Tháng sau, 5 -1930, miền Nam có thêm một số nhân vật trí thức đang du học bên Pháp bị trục xuất về. Nhóm 19 người này gồm những thanh niên tân học, phần đông có khuynh hướng cộng sản, hoặc theo Nguyễn Ái Quốc hoặc khai mở con đường đệ tứ quốc tế ở Việt Nam. Đó là Trần Văn Giàu, Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Tạo, Hùynh Văn Phương, Lê Bát Cang, Trần Văn Chiêu v.v.
Phía Quốc Dân Đảng tại miền Nam cũng có những hạt nhân xuất sắc nhưng không may đều bị bắt cả: Trần Huy Liệu, Cao Hữu Tạo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Hòa Hiệp, Phạm Hoài Xuân, Võ Công Tồn v.v. đều nằm trong khám lớn. Và đúng như Lê Hửu Cảnh tiên đóan, khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị bắt, khi tổng bộ Quốc Dân Đảng tan vỡ, thì sẽ có những đảng viên không còn điểm tựa để trong mong ngày chiến thắng, họ sẽ bị lung lạc và bị quyến rũ về phía Cộng sản. Đó là trường hợp Trần Huy Liệu bỏ Quốc Dân Đảng sang Cộng Sản làm đến bộ trưởng tuyên truyền của chính phủ lâm thời Việt Minh. Hoặc Nguyễn Phương Thảo cũng bỏ Quốc Dân Đảng sang Cộng Sản và trở thành tướng Nguyễn Bình lừng lẫy sau này.
Trở lại đầu năm 1930, toàn cõi Bắc Kỳ sôi sục những vụ bắt bớ Quốc Dân Đảng. Phía Cộng Sản muốn tạo uy thế, liền xúi giục nông dân biểu tình trong dịp lễ Lao Động Quốc Tế ngày mùng 1 tháng 5. Ở Thái Bình, mật thám bắt được hàng loạt truyền đơn và cờ búa liềm ném đêm 30 tháng 4. Sáng hôm sau khoảng 300 nông dân kéo đến đình công sứ tỉnh. Mật thám cứ tưởng rằng đám nông dân ấy đều là đảng viên cộng sản nên nã súng bắn chết tại chỗ 15 người và cả trăm người khác bị thương. Nhóm cộng sản lãnh đạo thì giấu mặt, nên chẳng ai hề hấn gì cả!
Ngày 5 tháng 5, nhóm Cộng Sản Nam Định trong khi đang họp với tỉnh bộ Thái Bình để rút kinh nghiệm về cuộc biểu tình bị thảm sát vừa qua thì tình cờ biết được tin Ký Con từ Hải Dương sang Nam Định. Thời ấy, ranh giới Quốc Cộng chưa rõ nét, chưa thù hận. Những người yêu nước hoạt động phần lớn là biết nhau, có khi là bạn học chung lớp chung trường rồi mỗi người theo một phía. Đặc biệt là bên Quốc Dân Đảng thì hết sức lơ là, chẳng bao giờ đề phòng sự phản bội của phía Cộng sản. Ký Con lại là nhân vật nổi, tiếng tăm lừng lẫy, hầu như nhóm cách mạng nào cũng biết. Thành ra khi Ký Con về Nam Định, mật thám chưa có tin tức gì mà nhóm Cộng Sản tại đây đã hay biết rồi!
Tuy 3 nhóm Cộng Sản đã kết hợp hoạt động chung, nhưng trên thực tế thì lãnh đạo các tỉnh bộ tại miền Bắc đều nằm trong tay Đông Dương Cộng Sản Đảng tức Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội ngày trước. Nhân danh lý tưởng đảng, nhóm này luôn luôn chủ trương sắt máu và tàn nhẫn, điển hình là hồi tháng 5 năm ngoái, chính họ giết hai đồng chí của họ là Trịnh Thị Nhu và Trịnh Thi Uyển ở Hải Phòng rồi loan tin Quốc Dân Đảng là thủ phạm.
Bây giờ nghe tin Ký Con đang ở Nam Định, mà biết rõ cả địa chỉ Ký Con đang tạm trú, nhóm Cộng Sản Nam Định và Thái Bình họp liền họp nhau bàn kế hoạch ứng xử sao cho có lợi! Một đảng viên tên Đặng Xuân Nghiêu thuộc tỉnh đảng bộ Nam Định, hùng hồn phát biểu:
- Từ sau vụ bạo động ở Yên Bái hồi tháng 2, Quốc Dân Đảng kể như chấm dứt vai trò lịch sử của mình! Xong hẳn rồi, không còn gì phải bàn đến nữa! Vài đảng viên còn xót lại, tạm thời trốn tránh, sớm muộn gì thì cũng bị bắt nốt thôi! Bây giờ chỉ còn lại đảng Cộng Sản của chúng ta tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi thằng Tây. Ký Con, tức là Đặng Trần Nghiệp bí danh là Doãn, trưởng ban ám sát của Quốc Dân Đảng, vừa từ Hải Dương trốn sang đây. Tây thù Ký Con ngang với Nguyễn Thái Học, cho nên nay mai khi biết Ký Con ở đây, mật thám sẽ huy động lực lượng lớn về đây lùng bắt. Chừng ấy, tỉnh đảng bộ chúng ta sẽ bị vạ lây! Chi bằng chúng ta đi một bước trước, báo cho Tây biết. Ký Con người nhỏ bé, trói gà không chặt, chỉ cần một thằng mật thám là thừa sức bắt trói Ký Con. Nghĩa là mật thám không cần phải đưa lực lượng lớn về đây làm liên lụy đến chúng ta. Chẳng những thế, chúng ta lại còn có món tiền thưởng 5 nghìn đồng để sung vào quĩ đảng! Nhất cữ lưỡng tiện, cơ hội này không nên bỏ qua!
Đại đa số các đồng chí trong phòng họp đều gật gù tán thành, cho là diệu kế. Nhưng cũng có người gay gắt phản đối:
- Không được! Quốc Dân Đảng làm cách mạng tư sản. Chúng ta làm cách mạng vô sản. Tuy đường lối khác nhau nhưng họ cũng là những người yêu nước, nỡ nào ta đi ốt cáo! Từ vụ ám sát Bazin cho đến bạo động Yên Bái, họ đã cống hiến cho đất nước biết bao nhiêu liệt sĩ và biết bao nhiêu người hiện đang bị tra tấn trong tù. Ta tố cáo Ký Con là sai nguyên tắc đạo đức cách mạng! Ta giết Tây chứ không giết đồng bào! Xin hội nghị bác bỏ ý kiến của đồng chí Nghiêu!
Chưa ai kịp lên tiếng thì Nghiêu lại phân trần thêm:
- Tôi không có oán thù gì với Ký Con. Chẳng những thế, tôi còn quen anh ta từ lúc còn bé ở Phố Hàng Sơn. Bố tôi quen với bố Ký Con là ông Ba làm thợ vàng (thợ vàng hay thợ bạc vậy cha nội??) ở số 36 Phố Hàng Bạc Hà Nội. Tôi quen Ký Con và phục Ký Con. Nhưng tôi biết chắc là Ký Con sắp bị bắt. Nguyễn Thái Học đã bị bắt rồi. Tổng bộ Quốc Dân Đảng tan rã rồi. Mật thám đang càn quét mẻ lưới cuối cùng để xóa sổ Quốc Dân Đảng. Đàng nào Ký Con cũng bị bắt thì chẳng thà mình chỉ cho mật thám bắt để mật thám đừng bắt lây anh em của mình. Vả lại, 5 nghìn đồng là một món tiền lớn, ta dùng được biết bao nhiêu việc! Tôi vì đảng mà đề xuất ý kiến này!
Hội nghị biểu quyết thông qua, giao cho Đặng Xuân Nghiêu cùng hai đồng chí đi gặp mật thám. Nghiêu cùng phái đoàn chuẩn bị đi Hà Nội ngay. Có đồng chí ngạc nhiên hỏi
- Ơ hay, sao không báo ngay cho sở mật thám Nam Định mà phải lên tận Hà Nội là thế nào?
Nghiêu đáp:
- Louis Marty, tổng giám đốc tổng nha liêm phóng Đông Dương là người ký bản cáo tri tặng tiền thưởng cho ai bắt được Ký Con. Phải gặp nó mới chắc ăn. Báo cho mật thám Nam Định, ngộ nhỡ mật thám Nam Định trở mặt, không trả tiền mình thì làm sao? Với lại Louis Marty không biết mình là ai. Chứ biết đâu sở mật thám Nam Định có hồ sơ của mình, rồi họ loan tin là mình tố cáo thì mang tiếng lắm!
Mọi người đều khen Nghiêu suy nghĩ thấu đáo.
Thế là Nghiêu dẫn hai đồng chí ngày đêm chạy sang Hà Nội, đến đường Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo), xin vào gặp Marty, nhân vật lớn nhất của hệ thống mật thám bao trùm cả ba nước Việt, Miên, Lào. Nhân viên canh gát hỏi Nghiêu:
- Các anh là ai mà xin gặp quan Tổng Giám Đốc?
