Nhờ có cuốn Guide Groslier (1) anh T. cho mượn, tôi được biết qua loa về lịch sử, tôn giáo của người Miên.
Đế Thiên Đế Thích có hai phế tích lớn: Angkor Thom và Angkor Vat, Angkor Thom là một đền thờ.
Nhờ tìm được nhiều tấm bia, các nhà khảo cổ hiện nay cho ta biết một cách gần như chắc chắn thời kỳ xây cất những ngôi đền chính. Những phế tích cổ nhất dựng từ thế kỷ VI, rồi tới thế kỷ IX người Miên tiếp tục kiến thiết khu Đế Thiên Đế Thích cho đến đầu thế kỷ XIII. Dưới đây là một bảng cho ta biết thời kỳ cùa những phế tích lớn, sắp theo thứ tự thời gian:
Phnom Bakheng vào khoảng năm 900
Mébon đông 952
Pré Rup 961
Bantai Srei 967
Takeo 1.000
Baphoun 1.060
Angkor Vat tiền bán thế kỷ XII
Ta Prohm 1.186
Prak Khan 1.191
Bayon và tường thành Angkor Thom cuối thế kỷ XII
Tổ tiên người Miên ngày nay có lẽ cùng một dòng với người Môn ở nam Miến Điện, hoà hợp với vài dân tộc ở dãy Trường Sơn, sau chịu ảnh hưởng của Ấn Độ về văn minh. Họ không phải là gốc Ấn Độ mà cũng không bị Ấn Độ xâm lăng, đô hộ như trước kia người ta lầm tưởng.
Đầu kỷ nguyên, người Trung Hoa gọi xứ Cao Miên là Phù Nam (Fou Nan). Từ thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VII, xứ đó phát triển mạnh, giao thiệp cả với Ấn Độ và Trung Hoa. Giữa thế kỷ thứ VI có nội loạn, một vua chư hầu Kambuja chiếm hết bờ cỏi, dựng đô ở gần Kompong Thom. Do tên Kampuja đó mà người Pháp gọi là Cambodge, ta gọi Cao Miên.
Suốt thế kỷ VIII, Miên quốc chia làm hai xứ: Thuỷ Chân Lạp (Nam Việt và Cao Miên ngày nay) và Thổ Chân Lập (Trung và Hạ Lào ngày nay) (°). Thuỷ Chân Lạp bị Java và Sumatra xâm chiếm.
Qua thế kỷ sau, một vị anh hùng Miên thống nhất lãnh thổ, lên ngôi, tên là Jayavarman II, tuyên bố độc lập, không chịu sự đô hộ của Java nữa, dựng kinh đô ở miền núi Kulen, mở đầu cho một thời kỳ Angkor, tức thời thịnh nhất của dân tộc Miên. Ông mất năm 850, trị vì được 48 năm.
Trong mấy thế kỷ sau, nước vẫn còn thịnh, các vua Miên dời kinh đô xuống Angkor; rồi vào khoảng thế kỷ XI xây dựng những đền rất đẹp là Takeo, Phiméanakas, Baphoun…
Tiền bán thế kỷ XII, xuất hiện một nhà vua rất anh hùng, vua Suryavarman II. Ông liên kết với Chàm, chống lại người Việt, rồi trở lại đánh chiếm đất Chàm. Ông cho xây đền, đài, lăng tẩm.
Cuối thế kỷ XII, vua Jayavarman VII (2) đuổi được người Chàm rồi đô hộ cả Chàm lẫn Lào. Ông dựng lại những đền cũ ở Angkor Thom, nhất là đền Bayon, xây thêm một bức tường bao bọc kinh đô và lập rất nhiều dưỡng đường trong nước. Những công việc kiến thiết đó hao tốn rất nhiều tài sản, sức lực của dân, mà người Miên từ đầu thế kỷ XIII, hoá ra kiệt quệ, bị người Thái chiếm. Cuối thế kỷ đó, năm 1296, một người Trung Hoa tên là Chu Đạt Quan (Tcheou Ta Kouan) qua Miên, đau lòng cho cảnh suy tàn của Angkor và viết một tập du ký ghi phong cảnh và phong tục Miên. Tập đó, Paul Pelliot đã dịch ra Pháp văn, nhan đề là Mémoires sur les coutumes du Cambodge (xuất bản năm 1902).
