Dòng Mực Cũ

Chương 13

Trở về Hà Nội, Lê Hửu Cảnh lại tìm đến nhà Minh. Bao nhiêu địa chỉ quen giữa những đảng viên nội thành, gần như đã bị bật gốc hết, giờ này chỉ còn nhà Minh là nơi mà Cảnh cho là an toàn hơn cả. Chính Minh cũng bảo với Cảnh như thế và hân hoan đón Cảnh về tá túc.

Ông Sửu vẫn ngày ngày ngồi bán mũ ở bên kia đường. Ông đau xót chia sẻ với Minh từng bản tin thất trận của Quốc Dân Đảng mà ông nghe ngóng được. Có hôm ông dẹp cửa hàng sớm hơn thường lệ, nhưng không về. Ông leo lên gác ngồi nói chuyện với Minh cho vơi nỗi sầu đang chất chứa trong lòng cả hai người. Lúc ra về, ông đứng ở đầu cầu thang, nhìn sang nóc nhà hàng xóm và bảo Minh:

- Thầy còn tính trước một lúc nào đó, thầy phải leo nóc nhà người ta mà chạy không? Tôi giao hẹn với thầy thế này: Mỗi khi thấy thầy sắp sửa xuống đường, thầy nên đứng ở cửa sổ nhìn sang quầy mũ của tôi. Nếu tôi thấy có kẻ khả nghi rình sẵn, tôi sẽ lấy cái khăn mù-xoa trắng ra lau mặt. Thầy nhớ đấy. Mù-xoa trắng. Trừơng hợp ấy, thầy đừng xuống cầu thang. Thầy nên trèo nóc nhà hàng xóm mà chạy trốn!

Minh cảm động chớp mắt bảo:

- Mật thám thường chả bắt ai ban ngày đâu! Giả như chúng nó có đến vây nhà tôi thì ông đã dọn hàng về từ lâu rồi! Nhưng dù sao thì tôi cũng cảm ơn ông lúc nào cũng chu đáo!

Hôm sau, Minh đang bồn chồn lo âu thì Cảnh đến tìm. Trong đêm đảng khởi nghĩa, 10 tháng 2, Cảnh đã từng nằm đây với Minh, nôn nao chờ ngóng tin tức khắp nơi. Cảnh cay đắng không được tham dự mặt trận nào dù anh và tổng bộ có những gắn bó đồng lao cộng khổ từ buổi ban đầu thành lập đảng. Anh muốn góp một tay súng, mang kinh nghiệm cựu quân nhân của anh ra chiến đấu. Nhưng đơn vị nào dường như cũng ngại đón anh. Anh phân trần với Minh:

- Cô Giang bảo tôi lên Yên Bái. Khoảng 300 đồng chí của mình từ dưới Phú Thọ lên, tập trung trong rừng sơn. Tuyến xuất phát sẽ từ rừng sơn. Tôi biết cai Hoằng chỉ huy binh đoàn ở đấy, là người rất dũng cảm, tôi rất nể. Tôi muốn nghe theo lời cô Giang, nhập vào đoàn quân ấy. Nhưng chỉ ngại một điều là, ngộ nhỡ kế hoạch tấn công của mình bị giặc biết vì có kẻ nội phản tố cáo, thì chắc chắn sẽ có người nghi tôi là bán đứng đồng chí cho Tây! Thành ra tôi đành về đây nằm chờ!

Minh ngậm ngùi cảm thông nỗi dằn vật của Cảnh. Minh thấy Cảnh sốt ruột đi tới đi lui, chốc chốc lại thở dài. Cho đến khi nghe tin các nơi đều thất bại, Cảnh đứng ngồi không yên, tạm biệt Minh ra đi, Minh hỏi:

- Anh đi đâu bây giờ?

- Tôi phải gặp anh Học để khuyên anh ấy sang Tàu!

- Biết anh Học ở đâu mà gặp?

- Tôi đoán chỉ có vùng Gia Bình bên Bắc Ninh là an toàn khu của đảng. Anh Học sẽ chạy về đấy ẩn núp.

Thế là Cảnh tất tả lên đường và quả nhiên anh gặp Nguyễn Thái Học trên bến sông Kênh Vàng. Cảnh vẫn tiên liệu là sớm muộn gì, Nguyễn Thái Học cũng gặp nạn. Anh chỉ không ngờ buổi gặp gỡ ở Gia Bình lại là lần chót anh ăn cùng mân ngủ cùng giường với Nguyễn Thái Học.

Cảnh quay lại Hà Nội vài ngày mới hay tin Nguyễn Thái Học đã bị bắt. Tin này được thực dân loan đi rất nhanh như tiếng reo vui của bọn thống trị. Cảnh lặng người muốn té quị xuống khi biết chắc Nguyễn Thái Học đã sa vào tay giặc. Hôm ấy, hai anh em đang ăn cơm trên gác nhà Minh. Cảnh quăng đũa bát đứng dậy, ra vịn cửa sổ ngó xuống đường, mắt nhòa lệ. Với mật thám Pháp, bị bắt tức là chết mà là chết thảm sau những trận đòn tra tấn!

Từ Bắc Giang, cô Giang cũng được một đồng chí từ Bắc Ninh qua, báo cho biết Nguyễn Thái Học đã bị bắt, nhưng cô không tin. Cô nhất định không tin là người yêu của cô có thể rơi vào tay giặc một cách dễ dàng như vậy! Cô gắt lên:

- Tây nó loan tin như thế để trấn áp dư luận và để khủng bố tinh thần đảng viên, làm cho đảng viên chúng ta tuyệt vọng mà bỏ cuộc! Tôi không tin! Nhất là có Sư Trạch đi bảo vệ!

Mọi người nhìn cô tội nghiệp. Chuyện đã rõ như thế mà cô vẫn còn nuôi hy vọng. Lúc ấy, cô đang bàn với các đồng chí đánh chiếm một đồn lính Khố Xanh ở Bắc Giang để làm căn cứ địa và để gây uy tín cho đảng sau những thất bại trong đêm khởi nghĩa. Bỗng nghe chuyện Nguyễn Thái Học và Sư Trạch bị bắt ở ấp Cổ Vịt, bề ngoài cô cố nói cứng, nhưng trong lòng hoang mang cực độ. Người đưa tin, gọi riêng cô ra một góc và kể:

- Chính tôi vừa gặp đồng chí Kính tức là Chánh Kính bên Gia Bình. Anh Kính, anh Diến và anh Tuyên cùng bị bắt chung với anh Học và Sư Trạch ở ấp Cổ Vịt. Bọn tuần phu giải 5 đồng chí ấy về nộp cho thằng chủ đồn điền. Vì biết đã bắt được anh Học, chúng nó mừng quá chỉ chú ý đến anh ấy. Nhờ vậy, anh Kính, anh Diến với anh Tuyên mới liều bỏ chạy vào rừng Kiếp Bạc rồi bơi qua sông Luống về Gia Bình. Lội được giữa chừng thì anh Tuyên từ biệt hai đồng chí, tự trầm dưới đáy sông. Chỉ có anh Diến và anh Kính sống sót, hiện đang trốn trên Bắc Ninh. Anh Kính bảo tôi phải tìm cách thông báo cho chị biết tin anh Học đã bị bắt!

Thế là hết! Cô Giang nghe xong xây xẩm mặt mày té xuống. Sáng sớm hôm sau, cô quăng hết mọi việc, hoảng hốt chạy về Hà Nội tìm Lê Hửu Cảnh. Cô vẫn nhớ thuộc lòng cái địa chỉ liên lạc mà Cảnh đã cho cô ở Yên Bái.

Người giao liên đưa cô đến nhà Minh rồi bỏ đi ngay.

Lúc ấy, Cảnh đang nằm một mình trên gác, nghĩ về tiền đồ đen tối của đảng. Minh thì ngồi uống trà với ông Sửu bên kia đường, cả hai cùng sầu thảm vì thời cuộc.

