”, cũng chùi, có bị gì đâu! Mình phải đi tìm cái ụ đá sạch nhất để mà chùi, thiếu gì ụ đá ở đây mà sợ!
Con chị vẫn không nhúc nhích. Tệ hại cho nó là mấy đứa nhỏ trong bọn đã vệ sinh xong, bằng cách nhún người lên xuống hay xoay quanh qua lại trên gồ đá lồi, đang thập thò vây tròn xung quanh nó.
Chị Vương hiểu ý, bảo lũ nhỏ đi ra ngoài con đường mòn đứng chờ, rồi ẵm “anh” Cu Tèo đi tới đi lui tìm một ụ đá sạch nhất cho nó xoay tròn người lên đó.
Về đến nhà, mấy đứa con dì Bốn, dì Sáu, dì Bảy chia tay theo mẹ chúng ra về. Mấy đứa con cậu mợ Hai và hai đứa nhỏ ra giếng tắm. Chúng tắm với cả áo lẫn quần. Ướt sùng sũng bởi bao nhiêu gàu nước đùa nghịch, mấy đứa nhỏ chờ cho đến khi trời tối hẳn mới vào nhà thay áo quần.
Tối hôm ấy, hai đứa nhỏ ăn cơm với bà ngoại, bà mẹ, cậu Tám và anh Thu. Cơm tối có cá rô nướng, rau muống luộc như hôm trước nhưng có thêm món cua nướng do anh Thu bắt được khi đi làm đồng về, và canh chua cá thu do bà mẹ đem từ thành phố. Sau khi ăn cơm, anh Thu chong thêm một ngọn đèn dầu để làm cho hai đứa nhỏ mấy cái nồi cơm, mấy ấm nước, mấy cái chén và mấy tách trà bằng đất sét. Chị Vương dỗ anh Cu Tèo ngủ xong, chạy qua nhà bà ngoại rủ con chị sang nhà chỉ toán.
Vài đứa nhỏ hàng xóm thập thò trước ngưỡng cửa nhà bà ngoại và nhà cậu mợ Hai.