Nghiêu khúm núm đáp:
- Bẩm, chúng tôi là nông dân ở Nam Định. Có việc cơ mật cần trình với quan tổng giám đốc!
Nhân viên canh gác tò mò hỏi thêm:
- Việc cơ mật là việc gì?
Nghiêu liền rút trong túi áo ra tờ cáo thị và bức hình của Ký Con, mở ra và hạ giọng nghiêm trọng:
- Chúng tôi biết chỗ Ký Con đang trốn!
Gã nhân viên đứng bật dậy. Trước khi vào trình với Louis Marty, anh ta chỉ mặt Nghiêu và dọa:
- Việc này không phải là chuyện đùa! Nếu không chắc chắn thì đừng có mất thì giờ của quan lớn!
Nghiêu gật đầu quả quyết:
- Chúng tôi là dân quê mùa, có đâu dại dột lại gõ cửa quan nếu không dám chắc! Nhờ ông làm phước vào bẩm với quan hộ chúng tôi!
Anh ta chạy vào trình rồi quay ra xét tỉ mỉ từng người xem có mang thứ vũ khí nào trong mình không. Gặp Louis Marty, Nghiêu khúm núm trình bày cặn kẽ. Louis Marty giật mình sửng sốt, gọi ngay Amoux, giám đốc nha liêm phóng Bắc Kỳ, chỉ thị điều động khẩn cấp lực lượng mật thám Hà Nội, kéo tốc sang Nam Định.
Lộ trình 85 cây số, chỉ vài tiếng đồng hồ sau Amoux đã có mặt. Gã đến thẳng sở mật thám Nam Định, tập họp tất cả nhân viên và mắng như tát nước vào mặt:
- Đồ ăn hại! Ký Con đang có mặt tại đây, cả tỉnh Nam Định đều biết mà tại sao chúng mày không biết! Cáo thị dán đầy đường mà nó ngang nhiên đi lại trước mắt chúng mày. Chúng mày mù hết cả rồi phải không?
Rồi Amoux đưa địa chỉ và bố trí nhân viên về làng Năng Tình. Lực lượng tiến công chủ yếu là mật thám Hà Nội. Nhân viên mật thám Nam Định chỉ theo tăng cường mà thôi.
Sáng hôm sau, Ký Con thức dậy từ giã gia chủ và khăn gói ra đi. Nhưng vừa mới đẩy cửa ra, đã thấy cả một rừng mật thám Tây và ta vây chặt quanh nhà, súng ống loảng xoảng, vừa xông vào vừa quát tháo ầm ĩ. Chúng đập bá súng vào đầu vào bụng Ký Con liên tiếp rồi còng tay anh đẩy lên xe. Gia chủ chứa Ký Con cũng bị đánh nhừ tử tại chỗ rồi đưa về sở mật thám Nam Định để khai thác thêm. Hôm ấy là mùng 8 tháng 5, 1930. Trước khi đưa Ký Con về tổng nha ở Hà Nội. Amoux tập họp nhân viên mật thám Nam Định một lần nữa và nặng lời xỉ vả những kẻ tắc trách. Mấy gã trưởng toán người Việt, bị Amox lôi ra, tát mỗi đứa một cái tát tay nảy đom đóm mắt! Tất cả đều chỉ biết cúi đầu nhận lỗi!
Bản tin bắt được Ký Con được sở mật thám Hà Nội loan đi rất nhanh như một chiến thắng lớn. Chẳng những đám ký giả Pháp đang có mặt tại Hà Nội tò mò muốn đến nhìn mặt và phỏng vấn, mà ngay cả những kiều dân thường, không dính dáng gì đến chính quyền bảo hộ, cũng hiếu kỳ đòi vào gặp Ký Con, giống như họ đòi gặp Nguyễn Thái Học trước đây. Danh tiếng Ký Con lan truyền hai năm nay vì những hành động xuất quỉ nhập thần của trưởng ban ám sát, chuyên thi hành bản án của tòa án cách mạng. Anh lại được nhiều người thiêu dệt thêm cho anh trở thành huyền thoại.
Đến khi họ gặp thì họ càng sửng sốt vì Ký Con chỉ là một cậu thanh niên thư sinh hiền hòa, dáng người vốn nhỏ bé lại càng gầy guộc vì trốn tránh mấy tháng nay.
Gặp Ký Con trong văn phòng Amoux, nhà báo Louis Roubaud nêu nhận xét:
- Amoux là giám đốc công an của Pháp. Ký Con là giám đốc công an của Quốc Dân Đảng! Chẳng qua Ký Con thua, nên trở thành tù nhân của Amoux!
Rồi Rouboud hỏi Ký Con một câu quan trọng:
- Ông có phải là Cộng Sản không?
Ký Con nhấn mạnh:
- Tôi chỉ là một người cộng hòa, làm cách mạng giải phóng đất nước tôi!
Dĩ nhiên Rouboud biết điều đó. Nhưng quần chúng Pháp ngày ấy ít có ai có cảm tình với Cộng Sản, nên Rouboud muốn Ký Con xác nhận.
Bắt được Ký Con rồi, tổng nha mật thám đông dương giữ đúng lời hứa, trao tặng Đặng Xuân Nghiêu và hai đồng chí số tiền thưởng 5 nghìn đồng. Cả bọn hí hửng nhận tiền về Nam Định chuẩn bị ăn mừng.
Nhưng, thiên bất dung gian! Sở mật thám Nam Định từ khi bị Amoux khiển trách, ấm ức cho người điều tra xem đứa nào đã lên gặp Louis Marty. Trong sở có ông Phán Tảo phụ trách hồ sơ công văn, từ lâu vốn biết Đặng Xuân Nghiêu là đảng viên Cộng Sản mà Pháp thì đang rất ghét Cộng Sản. Biết, nhưng ông Tảo không nói ra vì công việc của ông chỉ lo giấy tờ, không phải nhiệm vụ đi bắt người. Nay thấy cả sở bị thượng cấp xỉ nhục, lại thêm mối bất mãn là đảng này tố đảng kia, ông Tảo liền cho xếp biết cái nhóm đi tố Ký Con chính là tỉnh đảng bộ Cộng Sản tỉnh Nam Định. Sở mật thám Nam Định điều tra thêm và xác nhận viên Cộng Sản.Thế là tiền thưởng chưa kịp tiêu đã bị đòn nhừ tử. Chánh sở mật thám Nam Định đích thân tát cho mỗi đứa mấy cái nẩy lửa và mắng:
- Tiên sư cha chúng mày! Ký Con về Nam Định, tao ngồi lù lù ngay ở đây, sao chúng mày không đến báo cho tao biết, mà chạy tuốt xuống tận Hà Nội để tâng công với tổng giám đốc Louis Marty! Tao không đáng để chúng mày nói chuyện à? Tao bị tổng giám đốc mắng như tát nước vào mặt vì tắc trách, thì hôm nay tao sẽ không tắc trách nữa. Tỉnh đảng bộ Cộng Sản của chúng mày sẽ tan tành!
Lập tức đàn em ùa vào lôi cổ họ xuống nhà giam và bắt đầu hỏi cung! Bấy giờ cả bọn mới chửi đồng chí thân yêu Đặng Xuân Nghiêu là vụng tính!
Tin Ký Con bị bắt làm Lê Hửu Cảnh choáng váng, dù rằng ông đã đoán trước việc ấy sẽ xẩy ra. Ông chỉ tiếc rằng không gặp được Ký Con từ sau đêm khởi nghĩa đến giờ. Trong thâm sâu, ông vẫn nhớ ơn Ký Con đã không thủ tiêu ông theo lệnh của Tổng Bộ. Giờ này thì chắc chả bao giờ còn trông thấy nhau nữa bởi ông tin chắc Ký Con sẽ lãnh án tử hình. Ông cũng chưa biết việc Ký Con bị bắt là do nhóm Cộng sản chỉ điểm. Vốn có ác cảm với Cộng Sản, nếu ông biết rõ việc này, thì mối hận của ông sẽ tăng lên gấp trăm lần!
Lê Hửu Cảnh ở lại Hải Phòng lo việc kinh doanh, nhưng mọi kế hoạch đều gặp trở ngại vì chẳng biết tin ai để mời hợp tác mặc dầu đã có số vốn khá lớn trong tay. Nhóm của Cảnh không biết tin ai đã đành mà chính những người dân thường chưa phải đảng viên cũng né tránh, ngại giao dịch với Quốc Dân đảng vì biết đoàn thể này đang bị lùng bắt khắp nơi. Tình trạng này, Cảnh đã từng gặp phải ở Hà Nội mấy tháng trước. Lúc được bầu lên nắm quyền đảng trưởng thay Nguyễn Thái Học. Cảnh nhìn trước trông sau thấy nhân sự của đảng thưa thớt quá, ông mới liên lạc với chi bộ học sinh để tìm vài đoàn viên trẻ, nâng lên làm việc cho cho bộ. Chi bộ học sinh vốn do Hồ Văn Mịch gây dựng từ khi đảng mới thành lập năm 1928. Hồ Văn Mịch là tấm gương sáng, có tác phong lãnh tụ nên được giới trẻ đặc biệt tin tưởng. Mịch cũng là người ở trọ chung nhà với Nguyễn Thái Học và được đảng trưởng hết lòng quí trọng. Chi bộ học sinh đang phát triển mạnh và vững thì Hồ Văn Mịch bị bắt sau vụ ám sát Bazin. Lúc ấy, Hồ Văn Mịch đang mắc bệnh lao, thân thể gầy gò, nằm điều trị trong nhà thương Phú Doãn. Mật thám vào còng tay, đưa anh đi và Hội Đồng Đề Hình kết án 10 năm cấm cố. Nhưng anh mới ở tù được 3 năm thì mất ngày 8 tháng 4 năm 1932 tại Côn Đảo.