Những câu chuyện bàn giữa Minh và ông Sửu chẳng còn gì mới mẻ nữa. Toàn những thở vắn than dài vì cuộc khởi nghĩa của Quốc Dân Đảng tàn lụi quá nhanh. Dư luận ít người biết đến. Báo chí An Nam hoặc lờ đi, hoặc chỉ tường thuật một cột tin nho nhỏ gọi là “hội kín nổi loạn tại một vài tỉnh Bắc Kỳ”! Tuyệt vọng hơn cả là bản tin Nguyễn Thái Học bị bắt, coi như ngọn lửa hy vọng bị phụt tắt hòan toàn. Ông Sửu phân vân hai ba lần hỏi Minh:

- Tin ấy có đúng không thầy? Hay là sở mật thám bịa ra để làm mất tinh thần đảng viên và đồng bào?

Minh biết những người kỳ vọng ở Nguyễn Thái Học đều nghĩ như thế, giống như cô Giang. Nhưng Cảnh đã xác nhận. Sự thật chứ không phải tin đồn. Minh gật đầu đáp nhỏ:

- Bị bắt thật rồi!

Minh đang định kể lại diễn tiến câu chuyện ở ấp Cổ Vịt mà Cảnh đã cho Minh biết, ông Sửu chợt ngắt lời:

- Có ai tìm thầy kia kìa!

Thấy có người con gái thập thò trước cảnh cổng nhỏ dẫn lên gác nhà mình, Minh đứng dậy trố mắt trông sang rồi từ từ bước qua. Nhìn cái dáng phụ nữ thon nhỏ, Minh cứ tưởng là cái Nhi con bà dì, hoặc người thân nào ở dưới quê lên, ghé thăm anh. Đến gần giáp mặt, anh vẫn không nhận ra cô Giang, bởi anh chỉ gặp có một lần khi theo Cảnh dự hội nghị Đức Hiệp hồi tháng 5 năm ngoái. Huống chi những ngày kề cận khởi nghĩa, cô ăn ngủ thất thường, bao nhiêu mối lo âu làm thân hình cô gầy rạc hẳn đi và nét mặt tiều tụy không cách nào che giấu được. Cô Giang gật đầu khẽ nói:

- Anh Minh phải không? Tôi cần gặp anh Cảnh!

Bấy giờ Minh mới nhớ ra, giật mình kêu lên nho nhỏ:

- Ồ! Chị Giang! Bất ngờ quá! Vâng. Anh Cảnh đang ở trên gác. Mời chị lên!

Rồi Minh lật đật mở cánh cổng đưa cô Giang vào. Anh dáo dác nhìn hai bên đường trước khi khép cánh cổng, cùng cô Giang lên cầu thang.

Trong nhà, Cảnh đang nằm ngửa, phanh ngực áo, mắt mở trừng trừng nhìn lên nóc nhà. Tương lai của đảng như một bức màn đen dày đặc căng ra trước mắt. Đảng viên như một bầy gà con bị diều hâu tấn công, tan tác mỗi người một nơi. Mất Nguyễn Thái Học là mất hẳn một điểm tựa lớn, làm lung lay bao nhiêu niềm tin của bao nhiêu đồng chí. Xứ Nhu thì đã chết, Phó Đức Chính cũng bị bắt. Tất cả những cột trụ của đảng đều gãy đổ. Cảnh có cảm tưởng mình đang ngồi trên một con thuyền nhỏ, bơ vơ giữa dòng sông mêng mông mà con thuyền không có người lái!

Nghe tiếng cửa mở, Cảnh ngồi bật lên, ngoái đầu lại. Nhìn thấy cô Giang, Cảnh xúc động quá, nước mắt tự dưng trào ra. Minh khép cửa cài then, dè dặt tiến vào kéo ghế mời. Cô Giang đặt cái giỏ xuống chân rồi nhìn Cảnh nghẹn ngào lên tiếng:

- Có tin anh Học bị bắt. Chả biết đúng hay sai?

Cảnh ngồi trên mép giường, khẽ gật đầu. Anh nói nhỏ:

- Cả Sư Trạch và Nguyễn Như Liên nữa!

Cô Giang ngồi bệt xuống sàn nhà, úp mặt vào hai đầu gối và khóc nấc lên từng cơn. Khăn vấn xổ tung ra. Mái tóc dài chảy xuống, rũ rượi như người có đại tang. Các đồng chí trên Bắc Giang đã kể hết đầu đuôi việc Nguyễn Thái Học bị bắt, nhưng cô vẫn còn nuôi chút hy vọng. Bây giờ thì chút hy vọng hão huyền ấy đã hoàn toàn mất hẳn khi Lê Hửu Cảnh xác nhận.

Minh đứng lóng ngóng chẳng biết làm gì, đành tới ngồi bên Cảnh. Tất cả những diễn tiến bất lợi cho đảng từ hôm khởi nghĩa đến nay, Cảnh đều đã kể hết cho Minh nghe, kể cả tin đảng trưởng bị bắt mà Cảnh mới biết đây hai hôm.

Cảnh đứng dậy, kéo ghế lại gần cô Giang và nói:

- Bốn ngày họp với anh Học bên Gia Bình, tôi đã hết lời van xin anh ấy ra nước ngoài. Bên Vân Nam cũng cử người về đón. Nhưng anh Học dứt khoát không đi! Thôi thì anh ấy đã chọn con đường ở lại để nằm gai nếm mật cùng với anh em. Thấy đồng chí gặp hoạn nạn, anh ấy không nỡ bỏ. Tôi giận anh ấy bướng bỉnh, nhưng cũng phục anh ấy dũng cảm!

Cô Giang không nói gì, cứ tiếp tục nức nở. Minh vừa mũi lòng vừa lo sợ vì lúc đó tiếng khóc của cô hơi lớn, sợ hàng xóm nghe thấy và đặt nghi vấn, bởi nhà Minh xưa nay vốn không có đàn bà! Minh đưa mắt nhìn Cảnh mấy lần như nhắc nhở. Nhưng Cảnh cũng không dám lên tiếng bảo cô đừng khóc! Thôi thì đành cứ để cho cô xóa bớt nỗi sầu bằng những giòng nước mắt.

Nhìn cái tay nải của cô Giang trên sàn nhà, sát bức vách, Cảnh sực nhớ ra một điều quan trọng, vội nhoài người cúi xuống, mở ra và thọc bàn tay vào lục lọi. Một nải chuối đang ăn dở dang. Mẩu bánh Tây. Bộ quần áo nâu. Chiếc áo bông mùa đông. Cái khăn lau mặt bằng vải thô. Mấy miếng cau khô và lọ dầu. Hành trang đường trường của một thiếu nữ tuổi mới đôi mươi chỉ vỏn vẹn có thế. Dĩ nhiên Cảnh không quan tâm đến những thứ ấy. Rong ruổi trên đường cách mạng thì như thế là thường. Có hôm chính Cảnh cũng đi tay không chỉ có mỗi bộ đồ đang mặc trên người. Gặp chỗ vắng, lội ùm xuống ao hay mương rạch, tắm một cái cho đỡ nóng rồi leo lên, lại mặc bộ đồ cũ vào người. Gian khổ đã quen bởi ai cũng phải chấp nhận. Cảnh thọc tay sâu xuống đáy, và quả nhiên đúng như anh dự đoán, anh moi được khẩu súng đã nạp đạn của cô Giang. Cảnh vội lấy ra đem giấu đi trong khi cô Giang vẫn gục mặt khóc. Cảnh nhớ lại hôm ở đền Hùng, cô Giang đã xin Nguyễn Thái Học một khẩu súng để chết theo Nguyễn Thái Học khi cần.

Minh ngơ ngác theo dõi, thấy Cảnh nhét khẩu súng lục vào lưng quần, phủ vạt áo sơ mi che ngoài. Minh hết nhìn Cảnh rồi lại nhìn cô Giang. Cảnh tiến lại, quì xuống bên cạnh cô Giang và bảo:

- Anh Học bị bắt là một thiệt hại lớn cho đảng. Không phải chỉ riêng cô đau buồn, mà tất cả mọi người đều đau buồn. Tôi cũng mất ăn mất ngủ từ hôm hay tin. Nhưng chúng ta phải làm gì cho anh Học, cho đảng chứ không phải ngồi đây mà khóc! Khóc không cứu được anh Học, không cứu được đảng!

Im lặng một chút, cô Giang nâng gấu váy lau nước mắt, vấn lại khăn rồi quay sang hỏi Cảnh:

- Anh định làm gì bây giờ?

Cảnh mừng rỡ đáp:

- Làm gì thì cũng phải triệu tập đại hội đảng. Nhân sự còn lại bấy nhiêu, mình gom lại bấy nhiêu, cùng vạch kế hoạch cho những ngày sắp đến. Đồng chí Minh đây sẽ giúp chúng ta một tay! Chắc cô cũng còn nhớ Minh có theo tôi sang Đức Hiệp tháng 5 năm ngoái. Đồng chí Minh dạo trước sinh hoạt trong tổ đảng của đồng chí Viên ở Thành Bộ.

Cô Giang gật đầu:

- Tôi nhớ! Anh Học cũng có nhắc đến anh, gọi là “Minh nhà báo”.

Minh đứng dậy bảo cô Giang:

- Chị ngồi lên ghế cho đỡ mỏi chân! … Anh Cảnh nói đúng đấy chị ạ! Phải tìm cách đối phó ngay với tình thế mới!

Cô Giang đã lấy lại phần nào điềm tỉnh. Cô nói:

- Anh Cảnh. Anh ấn định ngày họp đi, rồi tìm cách liên lạc với các đồng chí trong nhóm “cải tổ” của anh. Gặp nhau càng sớm càng tốt.

Cảnh hăng hái gật đầu:

- Tôi cũng đang định như thế. Việc liên lạc thì phải nhờ anh Minh giúp hộ một tay, vì anh Minh chưa bị địch nghi ngờ, có giấy chứng nhận nhà báo, đi lại dễ dàng.

Minh nhìn Cảnh gật đầu:

- Vâng, anh để đấy cho em!

Cô Giang đột ngột đổi đề tài, hỏi Cảnh:

- Anh vừa bảo Nguyễn Như Liên cũng bị bắt rồi ư?

Cảnh gật đầu:

- Bị bắt rồi!

Cô Giang ngậm ngùi cúi xuống. Cô còn nhớ nguyên hình ảnh anh sinh viên 20 tuổi, bí danh Ngọc Tỉnh, từ Phú Thọ cùng với 300 đảng viên dân sự lên tham gia trận Yên Bái. Tuy chưa có kinh nghiệm chiến trường, nhưng Ngọc Tỉnh hò hét xung phong và lăn sả vào quân Pháp, coi cái chết nhẹ như bông.

Cảnh lại nói:

- Đồng chí Nho, em ruột của anh Học, nghe đồn cũng bị bắt!

Nghe Cảnh nhắc đến em ruột của Nguyễn Thái Học đang bị giam trong Hỏa Lò, cô Giang lại liên tưởng ngay đến chị ruột của mình là Nguyễn Thị Bắc, chi bộ trưởng chi bộ phụ nữ, cũng đang bị kìm kẹp trong sở mật thám. Cô ngẫng lên quắc mắt bảo Cảnh:

- Mối thù này lớn lắm! Phải trả, không cách này thì cách khác!

Cảnh hài lòng:

- Đúng! Mình bắt tay vào việc ngay!

Thế là ngay hôm ấy, Cảnh giao cho Minh công tác liên lạc mời họp. Nhóm của Cảnh gồm những nhân vật chính là Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Phạm Văn Hể và Nghiêm Toản cùng một số đồng chí khác ở cấp thành bộ và tỉnh bộ. Cảnh muốn tìm Ký Con Đặng Trần Nghiệp, nhưng anh đã trốn khỏi Hà Nội từ sau đêm khởi nghĩa. Mật thám dán hình Ký Con khắp nơi, kèm theo 5.000 đồng tiền thưởng. Vì vậy Ký Con và toán ám sát không dám lưu lại thủ đô.

Ngồi trong phòng họp, Cảnh bùi ngùi nhớ lại bao nhiêu khuôn mặt tri kỷ buổi ban đầu, nay chẳng còn ai. Do lời đề nghị của cô Giang, đại hội bầu Lê Hửu Cảnh lên nắm quyền đảng trưởng thay thế Nguyễn Thái Học. Nguyễn Xuân Huân làm phụ tá. Cô Giang làm cố vấn và Minh “nhà báo” làm thư ký.

Cảnh bị đẩy lên làm đảng trưởng trong tình thế hết sức tuyệt vọng vì các chi bộ khắp nơi trên toàn lãnh thổ Bắc Kỳ, chả biết đơn vị nào còn, đơn vị nào mất. Mà dù có còn hoạt động đi chăng nữa thì việc liên lạc cũng gần như bị tê liệt hoàn toàn, mỗi nơi phải tự sinh hoạt theo từng hoàn cảnh riêng của mình, không có tiếng nói thống nhất từ tổng bộ. Sau tổng khởi nghĩa, sự mất mát quá lớn lao về nhân sự cộng thêm cái tin Nguỵễn Thái Học bị bắt, Nguyễn Khắc Nhu tự tử chết, làm đảng viên khắp nơi bị giao động tinh thần, mất hết niềm tin vào khả năng chiến thắng của đảng. Cảnh không thể nào khôi phục lại được. Nhiều đồng chí đang trốn tránh, đêm ngày chỉ tìm cách lẻn sang Trung Hoa, không muốn ở lại chiến đấu nữa. Mật thám Pháp thì phấn khởi tinh thần, coi Quốc Dân Đảng chỉ là một đám tàn quân, tung vài mẻ lưới nữa là xong!

Giữa tình thế khốn đốn ấy, để gây lại uy tín cho đảng, cô Giang tức tốc họp với tổng bộ và đưa ra vài kế hoạch cụ thể. Lúc này, sau những cơn vật vã thảm sầu, cô đã bình tỉnh trở lại và thấy cần phải tạo niềm tin trong quần chúng và nhất là hàng ngũ đảng viên. Cảnh và cô cũng đã gián tiếp liên lạc được với Nguyễn Thái Học trong tù và cam kết với đảng trưởng là anh em bên ngoài vẫn hoạt động như thường. Cô nói:

- Việc đầu tiên tổng bộ phải làm là thi hành bản án tử hình đội Dương! Tên phản bội này đã làm hỏng hoàn toàn kế hoạch tổng khởi nghĩa của ta, giết hại bao nhiêu người của cách mạng!

Mọi người nhao nhao đồng ý ngay.

Thật ra thì sau khi Phạm Thành Dương công khai trở mặt, rút súng bắn Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính ở nhà Lý Cả, tòa án cách mạng đã tuyên án tử hình cả hai cha con đội Dương. Ngày 22 tháng 12 năm 1929, Nguyễn Xuân Huân cùng Nguyễn Văn Nho định thanh tóan cả hai cha con là Phạm Huy Du và Phạm Thành Dương tại nhà đội Dương, số 34 Ngõ Hồng Phúc sau phố Hàng Đậu. Nhưng hôm ấy chỉ có giáo Du đi dạy về, có xe kéo riêng đưa đến tận nhà để nghỉ trưa. Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, lúc ấy mới 17 tuổi, dáng người thấp bé, trắng trẻo hiền lành, bước đến thưa chuyện rất lễ phép, gọi giáo Du bằng thầy, trao cho giáo Du tờ giấy có ghi bản án rồi bắn hai phát súng xuyên tim và đùi. Giáo Du té xuống chết tại chỗ. Người phu xe sợ quá bỏ chạy một mạch về nhà ở bãi Phú Xá!