Chi bộ học sinh từ ngày Mịch vào tù vẫn sinh hoạt đều đặn bởi Tổng Bộ còn hiện diện. Nhưng từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái và nhất là sau khi Nguyện Thái Học bị bắt, các đoàn viên trẻ như đàn ong vỡ tổ, xẩy đàn tan nghé, hoang mang như những con thuyền giữa đêm khuya mà không còn nhìn thấy ánh sáng hải đăng. Họ phân tán, không dám họp nhóm như thường lệ. Gặp nhau ở trường ở lớp thì né tránh nhau vì trường nào cũng bị Tây gài mật thám thật nhiều ăn-ten chỉ điểm. Tình hình bi đát ấy làm Lê Hửu Cảnh hết sức thận trọng. Ông cần người để hoạt động, nhưng cái hào khí của 2 năm trước, đang bị bao phủ bởi một lớp mây đen sợ hãi khiến ông chẳng biết tin ai. Hở một tí là bị Pháp chặc đầu hoặc đày đi biệt xứ, nhất là khi cả đảng trưởng Nguyễn Thái Học cũng như những nhân vật thần tượng của giới trẻ đều không còn hiện diện.
Bây giờ sang Hải Phòng tìm người hợp tác kinh doanh cũng vậy. Cảnh gặp muôn vàn vất vả, lại phải trốn tránh, thay đổi chỗ ở thường xuyên và cải trang liên tục. Giấc mộng đường dài phục hồi đảng của Lê Hửu Cảnh khó mà thực hiện được!
Từ Hỏa Lò, tin tức đưa ra cho biết: Ngày 17 tháng 6, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí sẽ lên đoạn đầu đài. Người dân bấy giờ vẫn quen miệng dùng chữ thời phong kiến gọi là “xử trảm”!
Chiều ngày 16 tháng 6, từ xà-lim dành cho những người lãnh án tù, nhóm tù nhân Quốc Dân đảng bị xích hai người làm một, dẫn ra khỏi Hòa Lò để ra ga Hàng Cỏ đi xe lửa lên Yên Bái. Nguyễn Thái Học đi ngang bất cứ phòng giam nào cũng nói thật lớn:
- Vỉnh biệt anh em! Chúng tôi đi trả nợ nước đây! Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu! Tổ quốc còn cần đến sự hy sinh của con dân nhiều hơn nữa. Nước nhà thế nào cũng được độc lập tự do. Kính chào các anh em ở lại!
Ai nghe ông nói cũng bùi ngùi rơi lệ, kể cả những tù hình sự. Phó Đức Chính cùng những đồng chí khác cũng lập lập lại cái ý nghĩ của đảng trưởng, nhắn nhủ và từ biệt mọi người.
Sở dĩ bên ngoài biết được là vì trong số những nhân viên cai ngục ở Hỏa Lò,có người mang nặng thiện cảm với Quốc Dân Đảng nói chung và kính nể Nguyễn Thái Học nói riêng, đã tìm cách loan báo bản tin ấy từ mấy hôm trước. Ông ta báo với người giao liên của cô Giang:
- Lúc đầu, Tây định kín đáo xử bắn thầy Học và các đồng chí của thầy ngay ở cổng Hỏa Lò để tránh mọi rắc rối. Nhưng quan Thống sứ bắt đưa lên Yên Bái vì hôm nọ đã xử trảm 4 người của Quốc Dân Đảng là nhóm Cai Hoằng, Cai Thuyết với hai nông phu ở pháp trường Yên Bái rồi. Quan Thống sứ bảo không có gì phải lo, vì sẽ có lính Lê Dương, lính Khố Xanh, lính Khố Đỏ, lực lượng cảnh binh và lính kín giữ trật tự! Tối 16 sẽ đáp tàu hỏa lên. Tảng sáng hôm sau là hành quyết!
Người giao liên tất tả chạy đi báo cho cô Giang biết. Cô Giang sai anh ta chạy lại nhà Minh để tìm Lê Hửu Cảnh. Nhưng Cảnh đã đi Hải Phòng rồi.
Minh theo người giao liên đến gặp cô Giang tại nhà của một đồng chí thuê buồng trọ ở phố Đỗ Hữu Vỵ, cửa bắc thành Hà Nội. Đỗ Hữu Vỵ là con của Đỗ Hữu Phương, nhân vật nổi tiếng trung thành với Pháp, mà người dân quen gọi là Tổng Đốc Phương. Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xương, tứ Lộc. Bốn người giàu nhất mịền Nam nhờ bổng lộc của Pháp. Con gái Tổng Đốc Phương lấy Hoàng Trọng Phu, Tổng Đốc Hà Đông, cũng là một nhân vật tay sai khét tiếng, từng vào nhìn mặt Nguyễn Thái Học ở Hỏa Lò vì hiếu kỳ Ba người con trai của Tổng Đốc Phương mang quốc tịch Pháp, người đầu làm đến đại tá trong quân đội Pháp, người kế làm chánh án của Pháp và bản thân Đỗ Hữu Vỵ là Đại úy không quân, tử trận trong đệ nhất thế chiến, được Pháp đặc tên phố ở Hà Nội. Sau này Đỗ Hữu Vỵ được đổi lại là Cửa Bắc, con phố nhỏ này có khá đông người tứ phương đến tạm cư, trong đó có nhiều người hoạt động cho cách mạng cả hai phía, Quốc Dân Đảng cũng như Cộng Sản.
Trong căn buồng nhỏ ở trên gác, Minh thấy cô Giang nước mắt lưng tròng, đứng ngồi không yên. Cô hỏi Minh:
- Anh Cảnh đâu?
Minh chớp mắt đáp nhỏ:
- Anh Cảnh xuống Hải Phòng rồi!
Cô Giang im lặng. Minh ái ngại hỏi:
- Chị có cần tôi xuống Hải Phòng tìm anh Cảnh không?
Cô Giang ngồi bệt trên sàn nhà, tựa lưng vào vách, y như cái hôm cô đến nhà Minh gặp Cảnh sau khi nghe tin Nguyễn Thái Học bị bắt. Cô quệt nước mắt và bảo:
- Tôi hỏi thế thôi, chứ đã đến nước này thì anh Cảnh cũng chịu bó tay chứ làm gì được! Vả lại, anh xuống Hải Phòng đã chắc gì gặp được anh ấy ngay. Chỉ còn có hai hôm nữa!
Cô bỏ bỡ câu nói, đầu gục xuống. Minh sớ rớ đứng bên cạnh, không bịết làm gì. Anh nhìn rõ tâm trạng của cô Giang. Trong giờ phút quá tuyệt vọng, cô muốn gặp Cảnh cùng các đồng chí khác chỉ để nhìn nhau mà cùng rơi lệ thôi, chứ làm gì được nữa! Muộn quá rồi! Một lúc sau, cô ngẫng lên lạnh lùng bảo Minh:
- Anh đi với tôi lên Yên Bái!
Minh gật đầu hăm hở nói:
- Chị muốn tôi đi đâu tôi cũng đi! Anh Cảnh đã dặn tôi ở lại đây nếu chị cần gì thì tôi … đỡ chị một tay! Huống chi chính tôi cũng mong muốn được chứng kiến giờ phút lịch sử của anh Học, của đảng!
Im lặng một chút, Minh cảm động tiếp:
- Tôi nhớ cái đêm anh Viên giết Bazin, cũng chạy lại kể hết đầu đuôi với tôi và bảo tôi mai sau phải viết lại lịch sử đảng vì tôi là nhà báo duy nhất của đảng chưa bị đi tù! Pháp trường Yên Bái còn quan trọng gấp vạn lần vụ Bazin. Tôi sẽ đi cùng chị!
Cô Giang không nói gì nữa, mắt mở trừng trừng nhìn qua cửa sổ. Mấy phút im lặng qua đi, cô quay lại bảo Minh:
- Bây giờ anh về đi. Chiều ngày kia anh lại đây! Lại sớm một tí!
Minh gật đầu:
- Vâng! Độ quá trưa thì tôi sẽ lại đây gặp chị. À. Nhưng mà tôi phải nói luôn. Tin đồn nhiều lắm chị ạ. Có người bảo tôi là Tây chỉ đưa những người tòng phạm lên Yên Bái thôi. Còn anh Học và anh Chính thì Tây đã xử bắn ngay trong Hỏa Lò rồi!