Vụ xử giáo Du ở thanh thiên bạch nhật tại con phố đông người qua, làm chấn động Hà Thành, nhất là khi có bản án đeo ở cổ. Mật thám quả quyết Ký Con là thủ phạm, bởi lúc ấy cái tên Ký Con nổi như cồn vì hành tung xuất quỉ nhập thần vô cùng gan dạ. Ít ai bịết người bắn giáo Du lại là một cậu học sinh mặt non choẹt, có sự hỗ trợ của tay thiện xạ Nguyễn Xuân Huân đứng đằng sau.

Vũ Đình Phú, người giới thiệu Dương với Nguyễn Thái Học, cũng trở mặt theo Tây, nên cũng bị xử tử chết như giáo Du.

Phạm Thành Dương tội nặng hơn cha, nhưng từ ngày lộ tông tích, Dương sợ quá xin chuyển ngành, sang làm việc cho sở mật thám và ẩn mình luôn trong đó, tránh ra ngoài. Thành ra cái án tử hình của Dương mà Nguyễn Khắc Nhu thay mặt đảng tuyên bố, giờ này vẫn chưa thi hành được. Nghe cô Giang đề nghị, Nguyễn Xuân Huân nói:

- Tôi chưa giết được thằng giặc ấy thì tôi vẫn còn nợ các đồng chí đã bị nó hại. Tôi xin lĩnh công tác này, đích thân tôi sẽ xử tử nó!

Cô Giang lại nói:

- Giết đội Dương chỉ là việc nội bộ. Muốn tạo lại uy tín lớn cho đảng, phải tổ chức ám sát toàn quyền Pasquier và thằng tay sai Vi Văn Định. Đánh lớn không được thì bây giờ ta đánh lẻ!

Cảnh phân vân nói:

- Giết được Pasquier thì nhất rồi! Nhưng hơi khó, vì ít có cơ hội lại gần nó. Vi Văn Định cũng thế!

Cô Giang dứt khoát:

- Phải nghiên cứu, phải tìm cách móc nối với người nào thân cận Pasquier rồi chờ dịp ra tay!

Một đồng chí tênTô Phúc Dịch phát biểu:

- Pasquier thì tôi không có cách nào đến gần. Nhưng Tổng Đốc Thái Bình Vi Văn Định thì tôi xin nhận. Tôi biết đường đi nước bước của nó! Mấy tháng nay, nó càn quét lực lượng của ta đến tận gốc rễ. Tội ấy không tha được! Xin tổng bộ cứ thảo bản án, giao cho tôi. Giết xong, tôi sẽ buộc vào cổ nó!

Cảnh mừng rỡ kết luận:

- Pasquier thì tổng bộ sẽ nghiên cứu sau. Trước mắt, đồng chí Huân phụ trách xử tử đội Dương. Đồng chí Dịch xử tử Vi Văn Định. Thi hành càng sớm càng tốt, nhưng phải hết sức cẩn thận, đừng để đảng bị thiệt hại thêm người nào nữa!

Hội nghị giải tán, chỉ còn lại cô Giang, Cảnh và Minh. Ba người trở lại căn gác nhà Minh, ngồi ăn khoai lang luộc uống nước vối. Cảnh bảo Minh:

- Chốc nữa cậu thảo hộ tôi bản án kết tội toàn quyền Pasquier và tổng đốc Vi Văn Định!

Minh chưa kịp đáp thì cô Giang nói:

- Bản án Vi Văn Định thì nhờ anh Minh. Còn toàn quyền Pasquier thì anh để cho tôi. Tôi sẽ đọc, nhờ anh Cảnh viết hộ, cả tiếng Tây lẫn tiếng ta!

Minh nhìn rõ cái hào khí cách mạng bừng bừng trong lòng cô Giang qua một thời gian ngắn làm việc chung, khiến Minh cảm thấy xấu hổ. Anh được tiếng là khí phách, là ngang tàng từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Thế mà nay lại thua kém cả một phụ nữ!

Nghĩ thế, Minh lên tiếng hỏi:

- Chị Giang, lúc này tình hình khó khăn, vai trò của Chi Bộ Phụ Nữ rất quan trọng …

Cô Giang ngắt lời:

- Chi Bộ Phụ Nữ thật ra mới chỉ có một chị Bắc bị địch bắt ở Yên Bái. Tất cả những chị em khác đều còn nguyên, nhưng tạm thời phân tán mỗi người mỗi nơi!

Cảnh nói:

- Tôi đang định nhờ chị làm cách nào bắt liên lạc với chi bộ Phụ Nữ. Minh nói đúng. Phải nhờ các chị ấy liên lạc với các Tỉnh Đảng bộ, xem mỗi nơi còn mất thể nào! Rồi từ đó Tổng Bộ mới định kế hoạch cho những ngày sắp tới!

Cô Giang quả quyết:

- Tôi sẽ làm việc ấy. Nguy hiểm lắm, nhưng tôi sẽ làm.

Minh Nói:

- Mấy tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Yên Bái thì tạm thời chị nên lánh mặt vì chắc chắn chúng nó đang rình để bắt chị!

Cô Giang suy nghĩ một chút rồi bất ngờ hỏi Cảnh:

- Anh Cảnh! Có thể nào mình phá ngục Hỏa Lò để giải thoát cho anh Học và các đồng chí trong ấy không?

Cảnh đang cắn củ khoai, giật mình khựng lại nhìn cô Giang vì không ngờ cô có ý tưởng táo bạo như vậy! Minh lại càng ngạc nhiên hơn vì thấy cô Giang quá … lảng mạng! Nội việc đề nghị ám sát tòan quyền Pasquier đã là không tưởng rồi vì từ sau vụ Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Melin, những vị toàn quyền kế tiếp cũng như viên chức cao cấp của chính quyền bảo hộ, đi đâu cũng cắt đặt người bảo vệ cẩn mật, không cho người lạ đến gần. Thanh tóan Pasquier đã là chuyện đội đá vá trời, huống chi đòi tấn công ngục thất Hỏa Lò!

Cảnh cũng cùng một ý như Minh, nhưng không muốn gạt phắt ước muốn của cô Giang. Ông ra chiều đăm chiêu nói:

- Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy. Cứu được anh Học là cứu được đảng. Chính bởi vậy từ trước đến nay tôi vẫn cứ đề nghị anh Học nên sang Tàu, bởi anh Học còn thì linh hồn của đảng vẫn còn …. Giả như lực lượng của ta còn mạnh như trước ngày tổng khởi nghĩa, thì tôi có ngại gì mà không tập trung đánh phá Hỏa Lò một trận để cứu hàng nghìn tù nhân chính trị ở trong đó ra. Mình chỉ cần đánh vào, bên trong sẽ nổi loạn, giết cai ngục và phá nhà tù giống như ngục Bastille ở Paris trong cuộc cách mạng 1789! Nhưng cô nghĩ xem, bây giờ người không còn, hoặc còn mà không liên lạc được. Bom đạn lại cũng không còn. Thằng đội Dương đã dẫn Tây đi tịch thu hết sạch của chúng ta. Lấy gì để tấn công!

Cô Giang nghe Cảnh phân trần, buồn bã thở dài. Cảnh lại thêm:

- Không biết cô đã vào thăm ai trong Hỏa Lò chưa? Nếu đã vào thì chắc cô cũng biết cách sắp đặt bên trong và sự canh phòng của Tây kỹ lưỡng như thế nào!

Minh chen vào:

- Vâng. Em đã bị nhốt mấy tháng ở trong ấy. Em biết. Mặt tiền dọc trên đường Rue de la prison chỉ có một cánh cổng sắt duy nhất, nếu tấn công thì phải tấn công vào đấy. Bên trong có đến ba lớp cổng sắt. Qua một mảnh sân lại thêm 2 lớp cổng sắt nữa, rồi mới đến khu nhà giam …

Cảnh ngắt lời:

- Các mặt khác cũng thế. Muốn đánh thì phải dùng rất nhiều tạc đạn, bộc phá, chất nổ lọai mạnh và bom hạng nặng để phá tường. Tất cả những thứ ấy, giờ này ta không còn

Minh hiểu ý Cảnh, phụ họa theo:

- Hôm nọ chị có nói: Lúc này không đánh được trận lớn nữa mà chỉ đánh lẻ được thôi. Tôi thấy tạm thời mình phải chịu vậy thôi chị ạ!

Cô Giang buồn rầu không nói gì nữa.

Ngày 8 tháng 3, Ngô Hải Hoằng, Nguyễn Thanh Thuyết và hai đồng chí nông dân gốc Phú Thọ tham dự trận Yên Bái, bị lên máy chém ở Yên Bái. Cô Giang nhớ lại hình ảnh dũng cảm của cai Hoằng mà lòng quặn thắt xót xa. Trước giờ xuất quân trong rừng sơn, cai Hoằng rút phắt thanh gươm chém ngang cây sơn và ra nghiêm lệnh:

- Đã đến giờ xung phong giết giặc. Ai mà bàn ngang thì sẽ như cây sơn này! Tôi tình nguyện giết quan ba Jourdain. Nếu không giết được nó, tôi sẽ nộp đầu tôi thay thế!

Quả nhiên cai Hoằng đã giữ đúng lời hứa, xông pha lửa đạn chỉ biết tiến chứ không biết lùi. Khi bị bắt ra trước tòa, chánh án Hội Đồng Đề Hình Poulet Osier – thanh tra chính trị mới bổ nhiệm đặc trách xử án vụ Quốc Dân Đảng – bảo cai Hoằng:

- Mày thật là kẻ vô ơn! Quan ba Jourdain là quan thầy của mày, đối xử hết sức tử tế với mày mà mày nở giết ông ấy đầu tiên khi nổi loạn!

Cai Hoằng hiên ngang đáp:

- Đại úy Jourdain quả thật rất tốt đối với tôi. Nhưng đó là tình riêng. Tôi giết ông ta vì bổn phận của tôi đối với đảng. Tình riêng không thể lớn hơn nghĩa công được!

Osier lại hỏi:

- Đảng của mày là đảng nào?

Ngô Hải Hoằng nhấn mạnh:

- Đảng của tôi là Việt Nam Quốc Dân Đảng!

Osier hỏi câu ấy vì dư luận Pháp lúc đó cứ bị ám ảnh bởi thế lực cộng sản do Liên Xô điều động. Bên mẫu quốc chưa chú ý nhiều đến Quốc Dân Đảng bởi Quốc Dân Đảng phát triển nhanh quá, chưa có thời gian để quần chúng chú ý. Thậm chí sau đêm tổng khởi nghĩa, một số báo chí Paris đã chạy tin bừa bãi rằng: Có khoảng 60 đảng viên cộng sản cùng một số binh sĩ nổi loạn! Đến ngay như Ký Con mà mật thám cũng nghi là Cộng Sản!

Vì không muốn giam tù nhân Quốc Dân đảng lâu trong ngục, sợ có biến, nên mọi thủ tục pháp lý tiến hành rất nhanh. Ngày 10 tháng 2, đánh Yên Bái. Ngày 27 tháng 2, xử án. Và ngày 8 tháng 3, đưa lên đoạn đầu đài!

Sau cái tin 4 đồng chí đầu tiên bị lên máy chém, cô Giang nghĩ ngay đến Nguyễn Thái Học và các đồng chí khác chắc chắn cũng sẽ như vậy. Cho nên cô bàn với Cảnh:

- Anh Cảnh! Có thể nào mình tập trung lực lượng, đánh vào pháp trường Yên Bái để giải cứu các đồng chí của mình không?

Cảnh vốn là người gan dạ nhưng không liều lĩnh. Anh nhìn cô Giang tội nghiệp, giải thích:

- Thứ nhất, mình không còn lực lượng vũ trang. Nói đúng ra là còn, nhưng không liên lạc được. Thứ nhì, ngày đưa các đồng chí của mình lên máy chém, tất nhiên Tây sẽ canh phòng rất nghiêm ngặt. Thứ ba, quan trọng hơn cả, là mình không biết trước được ngày nào chúng sẽ thi hành bản án. Mà không bíêt trước được ngày giờ thì làm sao ước hẹn được các đồng chí của mình tập trung về đấy! Ấy là chưa kể, chắc gì mai kia chúng nó sẽ xứ tử các đồng chí của mình ở Yên Bái. Bất ngờ, chúng nó có thể đưa máy chém đi nơi khác cũng chưa biết chừng!

Cô Giang cũng biết trước câu trả lời của Cảnh sẽ như vậy. Nhưng cô vẫn muốn liều mạng một trận để cứu Nguyễn Thái Học vào phút chót.

Ở Hỏa Lò, ngày 3 tháng 2, thân mẫu Nguyễn Thái Học, khuê danh Nguyễn Thị Quỳnh, từ làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên được Tây cho vào thăm con. Nguyễn Thái Học quì lại và nói:

- Con đành cam tội bất hiếu với mẹ, vì trung hiếu không thể vẹn hai đường! Xin mẹ tha tội cho con!

Tổng Đốc Hà Đông Hòang Trọng Phủ cũng vào nhìn mặt Nguyễn Thái Học vì Quốc Dân Đảng đã xử tử cháu ông ta. Phu tò mò hỏi Nguyễn Thái Học:

- Lúc thầy bị bắt, thầy có súng trong tay sao không bắn trả?

Nguyễn Thái Học đáp:

- Mấy người tuần phu bắt tôi chỉ là thuộc hạ tay sai, tôi không nỡ giết. Tôi chỉ muốn giết Tây và bọn tham ô quan lại mà thôi!

Hoàng Trọng Phu ngượng ngùng bỏ ra.

Pháp kiều ở Hà Nội bấy giờ rất hiếu kỳ vì uy danh Nguyễn Thái Học cũng như Quốc Dân Đảng từng làm cho họ mất ăn mất ngủ 2 năm qua. Nay nghe tin hùm thiêng sa lưới, họ rủ nhau kéo vào xem dung mạo Nguyễn Thái Học như thế nào. Có đến khoảng 100 phụ nữ đòi gặp Nguyễn Thái Học. Giám đốc sở mật thám Bắc Kỳ là Amox chiều ý họ, đích thân dẫn họ vào Hỏa Lò. Các bà các cô đầm đều gọi là “general Nguyen Thai Hoc”. Nhưng Amox xua tay bảo các bà:

- Không nên gọi Học là tướng. Vì Học chỉ là một tướng … cướp mà thôi!

Nguyễn Thái Học mắng Amox bằng tiếng Pháp:

- Ông nên lễ độ một chút! Tôi làm người cách mạng cứu nước tôi!

Amox muốn thị oai trước mặt phụ nữ, nên giơ thẳng ba-toong vụt mạnh ngang vào mặt Nguyễn Thái Học, dù ông bị trói cả chân tay. Các bà đứng vây quanh, nhiều người bất bình kêu lên và che mặt quay đi. Bị rụng hai cái răng cửa, Nguyễn Thái Học ngẫng lên mắng:

- Đó là văn minh của nước Pháp chúng mày, đánh người đang bị trói! Thế mà chúng mày đòi sang khai hóa dân tôc tao!

Amox ngượng ngập mời mọi người giải tán.