Minh muốn kể thêm một số tin đồn nữa mà giới nhà báo đang xầm xí mổ xẻ. Nhưng cô Giang xua tay nói:
- Anh cứ về đi! Trưa ngày kia anh lại đây. Tôi với anh đi Yên Bái!
Minh gật đầu chào và bước xuống thang gác.
Từ ngày gia nhập Quốc Dân Đảng, đây là lần đầu tiên Minh được đi công tác chung với cô Giang, nên trong lòng anh rất xúc động, mặc dầu anh biết chuyến đi này hết sức nguy hiểm, có thể là một cuộc hành trình sinh tử đối với Minh. Anh ngạc nhiên là cô Giang không rủ ai, mà lại kéo có mình anh theo. Chắc là vì cô biết anh là người tín cẩn của Lê Hữu Cảnh.
Từ giã căn gác trọ của cô Giang ở phố Đỗ Hữu Vỵ, Minh trở về căn phòng đìu hiu của mình, lòng xao xuyến hỗn độn, vừa lo âu vừa háo hức. Anh chưa biết ý định của cô Giang thế nào nên chẳng biết mang theo những gì. Anh ngồi xuống mép giường, lơ đảng lấy gói thuốc Mélia ra hút. Trong làn khói xanh đục, anh nhớ lại hình ảnh cô Giang đến đây lần đầu, ngồi bệt trên sàn nhà nức nở khóc vì Nguyễn Thái Học bị bắt. Rồi từ cô Giang, Minh miên man nghĩ đến Duyên và lòng thấy nao nao tội nghiệp. Duyên đã tìm đến với Minh, đã nằm trong cánh tay Minh để rồi từ giã chẳng biết bây giờ ở đâu. Với Minh thì quan hệ tình cảm giữa hai người không nghiêm trọng lắm, nhất là anh đang bị dày vò bởi viễn ảnh thê lương của đảng. Nhưng Minh biết, trên đường đời hôm nay và mãi mãi sau này, Duyên sẽ chẳng bao giờ phai mờ được hình ảnh của Minh trong tim. Chính trên chiếc giường nhỏ này, nằm bên Minh, Duyên đã tha thiết nói:
- Dù mai sau có gặp lại anh hay không thì em cũng cứ xem như em đã có chồng rồi!
Câu nói chân thành làm Minh cảm động lắm, mấy đêm liên tiếp nằm một mình cứ thao thức nhớ đến Duyên. Nhưng nhớ thì nhớ chứ hy vọng tái ngộ thì khó khăn muôn trùng bởi thời này hầu như bất cứ ai dấn thân vào đường cách mạng đều khó thoát khỏi tù đày, hoặc có khi mất mạng.
Xế trưa ngày 16 tháng 6, Minh đến nhà cô Giang như đã hẹn trước. Anh chuẩn bị sẳn hành trang đơn giản cho chuyến công tác đặc biệt sắp tới. Chuẩn bị cả tinh thần cho cuộc mạo hiểm bên cạnh người phụ nữ mà anh hết sức cảm phục. Nhưng vừa thấy Minh thì cô Giang xua tay bảo:
- Anh về đi. Tôi đi mình tiện hơn!
Minh há mồm ngơ ngác nhìn cô Giang. Chưa kịp hỏi tại sao cô đổi ý thì cô tiếp:
- Tôi nghĩ lại rồi. Anh không nên đi!
Minh chì chiết:
- Chị cho tôi theo chị chuyến này. Tôi muốn được nhìn anh Học và các đồng chí lần cuối.
Cô Giang nhắc lại:
- Tôi đi mình dễ xoay trở hơn. Dù sao mấy năm nay tôi cũng đã quen rồi. Anh về đi. Có cần gì thì tôi sẽ nhờ người liên lạc với anh!
Minh đứng sớ rớ một lúc rồi chia tay. Nhưng anh không về nhà. Anh ra thẳng sân ga Hàng Cỏ chờ cô Giang ngoài ấy. Trời còn sớm, nắng chưa tắt hẳn. Chung quanh Minh, đủ mọi thứ âm thanh hỗn độn vang lên. Tiếng còi tàu, tiếng rao hàng, tiếng nói chuyện, tiếng khóc trẻ con, tiếng quát nạt của đội xếp. Tiếng bước chân thình thịch đuổi theo một đứa ăn cắp vặt. Hoạt cảnh huyên náo này diễn ra hàng ngày nhưng chả bao giờ Minh chú ý cho đến hôm nay mới có dịp quan sát tỉ mỉ làm anh nảy ra ý định sẽ viết một bài phóng sự về đời sống ở nhà ga.
Minh tạt vào một quán nước ngồi lẫn trong đám đông những người lao động vất vả quanh năm. Anh cũng ăn mặc nghèo nàn như họ, cũng đội cái nón vải cũ mượn của ông Sửu, nên không ai để ý. Anh sốt ruột nhìn quanh sân ga, định bụng lát nữa sẽ nài nỉ cô Giang cho đi chung lên Yên Bái.
Ga Hàng Cỏ thành lập từ đầu thế kỷ, là một khúc rẽ quan trọng của thủ đô Hà Nội. (Ông Ngạn này, Hà Nội lúc bấy giờ đâu còn là thủ đô. Trình đình Nguyễn đóng đô ở Huế kia mà!!) Do nhu cầu phát triển kinh tế và chuyển vận quân sự, toàn quyền Paul Doumer đã xây dựng nhà ga cùng với cầu Sông Cái, thường được gọi là cầu Paul Doumer hoặc cầu Long Biên. Từ Hà Nội, các tuyến đường sắt nối liền biên giới Hoa Việt, trạm dừng ở Lạng Sơn, Lào Kay và tỏa đi Hải Phòng vào Vinh, sang Vientien và Nam Vang. Paul Doumer xuất thân là nghị sĩ của Pháp, làm toàn quyền Đông Dương từ năm 1897 cho đến 1902, sau khi khánh thành ga Hàng Cỏ thì về nước. Sau này, ông làm tổng thống Pháp và bị ám sát chết năm 1932. Năm năm toàn quyền Đông Dương cho ông nhiều kỷ niệm sâu sắt, được ông ghi lại trong cuốn Souvenirs.
Nơi đây, ở nhà ga tiên khởi này, chỗ Minh đang ngồi, ngày trước thời Hà Nội còn mang tên thành Thăng Long, là những bãi hoang bát ngát, dân tứ xứ đến cắt cỏ, bày thành một cái chợ nhỏ bán cho người trong thành để nuôi bò nuôi ngựa. Từ đó mới có tên Hàng Cỏ. Hàng Cỏ nằm ở khu vực Tây Nam Hà Nội. Ngày Noel năm 1898, chính phủ Pháp ban hành đạo luật thành lập đường xe lửa trên toàn cõi Đông Dương, kêu gọi cổ phần của các công ty lớn tham gia đầu tư. Năm 1902, nhà ga hòan tất và những năm kế tiếp, các tuyến đường chính yếu lần lượt được hoàn thành.
Nhà ga nhìn bề ngoài văn minh bề thế lắm, nhưng quanh khu vực nhà ga thì nhà cửa thưa thớt tiêu điều vì người An Nam chưa quen lối di chuyển bằng tàu hỏa, cho nên xe lửa phần lớn chỉ dùng để vận tải hàng hóa. Phải mất đến 20 năm sau, phố Hàng Cỏ mới dần dần lôi cuốn người về xây dựng nhà cửa tương đối sầm uất.
Minh đang miên mang nghĩ ngợi thì giật mình nghe tiếng hò hét từ ngoài cửa. Anh đứng bật dậy chạy ra xem. Chiếc xe tù nhân vừa đỗ lại. Một lực lượng hùng hậu gồm đội xếp, lính Lê Dương và mật thám áp giải 13 đồng chí Quốc Dân Đảng lên tàu hỏa. Minh không dằn nổi xúc động, nước mắt tự nhiên cứ trào ra. Anh cố xông lại gần, nhưng cũng giống như bao người dân hiếu kỳ khác, anh bị xua đuổi, đẩy hẳn ra xa, đứng lẫn vào đám đông, ứa nước mắt nhìn theo. Chỉ có 2 người Minh biết mặt là đảng trưởng Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính. Những người khác đều thuộc Binh Đoàn Yên Bái ở vùng khác đến tham gia trận đánh nên Minh chưa gặp bao giờ. Tất cả đều gầy guộc xanh xao, chân tay vướng xiềng xích loảng xoảng, nhưng vẫn giữ nét hiên ngang của những tấm lòng yêu nước thiết tha. Minh nhớn nhác nhìn quanh tìm cô Giang nhưng không thấy. Rồi chỉ trong khoảnh khắc, tất cả các tù nhân đều bị đẩy lên toa tàu, khép cửa kín lại và tiếng còi rít lên, bánh sắt từ từ nghiến trên đường rầy, đưa các anh hùng Yên Bái vào lòng đất mẹ. Chuyến tàu định mệnh được canh chừng cẩn mật, tăng cường tối đa lính gác ở mỗi toa. Minh không làm cách nào lên được. Anh chỉ biết nghẹn ngào đứng trông theo cho đến khi đoàn tàu khuất hẳn. Anh biết chắc bên cạnh anh cũng có nhiều đảng viên Quốc Dân Đảng ra tiển biệt đảng trưởng và 12 đồng chí. Nhưng anh không biết họ cũng như họ không nhận ra anh là người cùng đảng.