Ngày 23 tháng 3, Nguyễn Thái Học và 80 đồng chí được dẫn ra trước Hội đồng đề hình thiết lập tại Yên Bái, vẫn do Poulet Osier ngồi ghế chánh án. Tuy gọi là phiên xử công khai, nhưng vì phòng họp quá chật chội, sức chứa chỉ được vài chục người mà thực dân lại muốn chắc ăn, không để những người ủng hộ Quốc Dân Đảng vào trà trộn, sợ xẩy ra hô hoán gì thì chúng mất mát. Cho nên chỉ ai có thân thế và có lập trường thân Tây, mới được cho vào. Minh cố gắng xin dự với tư cách nhà báo, nhưng không được, vì chỉ có nhà báo tiếng Tây mới được vào tòa.

Nguyễn Thái Học khẳng khái tự nhận hết trách nhiệm thủ lãnh cuộc khởi nghĩa và không cần ai biện hộ bởi tòa án này chỉ là hình thức giả tạo của cường quyền mà thôi.

Phó Đức Chính cũng hùng hồn tự nhận mình đã thảo truyền đơn kêu gọi dân chúng vùng lên, đồng thời soạn kế hoạch cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ông dứt khoát không xin khoan hồng, không xin ân xá. Ông nói lớn:

- Được chết cho tổ quốc là một vinh dự! Tại sao phải xin ân xá!

Cô Nguyễn Thị Bắc thì lớn tiếng mắng bọn thực dân xâm lăng và bảo chúng hãy về Pháp, giật đổ tượng Jeanne d’Arc cho khỏi xấu hổ!

Mọi người đều đóan trước những bản án tử hình, nên chẳng có gì làm ngạc nhiên bất cứ ai. Cô Giang cũng biết trước, nên cứ lay hoay tìm cách giải cứu cho các đồng chí mà đành bó tay. Tất cả tù nhân được chuyển về Hỏa Lò để chờ ngày lên máy chém.

Từ ngày Nguyễn Thái Học và các đồng chí nhận bản án tử hình, cô Giang ruột rối như tơ vò, lại thêm chị mình là Nguyễn Thị Bắc bị 5 năm lưu đày cấm cố. Mưu tính ám sát Pasquier và Vi Văn Định để trả hận một phần nào, cũng chưa thực hiện được. Cô bứt rứt bàn luận với Cảnh, thì chính Cảnh cũng thấy bế tắc vì địch quá mạnh mà ta quá yếu!

Một hôm, vào hạ tuần tháng 4, Cảnh cùng Minh gặp riêng phụ tá Nguyễn Xuân Huân và một đồng chí thân tín của Huân là Nguyễn Văn Quất để bàn một việc quan trọng. Cảnh nói:

- Ngay từ buổi đầu mới thành lập đảng. Tổng Bộ đã đặt nặng vấn đề kinh tài cho đảng. Bởi không có tiền thì không thể hoạt động được. Một mặt, chúng ta mở những cơ quan kinh tài chính thức như khai thác Khách sạn Việt Nam, mặt khác chúng ta có những vị hào phú yêu nước, đóng góp vào quĩ của đảng, hoặc những đảng viên có điều kiện tài chánh, xuất vốn ra giúp đảng, chẳng hạn như đồng chí Quách Vy, tuần phủ tỉnh Hòa Bình. Ngày nay, sau tổng khởi nghĩa, các cơ quan kinh tài chánh thức không còn nữa, mà những nhà Mạnh Thường Quân giàu lòng ái quốc cũng lần lượt bị bắt cả. Đồng chí Quách Vy thì mới đây, còn bị tờ báo Volonté indochinoise bên Tây chẳng những tố cáo đích danh là người của ta, mà báo này còn thổi phồng lên, cho rằng đồng chí ấy mới thật là đảng trưởng, còn Nguyễn Thái Học chỉ là thừa hành mà thôi! Từ đó, đồng chí Quách Vy phải cắt đứt mọi liên lạc với chúng ta ….

Huân gật đầu ngắt lời:

- Vâng. Công lao của anh Vỵ to lắm. Một mình gây dựng tỉnh đảng bộ Hòa Bình, lôi kéo được rất đông quan lang, thân hào nhân sĩ Mường và Mán, ủng hộ Quốc Dân Đảng. Anh Vỵ chưa bị bắt, chưa bị cách chức là may đấy!

Cảnh tiếp:

- Dù mới đây đảng bị thất thoát nhiều, hoặc bị chết hoặc bị đi tù, nhưng chúng ta còn ở ngoài thì vẫn còn tiếp tục công tác của đảng. Ta vẫn tiếp tục chế bom, nhưng mới đây thử vài quả, thấy sức công phá còn yếu lắm. Cần phải có tiền, mua thêm thuốc nổ và hóa chất. Quan trọng hơn cả là phải mua thêm súng đạn. Mua súng đạn thì không thể mua trong nước. Tôi đã bắt liên lạc được với đồng chí Lương Nguyên Minh tức là Nguyễn Thế Nghiệp bên Vân Nam, đảng bộ bên ấy đang phát triển thuận lợi, có thể mua được vũ khí của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, chờ dịp thuận tiện chở về trong nước

Cảnh ngừng nói để uống nước. Minh sốt ruột hỏi:

- Anh có kế hoạch gì để có tiền gửi sang mua vũ khí?

Hai đồng chí Huân và Quất cũng đăm đăm nhìn Cảnh chờ đợi câu trả lời. Cảnh uống cạn bát nước rồi đáp:

- Người của ta vừa cho biết cứ vào ngày cuối tháng thì tham tá ở sở Công Chánh là Nguyễn Văn Bình sẽ ngồi xe kéo lên ngân khố trung ương lĩnh tiền về phát cho nhân viên. Tổng số bạc ông ta ôm về là mười một nghìn. Đây là tiền của Tây, không phải bất cứ cửa người An Nam nào. Mà tiền của Tây tức là tiền bóc lột của dân ta …

Minh ngắt lời:

- Ý của anh là mình cướp số tiền ấy?

Cảnh gật đầu:

- Đúng! Tôi đã hứa sẽ chuyển sang anh Nghiệp số tiền là 5 nghìn đồng. Số còn lại mình giữ để chi dụng trong công tác bên này! Tôi đề nghị anh Huân đi với anh Quất. Bình ngồi xe kéo, ôm cặp bạc, chắc chắn là không đề phòng vì chẳng bao giờ nghĩ rằng có ai dám cướp tiền của Tây! Anh anh chỉ việc phóng xe đạp đến gần, giật cái cặp da trên tay Bình là xong!

Nguyễn Văn Quất gật đầu quả quyết:

- Việc này anh giao cho tôi, thể nào cũng xong! Có anh Huân đi kèm bên cạnh tôi càng lên tinh thần!

Cảnh lại thêm:

- Tôi tính thế này! Nếu mọi chuyện êm xuôi, lấy được món tiền ấy, ta sẽ nhờ một cán bộ phụ nữ cầm sang giao cho anh Nghiệp bên Vân Nam một nửa. Nói gì thì nói, cần phải gây dựng chi bộ bên ấy thật vững mạnh, chỉ chờ dịp tổng khởi nghĩa lần thứ 2 … Phần tiền còn lại, ta sẽ lập cơ sở thương vụ ở Hải Phòng, kinh tài hợp pháp để lấy tiền cho quỹ của đảng. Đây là chuyện đường dài!

Mọi người đều nhất trí với Cảnh.

Cũng như dự tính, ngày 30 tháng 4, Huân và Quất đạp xe đến đứng chờ trước kho bạc. Tham tá Bình lĩnh tiền xong, ôm cặp bước ra leo lên xe kéo. Xe chạy được một quãng thì Huân và Quất rướn người đạp theo. Xe chạy lên song song với Bình. Bất thần Huân đưa tay ra chợp cái cặp da, trao lại cho Quất để Quất ôm tiền chạy vào con hẽm nhỏ. Bình lao xuống níu lấy Huân rồi kêu cứu inh ỏi giữa phố xá. Vừa kêu vừa chửi rủa thậm tệ:

- Cướp! Ối làng nước ôi! Cướp! Ai cứu tôi với! Tiên sư bố chúng mày! Quân ăn cướp!