Minh nán lại, đi thơ thẩn trên sân ga, tự hỏi giờ này không biết cô Giang đang ở đâu. Có thể cô cũng như Minh, chỉ biết đau đớn đứng nhìn 13 đồng chí lên xe rồi khóc thầm bỏ về, chứ biết làm gì bây giờ!
Thật ra thì Minh đoán có phần đúng. Cô Giang cũng sẽ không thể lên được con tàu lịch sử này nếu không nhờ 2 đồng chí phụ đốt than và thợ máy trên tàu tìm cách đưa cô lên. Họ đưa bộ quần áo đàn ông cho cô mặc để giả làm thợ máy, rồi suốt quãng đường dài, cô ngồi giấu mình trong toa than, không đi sang toa khác được vì lính canh đứng ngồi rải rác khắp nơi.
Ngồi ủ rũ trong toa than, lòng cô cồn cào như lửa đốt. Trong cái tay nải nâu của cô đặt bên cạnh, có khẩu súng lục đã nạp đạn sẳn và mấy quả bom. Cô tưởng mình có thể cho nổ toa tàu chở tù nhân để giải cứu các đồng chí. Cô dự tính trong đầu là khi toa tàu vỡ tung, các đồng chí bỏ chạy thì mình cô sẽ đứng lại, dùng súng đương đầu với lính canh để các đồng chí thoát thân. Cô sẳn sàng hy sinh nằm xuống vì Nguyễn Thái Học và các đồng chí. Nhưng giờ này ngồi đây, tuy cùng chung một chuyến tàu, cô mới thấy đó chỉ là chuyện giả tưởng. Cô không thể nào tới gần cái toa tàu chở tù nhân được. Mấy trái bom đang nằm im trong tay nải kia, không biết rồi cô sẽ xử dụng vào việc gì!
Tàu dừng lại ở ga Yên Bái. Chiếc xe đen của nhà lao Yên Bái đã chờ sẳn. Mười ba tù nhân được đưa ngay vào nhà tù mấy tiếng đồng hồ rồi lại đưa trở ra pháp trường lúc gà vừa gáy sáng. Mọi việc xảy ra nhanh chóng dưới sự canh phòng của lực lượng vũ trang đông đảo. Dân chúng đứng xem xa xa. Trong màn sương vắng lặng, họ nghe tiếng hô vang của tù nhân “Việt Nam muôn năm! Việt Nam bất diệt”. Mỗi tiếng hô là một cái đầu rơi. Khoảng 5 giờ 30, tử tội cuối cùng là đảng trưởng Nguyễn Thái Học, chưa dứt tiếng hô, lưỡi dao đã phập xuống! Năm ấy, ông tròn 28 tuổi.
Cô Giang thất thiểu trở về. Mộng lớn không thành mà tình riêng cũng chẳng vẹn. Cô quyết định tìm cho mình một hướng đi. Cô viết lá thư tuyệt mệnh với tư cách là con dâu gửi lại song thân Nguyễn Thái Học. Rồi cô tìm cách sang chánh quán Nguyễn Thái Học, tức quê chồng ở làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Cô vào từ biệt gia đình chồng rồi đi bộ ra Xóm Mới làng Đông Vệ, cách Thổ Tang chừng một cây số. Ở đó có cái quán bán nước chè xanh của bà hàng quen thuộc dưới gốc cây đề, nơi cô từng ngồi với Nguyễn Thái Học và vài đồng chí Tổng Bộ. Cô vào uống nước xong, mới ra gốc cây dùng súng kết liễu đời mình như lời thề năm xưa ở đền Hùng. Hôm ấy là ngày 18 tháng 6 năm 1930, cô vừa tròn 22 tuổi.
Cái chết của đảng trưởng Nguyễn Thái Học là một sự giao động lớn trong lòng các đồng chí nhất là những người đang ở tù. Họ mất hết niềm hy vọng của tương lai. Nguyễn Thái Học như cây cột chống đỡ mái nhà, nay cây cột bị chặt đứt, họ biết căn nhà sớm muộn gì cũng sụp đổ.
Tuy thế, một số đồng chí vẫn kiên trì giữ vững mạch sống của đảng, nhưng chuyển hướng sang một con đường an toàn hơn. Ba hôm sau ngày 13 liệt sĩ bị hành quyết trên Yên Bái, Vũ Văn Giản vượt biên sang Trung Hoa và đổi tên là Vũ Hồng Khanh, trở thành một lãnh tụ quan trọng sau này.
Thầy giáo Vũ Văn Giản tham gia Quốc Dân Đảng từ buổi đầu, được nâng lên hàng cán bộ trung ương từ Hội Nghị Đức Hiệp, tháng 5 năm 1929, vì cần bổ xung nhân sự bị bắt sau vụ ám sát Bazin. Tại Hội Nghị Mỹ Xá bàn việc tổng khởi nghĩa, Vũ Văn Giản được giao công tác cùng 2 đồng chí Nguyễn Văn Chấn và Phạm Văn Tình, phát động các trận tấn công Kiến An và Hải Phòng. Cuộc khởi nghĩa thất bại, 75 đảng viên bị bắt, Vũ Văn Giản chạy thoát và bị tuyên án khiếm diện 20 năm tù. Bây giờ ông tìm đường trốn sang được Trung Hoa, liên lạc ngay với các đồng chí và kiều bào bên ấy. Vân Nam Đạo Bộ bầu ông lên thay thế Nguyễn Thế Nghiệp, bởi dù sao ông cũng trực tiếp có mặt trong cuộc khởi nghĩa đánh thực dân Pháp. Một số các đồng chí khác cũng dần dà từ trong nước trốn qua Trung Hoa để tiếp tục hoạt động, chẳng hạn như Trần Đông A và vợ là Mỵ Nương, Nguyễn Ngọc Sơn và vợ là Lê Thị Thăng, Bùi Văn Hạch, Lê Tùng Sơn, Vũ Tiến Lữ v.v. Trần Đông A, Bùi Văn Hạch và Lê Tùng Sơn sau này đều theo Việt Minh cả
Ở lại trong nước, chỉ còn nhóm Lê Hữu Cảnh quyết bám trụ.Ông thường xuyên ở Hải Phòng để lo công việc kinh doanh. Lâu lâu có việc cần mới về Hà Nội thì căn gác trọ của Minh là điểm hẹn để ông gặp gỡ một vài đồng chí tín cẩn. Việt Nam Quốc Dân Đảng vốn đã tiêu điều từ sau cuộc khởi nghĩa, lại càng xác xơ sau khi Nguyễn Thái Học bị xử tử. Các đồng chí chưa bị bắt thì cố gắng phân tán, trốn tránh, không dám hội họp với nhau. Trung ương gần như mất hẳn liên lạc với các tỉnh bộ. Mỗi địa phương đành phải thu hẹp hoạt động trong phạm vi riêng lẻ của mình.
Gần một tháng sau, đêm ngày 10 tháng 7 năm 1930, vào lúc tảng sáng, một toán khá đông mật thám bủa vây căn nhà ở Hải Phòng, nơi vẫn được coi là cơ quan cải tổ đảng, tức là chỗ liên lạc của tân ban chấp hành Tổng Bộ từ sau khi Nguyễn Thái Học bị bắt. Chúng đạp cửa lao vào, Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Xuân Huân đang ngủ trên giường, bị mất gã mật thám xông thẳng vào, vừa hò hét vừa rọi đèn, chẹn lấy cổ và toàn thân hai người. Cả Cảnh và Huân đều có súng lục để ngay ở đầu giường nhưng không lấy kịp, đành phải cắn răng chịu những cú đấm dữ dội vào mặt và vào bụng rồi tra tay vào còng. Ở buồng trong, lũ mật thám cũng vừa túm lấy đồng chí Lê Thị Thành lôi ra. Chúng lục lọi một lúc, lôi trong cặp da của Lê Hữu Cảnh tờ giấy ghi bản án tử hình toàn quyền Pìerre Pasquier mà Cảnh và cô Giang đã soạn từ mấy tháng nay. Ở buồng trong, chúng cũng khám phá ra hàng đống dụng cụ chế bom cùng công thức làm các loại chất nổ.