Huân hoảng quá, vội nạt:

- Tiền của Tây chứ tiền của mày hay sao mà to mồm thế? Câm. Không ông bắn bỏ mẹ bây giờ!

Bình cứ tiếp tục gào. Bất đắc dĩ Huân phải rút súng bắn vào ngực Bình để tẩu thoát.

Những ngày kế tiếp, sóng gió vẫn tiếp tục xẩy đến với Quốc Dân Đảng, như ngọn đèn dầu trong cơn phong ba, không biết sẽ cầm cự được bao lâu trước khi phụt tắt. Lê Hửu Cảnh một mặt cử người cầm tiền sang Trung Hoa đưa cho Nguyễn Thế Nghiệp để Vân Nam Đạo Bộ xử dụng trong việc mua súng đạn và vận động kiều bào, chủ yếu là nhanh chóng phát triển lực lượng đảng viên vũ trang. Mặt khác, đích thân Cảnh xuống Hải Phòng gặp một số đồng chí chưa bị lộ tông tích, tìm cách công khai kinh doanh hợp pháp để tăng cường ngân sách trường kỳ cho đảng. Cô Giang thì sốt ruột chỉ muốn làm bất cứ điều gì để giải cứu các đồng chí trong Hỏa Lò. Nhưng Lê Hửu Cảnh tính chuyện đường dài, chờ khi sức mạnh của đảng phục hồi thì sẽ tái phát động cuộc tổng khởi nghĩa thứ hai. Cảnh từng nhiều lần khuyên Nguyễn Thái Học xuất ngoại. Nhưng chính Cảnh, giờ đây dù bao nhiêu nguy hiểm vây quanh, Cảnh lại chọn con đường ở lại để xây dựng đảng.

Lê Hửu Cảnh đi Hải Phòng hy vọng sẽ gặp được Ký Con Đặng Trần Nghiệp ở dưới ấy, nhưng xuống tới nơi thì các đồng chí cho biết Ký Con đã trốn sang Nam Định nên hai người không có dịp tái ngộ. Trước khi rời Hà Nội, Cảnh cùng Nguyễn Xuân Huân ghé qua nhà Minh ở Khâm Thiên để dặn dò vài công việc. Minh đòi thoát ly theo Cảnh nhưng Cảnh không đồng ý. Theo Cảnh, các cơ quan của đảng thuộc Thành Bộ Hà Nội đều bị giặc phát giác. Chỉ còn một địa điểm duy nhất là căn gác nhà Minh ở trọ. Minh phải bám lấy để làm chỗ giao liên khi cần thiết. Cảnh nắm tay Minh và dặn:

- Cậu cứ ở đây. Tôi sẽ quay lại gặp cậu! Tôi đã dặn cô Giang, nếu cần liên lạc với tôi thì cứ cho cậu biết! Thỉnh thoảng tôi sẽ cho người đến gặp cậu! Thế nào cô Giang cũng cần đến cậu!

Rồi Cảnh lấy ra mảnh giấy nhỏ có ghi địa chỉ trạm giao liên ở Hải Phòng, trao cho Minh và bảo:

- Cậu học thuộc địa chỉ này và xé bỏ mảnh giấy đi. Tôi đã dặn cậu nhiều lần, nguyên tắc căn bản là không bao giờ để lại bút tích gì cả. Ngô nhỡ địch khai thác được!

Minh nhét mẫu giấy vào túi rồi dè dặt hỏi:

- Chị Giang có đi chuyến này với hai anh không?

Nguyễn Xuân Huân đáp thay:

- Không. Chị ấy phải nán lại Hà Nội chờ nghe tin tức các đồng chí trong Hỏa Lò.

Phân vân một chút. Minh lại hỏi:

- Anh có tính sang Vân Nam không, anh Cảnh?

Cảnh quả quyết:

- Tôi ở lại. Nhất định ở lại. Tổng Bộ giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi đi sao đành! Đồng chí Huân đây và tất cả nhóm chúng tôi đều ở lại, nhưng nếu gặp Ký Con, tôi sẽ khuyên cậu ấy nên qua bên kia biên giới, vì hình ảnh của cậu ấy bị giặc dán khắp nơi, khó lòng mà thoát được. Trường hợp Ký Con thì nên xuất ngoại!

Rồi Cảnh chia tay, cùng Huân lên đường. Minh nói:

- Nếu hai anh gặp anh Doãn, nhớ cho em gửi lời thăm!

Cảnh gật đầu bước đi. Doãn tức là bí danh của Ký Con Đặng Trần Nghiệp. Kể từ đêm ném bom ở Hà Nội để làm kế nghi binh hỗ trợ cho các trận đánh tại các tỉnh, Ký Con bị giặc truy lùng gay gắt với hàng vạn cáo thị và hình chụp dán khắp đó đây kèm theo món tiền thưởng tương đương với Nguyễn Thái Học là 5 ngàn đồng. Biết không thể lưu lại Hà Nội, Ký Con tìm đường sang Hải Dương, tạm trú tại nhà một đồng chí làng Dư Hàng, huyện An Chương. Nương náu một thời gian, Ký Con thấy nơi đấy bất ổn vì mật thám tung hoành dữ dội. Anh liền trốn qua Nam Định, tá túc trong nhà một đồng chí ở làng Năng Tĩnh, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, quê hương của Trần Tế Xương.

Lẽ tất nhiên, Ký Con chẳng dám ở đâu lâu vì sợ lộ tông tích. Với số tiền thưởng quá lớn, với hình ảnh và cáo thị dán khắp nơi, dễ gì anh thoát được. Tay sai làm việc cho Tây muốn lấy điểm với quan thầy cũng nhiều, mà những kẻ không óan thù với Ký Con nhưng tham tiền thì cũng lắm. Anh luôn luôn là cái mồi ngon cho chúng. Bởi vậy, ở Nam Định được vài đêm anh đã thấy không ổn. Anh nói với chủ nhà:

- Mai tôi đi sớm anh ạ! Tôi linh cảm thấy ở đây không yên!

Chủ nhà nhìn Ký Con thương cảm. Mới 22 tuổi, mặt non trẻ, da dẻ hồng hào trông như một cậu học sinh nhút nhát, thế mà 2 năm qua Ký Con đã tạo được những thành tích kinh thiên động địa. Chủ nhà vốn cảm phục sự gan dạ của Ký Con nên ngỏ ý ân cần giữ anh lại:

- Lúc này cậu đi đâu cũng chả yên! Bắc Ninh và Bắc Giang là hai cái nôi của đảng, giờ này bật gốc hết. Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái, rồi ngay cả Hưng Yên, Hải Phòng cũng chẳng còn đất dung thân. Thôi thì cứ tạm ở lại đây chứ đi đâu bây giờ!

Ký Con trầm ngâm nói:

- Tôi định quay lại Hải Phòng! Có thể gặp anh Cảnh dưới ấy!

Chủ nhà ngậm ngùi nói:

- Tùy đồng chí thôi! Nếu đồng chí không muốn nán lại đây với tôi thì sáng mai nên đi thật sớm. Tôi có sẳn đôi quang gánh, đồng chí giả làm người bán rong buổi sớm, chúng nó không để ý!

Ký Con đồng ý. Rồi hai người nằm bên nhau thì thầm cả đêm, ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của hai năm sóng gió nhưng hào hùng vừa qua. Những yếu nhân rường cột của đảng mà Ký Con đã từng tiếp xúc, từng sát cánh hoạt động, giờ này hầu như chẳng còn ai. Không bị xử tử thì cũng bị lưu đày biệt xứ. Nhắc tới mà cả hai không cầm được nước mắt. Mãi đến gần sáng, chủ nhà mới bùi ngùi bảo Ký Con:

- Thôi, đồng chí nghỉ một tí đi. Lấy sức chốc nữa lên đường!

Sau câu nói ấy, cả hai cùng im lặng, nhắm mặt nhưng không ai ngủ được vì những ưu tư đang trĩu nặng trong đầu.

Bấy giờ ở Nam Định và Thái Bình, Đông Dương Cộng Sản Đảng đã thành lập vài chi bộ khá mạnh. Lùi trở lại nửa năm trước, tức là tháng giêng năm 1930, khi Quốc Dân Đảng đang ráo riết chuẩn bị tổng khởi nghĩa, thì những đảng viên Tân Việt Cách Mạng Đảng có khuynh hướng Cộng Sản, đứng ra thành lập một tổ chức lấy tên là Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, địa bàn hoạt động chính là Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Như vậy, trên thực tế có ba nhóm Cộng Sản: Thứ nhất, Đông Dương Cộng Sản Đảng, do Nguyễn Đức Cảnh bí danh Cả Trọng, Ngô Gia Tự bí danh Sĩ Quyết, Trần Văn Cung bí danh Quốc Anh, Đỗ Ngọc Chu bí danh Phiếm Chu, Trịnh Đình Cửu, Dương Hạc Đính, Nguyễn Phong Sắc và Kim Tôn thành lập tại phố Hàm Lòng Hà Nội tháng 3 năm 1929. Đây là nhóm Cộng sản tiên phong tại quốc nội, bất chấp sự ngăn cản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Thậm chí Trần Văn Cung từng phát biểu công khai tại hội nghị:

- Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tuy đi sát lập trường quốc tế vô sản, nhưng đồng chí ấy chỉ ở nước ngoài, không về hoạt động tại quốc nội, nên không thể nắm vững tình hình như chúng ta!

Ngô Gia Tự thì cứ nhắc đi nhắc lại mãi một câu:

- Trong điều kiện phứt tạp hiện nay, Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội không còn đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng đến thành công. Để phù hợp với yêu cầu cấp bách của nhân dân, đã đến lúc vai trò lãnh đạo của cách mạng phải giao lại cho giai cấp công nhân. Không còn đường nào khác!

Thế là nhóm này hăng say khai tử Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội để thay bằng bảng hiệu Đông Dương Cộng Sản Đảng, giao cho Nguyễn Đức Cảnh xúc tiến soạn thảo các văn kiện đảng.

Rồi ngày sau đó, nhóm này phân tán đi khắp các tỉnh bộ để thuyết phục họ bỏ tên cũ lấy tên mới. Dĩ nhiên chẳng phải ai cũng nghe, bởi nhiều người đứng vào Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội chỉ để đánh Tây, chứ chọn hẳn chủ nghĩa Cộng sản thì họ chưa có ý niệm dứt khoát.

Dù sao đi nữa, đây cũng là những viên gạch đầu tiên xây dựng cho tòa nhà Cộng Sản tại Việt Nam, để lót đường trải thảm cho ngày vinh quang của Nguyễn Ái Quốc sau này.

Thứ hai: An Nam Cộng Sản Đảng mới thành lập hồi tháng 11 năm 1929 tại miền Nam. Nhóm này không muốn nằm trong vòng ảnh hưởng của nhóm Bắc Kỳ, nên ra một tờ báo riêng lấy tên là Bônsêvich và công bố điều lệ riêng cho đảng của mình. Bolsevik (bônsêvich) theo cách dùng của Lenin có nghĩa là Ủy Ban, là thành viên của đám đông, của đại đa số quần chúng tức là giới vô sản (prolateriat), cần dùng bạo lực để nắm chính quyền.

Thứ ba: Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn vừa ra đời ngày 1 tháng 1 năm 1930. Nhóm này thoát thai từ đảng Phục Việt, sau đổi thành Tân Việt Cách Mạng Đảng với Tôn Quang Phiệt, Trần Phú, Vương Thúc Oánh. Các đảng viên Tân Việt có khuynh hướng quốc gia từ đây trở thành bơ vơ rút lui khỏi đảng, hoặc gia nhập đoàn thể khác, hoặc không hoạt động gì nữa.

Tình trạng tam phân giữa ba nhóm cộng sản cùng hiện diện, đưa đến việc tranh giành quần chúng và không tránh khỏi sự bất hòa. Nhìn thấy nguy cơ đó, nhân dịp tết Canh Ngọ, mùng 3 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đang ở Thái Lan, khẩn cấp triệu tập đại hội ở Hồng Kông, mời đại biểu 3 nhóm cộng sản quốc nội sang họp bàn việc thống nhất. Gọi là thống nhất, nhưng thật ra hai nhóm kia phải nhập chung vào Đông Dương Cộng Sản Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Biết thế nên Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn không cử đại biểu sang dự. Muốn cho họ khỏi tự ái, Nguyễn Ái Quốc liền bỏ danh xưng Đông Dương Cộng Sản Đảng, đặt ra một cái tên mới là Đảng Cộng Sản Việt Nam và kêu gọi hai nhóm kia đứng vào.

Cái lợi thế của Nguyễn Ái Quốc là ông nhân danh chỉ thị của quốc tế cộng sản để trấn áp và ép buộc 3 nhóm phải ngồi chung vào một chiếu. Đảng viên phải nghe lời, bởi cộng sản tự căn bản là một đảng quốc tế do Liên Bang Xô Viết đứng đầu. Nguyễn Ái Quốc chính là nhân vật Việt Nam duy nhất được quốc tế cộng sản ủy thác hoạt động tại Đông Dương, cho nên tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc cũng chính là tiếng nói của Liên Bang Xô Viết. Nhóm nào không nghe là đi ngược lại đường lối quốc tế vô sản Liên Xô sẽ không công nhận.

Hội nghị Hồng Kông chỉ có 2 phái đoàn tham dự từ mùng 3 đến 7 tháng 2 năm 1930. Nhưng 3 tuần sau, tức ngày 24 tháng 2, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn cũng phải xin gia nhập. Cái thế tam phân từ đó qui về một mối dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này.

Nguyễn Ái Quốc đã thành công và từ đây trên nguyên tắc, Đảng Cộng Sản Việt Nam được chính thức khai sinh. Tuy nhiên trên thực tế, người ta vẫn quen gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng hàm ý bao trùm luôn cả ba nước Việt Miên Lào. Hai tháng sau, Nguyễn Ái Quốc nới rộng địa bàn hoạt động, thành lập thêm một số chi bộ cộng sản tại Vientien và Nam Vang, để dùng với danh nghĩa đông dương khi báo cáo thành tích lên Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản tiên phong, mọi hoạt động đều theo đúng đường lối cộng sản quốc tế. Nhưng cho đến thời điểm ấy, ông vẫn chưa muốn công khai công bố sự thành hình của đảng công sản tại Việt Nam vì đa số quần chúng còn dè dặt với hai tiếng “cộng sản” và vì các quốc gia Tây phương đang đồng loạt nhìn ra hiểm họa lâu dài của chủ nghĩa cộng sản. Dựng bảng hiệu Đảng Cộng Sản sẽ rất khó hoạt động. Nhưng đám thanh niên tân học đàn em Nguyễn Ái Quốc thì lại rất nóng lòng muốn đứng dưới lá cờ cộng sản bởi vì sứa hấp dẫn quá mãnh liệt của chủ nghĩa mới mẻ này đã lôi cuốn họ. Muốn đạt được hai mục tiêu là giải phóng dân tôc và xóa bỏ bất công xã hội thì không có con đường nào hay hơn lý thuyết cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã chiều ý họ nên phải ra mặt mà thôi! Chứ với ông thì thời điểm ấy chưa đúng lúc!