Tại Sở Mật Thám, trong căn phòng điều tra ở lầu 1, chỉ huy trưởng toán cảnh sát đặt biệt Pujol dùng mọi cực hình tra tấn Lê Hữu Cảnh và Nguyễn Xuân Huân. Lê Hữu Cảnh giả vờ bằng lòng hợp tác, sẳn sàng khai hết bí mật của đảng. Pujol cho Cảnh ngồi đối diện. Bất ngờ, Cảnh chộp bình mực trên bàn, ném thẳng vào mặt Pujol rồi lao đầu qua cửa sổ, nhảy lầu tự tử. Nhưng số ông chưa chết được, vì lầu thấp quá! Chúng lôi Cảnh vào nhà ngục giam cùng Nguyễn Xuân Huân. Năm sau hai người cùng bị xử tử ở trước cổng Hỏa Lò. Năm ấy Lê Hữu Cảnh 35 tuổi.
Hơn mười năm sau, tên Lê Hữu Cảnh được đặt cho một con phố ở Hà Nội để ghi nhớ một anh hùng chống Pháp giống như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Nguyễn Khắc Nhu và Ký Con. Nhưng khi Việt Minh cướp chính quyền, họ đã xóa tên Lê Hữu Cảnh khỏi con phố ấy!
Trở lại chuyện Hà Nội tháng 7 năm 1930, từ khi cô Giang tự tử và nhất là Lê Hữu Cảnh bị bắt, Minh khủng hoảng tinh thần trầm trọng, nằm liệt giường đến cả tháng. Đảng viên chẳng còn ai liên lạc với Minh nữa. Lý do đơn giản chỉ có hai người biết địa chỉ của Minh thì đều không còn nữa. Ngày ngày Minh nằm bẹp trên căn gác đìu hiu nóng nực. Thuốc thang thì chỉ có mình ông Sửu khập khiễng đi lên đi xuống, vừa chữa bệnh cho Minh, vừa tìm lời trấn an. Ông bảo Minh:
- Thầy cố tịnh dưỡng cho lại sức đi đã. Rồi nếu thầy còn muốn tiếp tục con đường cách mạng của thầy thì, cứ như tôi xét, giai đoạn này tạm thời thầy phải lánh sang Tàu. Bên ấy, nghe bảo lực lượng Việt Nam Quốc Dân Đảng lúc này hùng hậu lắm!
Minh thở dài đáp:
- Chắc cũng đành phải thế thôi. Đàng phải sang Tàu thôi. Ở lại thì hết đường hoạt động! Cô Giang thì chết rồi. Anh Cảnh, người đỡ đầu của tôi mà lúc nào tôi cũng tôn là bật thầy, chắc chắn sẽ bị chúng nó chặt đầu nay mai. Tôi phải làm gì để trả thù cho anh ấy chứ chẳng nhẽ lại bỏ cuộc!
Ông Sửu phân vân không nói gì. Ông cũng đồng ý với Minh bởi ông thấy rõ ở trong nước, Quốc Dân Đảng đã hết đất dụng võ, Minh nên ra ngoài chờ thời cơ.
Hai tháng sau, Minh bình phục hẳn mặc dầu người gầy xọp đi. Anh khỏi bệnh rồi, cái Nhi con bà dì, mới tình cờ biết tin anh bị đau. Cô chạy lại thăm hỏi và nấu cháo cho Minh liên tiếp cả tuần lễ, miệng cứ lập đi lập lại mãi một câu:
- Chết! Ốm nặng như thế mà chả cho em biết! Anh tệ thật! Ngộ nhỡ có thế nào thì làm sao?
Minh chỉ mệt mỏi cười không đáp. Cả năm nay, Minh tránh không liên lạc với gia đình bà dì vì Lê Hữu Cảnh thường đến gặp anh. Anh không muốn chuyện rủi ro của anh làm liên lụy đến người thân, nên anh không đến thăm Nhi, làm như anh đã dọn nhà đi chỗ khác! Anh dự định ăn uống nghỉ ngơi một thời gian cho lại sức rồi sẽ đi tìm đường qua bên kia biên giới.
Minh khỏi bệnh được khoảng hai tuần thì một hôm, lúc trời xế chiều, anh đang ngồi với ông Sửu bên kia đường, bỗng giật mình thấy một thiếu nữ đến trước cổng nhà anh, đứng thập thò trông lên gác. Rõ ràng người ấy đang tìm Minh. Anh nhíu mày nhìn sang. Cái dáng ấy làm anh nao nao nhớ đến cô Giang hôm tìm anh lần đầu. Cô gái vẫn đội nón lá nên anh không nom rõ mặt. Anh đứng dậy băng ngang qua đường, đến gần mới sửng sốt nhận ra Duyên! Anh đứng ngây người một lúc khá lâu vì bất ngờ, rồi mới định thần lật đật đẩy cánh cổng, kéo Duyên lên gác.
Chia tay đã hơn nửa năm, bao nhiêu sóng gió vây quanh, Minh chẳng bao giờ tin rằng còn có ngày gặp lại Duyên ở Hà Nội. Hai người bước vào phòng, khép cửa lại rồi ôm chầm lấy nhau. Duyên quăng cái nón xuống chân rồi gục mặt vào cổ Minh và lập đi lập lại:
- Em nhớ anh quá! Em lúc nào cũng nhớ anh!
Minh dìu Duyên lại, ngồi xuống giường và nói:
- Anh tưởng em đi công tác xa lắm rồi! Hóa ra vẫn quanh quẩn ở đây ư?
- Không! Quanh quẩn ở đây thế nào được! Em đi xa rồi chứ, sang mãi tận bên Thái Bình cơ mà! Nhưng em về hôm qua! Chạy liều lại đây thăm anh một tí rồi em lại đi ngay
Minh không ngạc nhiên:
- Thế lần này đi đâu?
- Em chưa biết!
Lúc bấy giờ Duyên mới nhận ra cái nét xanh xao ở Minh. Cô lo âu hỏi:
- Dạo này sao anh gầy thế? Nom như người mới ốm đấy!
Minh cười:
- Thì anh mới ốm dậy thật chứ nom cái gì!
Duyên chợt nhớ đến căn bệnh sốt rét của anh Tân cô thuở trước, lo lắng nắm tay Minh và bảo:
- Chết! Anh phải tẩm bổ vào! Khổ thân anh! Ốm đau mà chả có em bên cạnh!
Minh lại cười để trấn áp nỗi xúc động trong lòng. Anh bảo:
- Tại nhớ em quá nên mới ốm đấy!
Duyên sung sướng áp má vào ngực Minh. Nhưng cô lại buồn ngay vì sắp sửa chia tay người yêu, làm công tác giao liên khá xa, chẳng biết bao giờ mới gặp lại.
Vào thời điểm ấy, trong lúc Quốc Dân Đảng bị mật thám vùi dập tan tác thì phía Cộng Sản vẫn tung ra nhiều hoạt động mà chủ yếu là dùng nông dân làm bình phong. Đó là phong trào thành lập các công hội đỏ, một hình thức nghiệp đoàn có sức hấp dẫn giới lao động, thợ thuyền, bần nông, vì quá mới lạ và lôi cuốn. Lần đầu tiên trong truyền thống xã hội mà giới bình dân luôn bị bỏ quên, những người chân lấm tay bùn được chú ý đến, được cán bộ đến hòa mình chỉ bảo quyền lợi của mình! Thành ra họ hăng hái tham gia bất chấp nguy hiểm. Đáng chú ý nhất là cao trào Sô Viết Nghệ Tỉnh có đến mấy ngàn nông dân vác cuốc đi biểu tình. Cao trào này do Nguyễn Phong Sắc chỉ đạo. Sắc là một trong những đảng viên cộng sản tiền phong trong nhóm Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự. Sau khi thành lập đảng Cộng Sản tại Hà Nội tháng 3 năm 1929, Sắc giữ chức Bí Thư Thành Bộ Hà Nội. Năm sau, Sắc vào miền Trung tổ chức nông hội đỏ, xúi nông dân biểu tình. Pháp dùng máy bay ném bom, giết chết 217 nông dân. Riêng Sắc và các cán bộ thì không hề hấn gì cả. Nhờ thành tích ấy, Sắc lên làm Bí Thư Xứ ủy Trung Kỳ. Mật thám biết Sắc là đầu não của phong trào nông dân nổi loạn, nên cử nhân viên theo dõi và năm sau thì bắt được Sắc ở ga Hàng Cỏ, đem thủ tiêu mất xác.
Từ Hà Nội, Duyên nhận công tác đầu tiên ở Thái Bình, cùng với nông dân tham gia cuộc biểu tình. Duyên có nhiệm vụ là trà trộn vào đám đông để hò hét, xúi bẩy. Pháp bắn chết 15 nông dân, nhưng may mắn Duyên không sao. Cô được đánh giá phẩm chất cách mạng cao và lại được điều về Hà Nội nhận nhiệm vụ khác.
Sang tháng 8 năm 1930, Đại Hội Công Hội Đỏ Quốc Tế họp ở Maxcơva, trong đó thông qua nghị quyết thúc đẩy vận động công hội đỏ Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc bí mật thông báo cho các đồng chí trong quốc hội biết, sẽ triệu tập Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ nhất tại Hồng Kông vào tháng 10, nhằm bầu ban chấp hành trung ương đảng, đồng thời cải danh đảng Cộng Sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương theo chỉ thị của Liên Xô. Lúc ấy, một đệ tử thân tín của Nguyễn Ái Quốc là Trần Phú, 26 tuổi, vừa tốt nghiệp khóa huấn luyện chính trị ở đại học Đông Phương bên Liên Xô về, sẽ ngồi ghế trụ trì đại hội vì Nguyễn Ái Quốc muốn tấn phong Trần Phú lên chức Tổng Bí Thư tiên khởi của đảng.
Được tin này, các đồng chí trong nước vội vàng thành lập ngay một toán giao liên gồm toàn phụ nữ, để cử đi liên lạc các nơi, thông báo mệnh lệnh của Nguyễn Ái Quốc. Duyên là một trong những phụ nữ ấy. Cô có nhiệm vụ cầm tờ mật lệnh viết bằng ám hiệu vào Nghệ Tỉnh để đưa tận tay Nguyễn Phong Sắc, bí thư Xứ Ủy Trung Kỳ. Về Hà Nội, Duyên vẫn ở tạm hiệu thuốc Bắc của ông Chu và dự định ngày mai sẽ lên đường.
Dĩ nhiên, tất cả những chuyện này cô không thể kể với Minh, dù cô đã từng thú nhận là cô hoạt động cho Đông Dương Cộng Sản Đảng. Cô chỉ có khoảng một giờ đồng hồ để ngồi bên Minh cho vơi nỗi nhớ nhung từ hôm chia tay, cho nên cô không muốn nhắc đến hoạt động trong trái tim đang rung động. Cô nũng nịu hỏi:
- Anh có nhớ em thật không hay là chỉ nói nồm cho em mừng?
Duyên vừa dứt câu, Minh chưa kịp đáp, chỉ ngồi sát lại gần Duyên hơn thì cánh cửa bật tung. Hai gã mật thám, hai khẩu súng chỉa vào. Minh và Duyên cùng hốt hoảng đứng bật dậy. Một gã mật thám nhe răng cười hềnh hệch, nhìn Duyên bằng ánh mắt đắc thắng, nói giọng riễu cợt:
- Chào đồng chí Ly! Chúng tôi theo đồng chí từ Thái Bình về đây vất vả quá!
Quay sang Minh, gã hỏi:
- Còn đồng chí này tên gì? Bí danh là gì?
Gã hỏi câu đó là hỏi thật vì chưa biết Minh là ai. Khi phát hiện ra Duyên là đảng viên Cộng Sản vận động cuộc biểu tình ở Thái Bình, mật thám không muốn bắt ngay. Bắt một con bé này thì có lợi gì đâu! Phải khám phá ra những đứa chỉ huy Duyên mới đáng làm! Chúng theo Duyên về tận nhà ông Chu, gài người phục kích để xem những ai ra vào hiệu thuốc Bắc đó. Rồi chúng lại theo Duyên đến căn gát của Minh và tin chắc nhà Minh phải là một cơ quan quan trọng của Thành Bộ Đảng Cộng Sản Hà Nội.
Duyên tái mặt không biết nói gì, trong khi đứa thứ hai nhét súng vào cạp quần để còn Minh. Gã quay sang bảo đồng nghiệp:
- Hóa ra cái ổ Cộng Sản nằm lù lù ngay ở đây mà mãi đến hôm nay mình mới biết!
Minh cố lấy lại bình tỉnh đáp:
- Tôi đâu có phải Cộng Sản? Các ông bắt tôi về tội gì? Tôi là nhà báo, các ông không có quyền bắt người trái phép!
Gã mật thám đang nhe hàm răng ám khói ra cười với Duyên, bổng nghiêm mặt, cầm súng lục đập thật mạnh vào mặt Minh làm anh tóe máu ở miệng và sưng vù một bên ở mắt. Gã nói:
- Câm mồm! Tao không hỏi, ai cho phép mày nói? Về sở Liêm Phong tha hồ mà nói! Mày không phải Cộng Sản sao mày lại chứa chấp con Cộng Sản này? Mày là gì của nó? Chồng nó hay đồng chí của nó?
Bây giờ Duyên cũng bắt chước Minh, lên tiếng:
- Các ông nhầm rồi! Tôi không có tội gì cả! Sao lại bắt?
Gã mật thám đáp:
- Vũ Thị Duyên, ở Hải Ninh, ai chả biết mà bày đặt đổi tên là Ly. Con chị của mày là Hậu cũng bày đặt lấy bí danh là Quyết! Đừng có nỏ mồm nữa. Con chị của mày trong Hỏa Lò đã khai hết rồi!
Bây giờ Duyên mới biết mình bị lộ tông tích từ vụ biểu tình ở Thái Bình. Nhưng chúng không bắt ngay. Chúng theo chân Duyên về Hà Nội để tóm trọn ổ những cơ quan mà Duyên liên lạc, trong đó có Minh.
Hai gã đẩy Minh và Duyên ra cửa, Minh vừa đi vừa nói:
- Tôi không phải là Cộng Sản. Tôi là nhà báo, không tin các ông cứ liên lạc với tòa báo của tôi!
Gã mật thám nạt:
- Câm mồm! Ông lại vả cho mấy cái nữa bây giờ! Đi!
Ra khỏi cửa, Minh thấy lố nhố có mấy gã mật thám nữa đứng trên nóc nhà hàng xóm. Nhìn xuống chân thang, còn có một thằng Tây đeo kính đen, tay lăm lăm khẩu súng ngắn. Minh nhướng mắt nhìn sang bên kia đường. Quầy mũ của ông Sửu đã đóng cửa và chắc ông vừa về thì mật thám đến vây nhà Minh.
Gã mật thám đứng né sang một bên để tránh lối cho Minh và Duyên bước ra lề đường. Chiếc xe tù đã đậu sẳn trước mặt. Hai gã mật thám đẩy Minh và Duyên lên xe. Thằng Tây từ từ bước theo, leo lên băng trước.
Vừa chui vào xe, Duyên giật mình sửng sốt thấy vợ chồng ông Chu đã ngồi sẳn trên đó, hai tay bị còng quặt ra phía sau. Hai chân cũng bị xích vào thành ghế. Cả hai khuôn mặt đều bê bết máu me. Ông Chu ngước nhìn Minh rồi quay sang Duyên bằng ánh mắt oán hận. Không biết ông oán hận vì Duyên đã không kín đáo, để vợ chồng ông bị bắt lây, hay ông đã oán hận vì Duyên đã đi làm cách mạng mà vẫn còn mê trai, tranh thủ tìm đến với Minh!
Duyên không quan tâm, cô đau đớn nhìn vết máu trong miệng Minh ứa ra và nhất là một bên mắt sưng húp lên, làm biến đổi hẳn khuôn mặt của Minh. Cô nức nở bảo Minh:
- Chỉ vì em làm liên lụy đến anh!
Minh chỉ khẻ mép cười gượng. Anh cười vì bấy lâu nay anh cứ nghe ông Sửu và nhất là Lê Hửu Cảnh đả kích Cộng Sản, đồng thời khuyên anh nên đề phòng Cộng Sản. Ấy thế mà cúôi cùng mật thám lại bắt Minh vì tội hoạt động cho Cộng Sản! Cuộc đời thật lắm trớ trêu!
Hai gã mật thám ngồi canh chừng tù nhân, nghe Duyên tỉ tê với Minh, đưa mắt nhìn nhau mĩm cười khinh bỉ! Chúng đâu có lạ gì những màn kịch quá quen thuộc này. Duyên giả vờ làm như Minh không liên quan gì đến hoạt động của Duyên để gỡ tội cho Minh! Câu nói ấy của Minh làm cho chúng tin chắc Minh là nhân vật quan trọng của Thành Bộ Cộng Sản Hà Nội mà Duyên phải hy sinh nhận tội một mình hòng cứu Minh. Trò này chúng đã gặp quá nhiều lần rồi! Duyên không thể qua mặt chúng được!
Riêng ông Chu nghe Duyên tâm sự với Minh, ông ứa gan chỉ múôn chồm lên vả cho Duyên mấy cái. Ông không nhận ra Minh đã từng đến hiệu thuốc của ông hai lần. Không nhận ra vì mắt của anh sưng húp, mất hết mọi nét cũ. Ông chỉ biết Duyên đã nhận công tác của Đảng mà lại vi phạm nguyên tắc bí mật, đến gặp người yêu thì tội ấy không thể dung tha được! Một kẻ đã thóat ly làm cách mạng thì dù tình cờ có gặp bố mẹ mình cũng phải tránh mặt, huống chi là người yêu! Con người sơ hở như thế thì làm sao tránh khỏi bị mật thám theo dõi. Mà vì Duyên bị theo dõi từ Thái Bình nên vợ chồng ông Chu mới bị bắt! Trong khoảnh khắc ông nhận ra tất cả sự tầm thường ở con người Duyên, từng làm bí thư chi bộ xã Hải Ninh mà không ngờ lại yếu mềm tình cảm đến thế! Trâu tìm cọc chớ bao giờ cọc lại tìm trâu! Thế mà Duyên lại tự ý mò đến với Minh! Ông lắc đầu thở dài, cúi xuống....
Xe đã đóng kín cửa và máy vẫn đang nổ, nhưng thằng Tây ngồi phía trước vẫn chưa cho lệnh chạy. Vì lúc nãy, khi hai gã mật thám đẩy Minh và Duyên ra xe thì hai gã mật thám khác từ nóc nhà nhảy xuống vào nhà Minh để lục lọi tìm tài liệu. Khá lâu, một gã mới xúông, nói nhỏ với thằng Tây vài câu. Bây giờ thằng Tây mới phất tay ra hiệu cho xe lăn bánh, đưa Minh ra khỏi khu Khâm Thiên để về sở Liêm Phóng trên đường Gambetta. Qua ô cửa mắt cáo nhỏ xíu bên hông xe, Minh cố ngoái nhìn lại căn gác của mình một lần cuối, vì chẳng biết bao giờ mới có dịp quay trở lại.
Năm 1936, Mặt Trận Bình Dân lên nắm chính quyền ở Pháp, báo chí Pháp thường gọi là Le Front Populaire, là tập họp của 3 đảng: Đảng Xã hội, Đảng Xã Hội Cấp Tiến và Đảng Cộng Sản. Do cuội nổi dậy của dân chúng và thợ thuyền ngày 6 tháng 2 năm 1936 chính phủ tư bản phải từ chức để nhường cho Mặt Trận Bình Dân nắm quyền. Sự kiện này phần nào làm thay đổi bộ mặt các xứ thuộc địa, điển hình là những tù nhân chính trị phạm án nhẹ được đồng loạt phóng thích.
Không hẹn mà gặp, chị em Hậu và Duyên cùng ra tù chung một đợt với Minh. Kiệt, người yêu của Hậu cùng bị bắt ở ngã Lò Rèn, vì là bí thư chi bộ nên bị đưa ngay ra Côn Đảo lãnh án lâu dài cùng với Lê Tiến
Ở nhà tù ra, Hậu, Duyên và Minh được lệnh phải trở về trình diện quan Huyện nguyên quán rồi chờ lý trưởng Hải Ninh lên lãnh về làng để giáo dục và kiểm soát!
Ông bà Truyền đón Minh về, bảo con ở lại Hải Ninh lấy vợ, đừng lên Hà Nội nữa. Minh chỉ cười, vì Minh cũng chưa biết mình sẽ làm gì trong những ngày sắp tới. Dự tính mà anh nung nấu suốt gần 6 năm tù là anh sẽ viết lại những chuổi ngày hào hùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ buổi thành lập cho đến khởi nghĩa Yên Bái. Đó là công tác mà anh cho là ý nghĩa nhất trong đời.
Tính ra, chỉ trong hai năm 1929-1930, thực dân Pháp đã đưa lên máy chém 37 chiến sĩ Quốc Dân Đảng và khoảng 1000 đồng chí bị lưu đày. Trong những năm Minh ở tù, tình hình bên ngoài thay đổi khá nhiều: Việt Nam Quốc Dân Đảng lớn mạnh bên Trung Hoa, nhưng lại âm thầm tại quốc nội. Một số những mất mát đáng tiếc là nhiều đảng viên bỏ hàng ngũ chạy sang phía cộng sản.
Hậu và Duyên trở về mái nhà xưa ở Hải Ninh, xum họp với ông bà giáo Lương rồi ngay đêm đầu tiên gặp lại vài đồng chí trong chi bộ. Gọi là tái ngộ nhưng thật ra người cũ chẳng còn ai. Nhâm thoát ly ngay sau khi Duyên ra đi. Kết cũng được kết nạp và được gọi sang Thái Bình. Những cô khác lần lượt đều lên đường và đa số hiện ở tù hoặc được thả về nay mai.
Về lại căn nhà xưa, mọi thứ chung quanh Hậu và Duyên chả có gì thay đổi. Có chăng chỉ cũ nát thêm cùng với tuổi già của ông bà Lương. Duyên như người chết sống lại, vui mừng không những chỉ vì được trả tự do mà còn vì gặp lại Minh. Cô sang thăm bố mẹ Minh, hy vọng nối lại mối tình xưa để được về làm dâu ông bà Truyền. Đường cách mạng xem chừng phai nhạt dần trong lòng Duyên.
Hậu thì khác, mấy năm tù đày không làm cô nản chí. Cô sẽ bắt liên lạc lại và quay về lý tưởng đánh Tây
Hôm ấy, cả nhà đi vắng. Hậu thơ thẩn ra đầu hiên, ngồi bên gốc mít cạnh cái cối xay mà hai chị em thường xay lúa những đêm trăng, ôn lại bao nhiêu kỷ niệm từ lúc anh Tân còn sống. Những khuôn mặt đã đi qua chặng đường sóng gió của Hậu, trong chốc lát đều hiện về rõ mồn một trong trí nhớ. Trần Khải, Lê Tiến, Ngô Gia Tự... Rồi những đồng chí sống chung khi Hậu mới thoát ly, xuống ngõ Lò Rèn Hà Nội. Anh chàng Thông hiền hòa, thằng Mão phản bội đã đưa Hậu vào tù, và nhớ nhất là Kiệt, người yêu ngắn ngũi của Hậu giờ đang ở Côn Đảo. Bất giác Hậu thở dài và lệ trào ra khóe mắt.
Một tháng sau, khi mọi việc đã trở lại bình thường, hai chị em đã tẩm bổ ăn uống cho lại sức, thì bí thư chi bộ Hải Ninh đến tìm Hậu và Duyên. Bí thư bây giờ không còn là phu nữ nữa, mà là một anh thanh niên làm nghề thợ mộc trong làng. Hậu cũng có biết anh ta trước khi Hậu đi tù. Anh tên Đỗ, thuở nhỏ thường chăn trâu cho ông chánh tổng. Từ hôm Hậu về, anh biết Hậu bị lý trưởng theo dõi nên anh tránh mặt. Hôm nay anh phải giả vờ đến gặp ông Lương để hốt thuốc và tìm cách gặp Hậu. Anh đưa cho Hậu mảnh giấy nhỏ rồi ra về ngay.
Hai hôm sau, Hậu cắp thúng ra đồng, đi về hướng lò gạch cũ của làng Hải Ninh. Cái lò gạch ấy giờ này đã bỏ hoang vì người ta xây lò mới gần bờ sông. Đỗ đang chờ Hậu ở trong đó. Chi bộ cần bố trí ngay công tác mới cho chị em Hậu, vì tình hình chính trị lúc này tương đối dễ thở hơn nhờ sự can thiệp của mặt trận bình dân bên Pháp. Nhưng trước khi giao nhiệm vụ, đồng chí bí thư huyện cần gặp riêng những người đã từng ở tù để động viên cũng như kiểm tra thái độ của họ, bởi kinh nghiệm cho thấy nhà tù thực dân với những trò tra tấn quá dã man, đã làm nản chí nhiều người rồi đâm ra bỏ cuộc.
Hậu vừa khom người chui vào, Đỗ đon đả đứng dậy và bảo:
- Đồng chí bí thư huyện hẹn chúng mình ở đây. Chắc cũng sắp đến!
Hậu ngạc nhiên hỏi:
- Từ huyện xuống đây cũng xa chứ?
- Không, không! Đồng chí ấy đang công tác ở dưới này. Đêm qua đồng chí ấy ngủ ở Hải Ninh!
Rồi Đỗ ân cần thăm hỏi sức khỏe của Hậu và Duyên. Dù sao, Đỗ cũng nể Hậu vì cô từng là bí thư đầu tiên, đã có công gầy dựng nên chi bộ Hải Ninh, lại ngồi tù đến 6 năm. Hai nguời trao đổi kinh nghịêm một lúc thì trên con đường đất băng ngang cánh đồng, có bóng người đàn ông đội nón, vác cuốc, đi lại phía lò gạch. Đỗ nhỏm người trông ra và bảo:
- Chắc anh Mão đấy! Đúng rồi! Anh Mão! Gặp chị, chắc anh ấy mừng lắm!
Nghe đến tên Mão, Hậu sửng sốt trố mắt hỏi lại:
- Anh Mão nào?
Đỗ cười:
- Anh Mão, bí thư huyện chứ anh Mão nào! Đồng chí ấy có nhiều kinh nghiệm công
tác, đi sát quan điểm vô sản và làm việc gì cũng có lý có tình!
Hậu đứng bật lên, tiến ra cổng lò gạch và trố mắt nhìn ra đường. Trong giây phút cô cay đắng nhớ lại hôm mật thám xông vào bắt cô và Kiệt chỉ vì Mão ghen tức, đi tố cáo. Cô thấy uất nghẹn trong cổ, mặt cứ tái dần. Cho đến khi ngừơi đàn ông tiến lại gần, còn cách khoảng hơn mười bước thì Hậu run rẩy muốn ngả quị, vì quả thật đó là Mão của 6 năm trước ở chung nhà, đóng vai làm chồng Hậu tại ngã Lò Rèn!
Canada tháng 7 - 2003
Hết