Các vua Miên từ đó phải bỏ miền Bắc để tránh người Thái, xuống ở miền Nam, dựng đô ở Oudon, phía trên bến đò Kompong Luong vài cây số, rồi lại dời lần nữa xuống Nam Vang, sau bị Việt rồi tới Pháp đô hộ.
KIẾN TRÚC
Theo Chu Đạt Quan thì các cung điện của vua Miên ở cuối thế kỷ thứ XIII không xây bằng đá mà bằng những vật liệu nhẹ, như gỗ, gạch, ngói; còn dân thường thì ở nhà lá. Vậy phế tích Đế Thiên Đế Thích không phải là cung điện để vua ở. Theo các nhà khảo cổ của trường Viễn Đông, nó cũng không phải là nơi để sùng bái chung như các nhà thờ ở châu Âu; nó là những điện nhà vua xây cất để thờ các vị thần hoặc tổ tiên của các triều đại; có ngôi chỉ là lăng tẩm. Hầu hết ngôi nào cũng hướng về phương Đông; điều đó tỏ rằng người Miên ở thế kỷ thứ XII vẫn còn chịu ảnh hưởng của một tôn giáo chung cho nhiều dân tộc thời cổ: tức sự thờ phụng mặt trời.
Kiến trúc của đền Angkor Vat, của hồ Neat Pean, của những con đường thăm thẳm ở Prak khan tỏ rằng các nghệ sĩ Miên biết bao quát, hoà hợp, có một nghệ thuật cao, hùng vĩ mà cân đối, làm cho ai cũng phải phục rằng cả miền Angkor là một công trình mạnh mẽ, thuần nhất và đẹp đẽ của một bộ óc biết tổ chức, suy nghĩ chín chắn. Chỉ tiết một điều là nhiều điện xây cất cho mau xong, nên mắc nhiều lỗi về kỹ thuật: có đền đá chồng lên nhau mà không xen kẽ, lại không neo kỹ với nhau nên dễ đổ. Một điều đáng chú ý nữa là phần chính của đền cất trên một khu hẹp, chen chúc toà nọ toà kia, có vẽ đồ sộ, nhưng cho ta cái cảm giác nghẹt thở, nhìn lâu thấy mệt.
Vật liệu thường dùng là đá sa thạch dễ đục xen với đá ong và những viên gạch nung kỹ lớn, nhỏ nhiều cỡ, từ cỡ 22 x 12 x 4 tới cỡ 30 x 16 x 8,5 phân.
Người Miên ưa đục hình trên đá. Ở điện Angkor Vat có trên 12.000 thước vuông đá đục hình về đời các vị thần thánh. Ở đền Bayon, hình diễn lại đời sống hàng ngày và phong tục đương thời. Ở Sân Voi tại Angkor Thom, trên bốn trăm thước chiều dài, hiện lên hình những loài vật lớn bằng vật thiên nhiên.
Khi người Pháp tới, cả miền Đế Thiên Đế Thích bị bỏ phế trong một khu rừng ít ai lui tới. Đến năm 1898, chính phủ Pháp lập ra trường Viễn đông bác cổ và lưu ý tới sự bảo tồn những phế tích đó.
Họ phải phá rừng để vô, chống đỡ những bức tường, pho tượng đã sụp đổ, sau họ mới dùng một phương pháp đã thực hành từ lâu ở Hy Lạp, Java, tức phương pháp xây dựng lại những ngôi đền cũ bằng những phiến đá, viên gạch đổ của chính đền đó nếu có thiếu thì thêm những vật liệu mới nhưng thêm một cách kín đáo và dùng những vật liệu giống với vật liệu cũ. Nghĩa là họ phải tháo gỡ, tháo từng miếng, chùi cọ rồi sắp lại đúng với tấm hình và bản đồ của mỗi ngôi đền. Nhờ công phu đó mà ngày nay du khách được ngắm một kỳ quan và được biết thêm nhiều đoạn sử của dân tộc Miên
Chú thích
(1) Hiện nay có cuốn Les Monuments du groupe d’Angkor của Maurice Glaize, bản in thứ nhì do nhà Albert Portail xuất bản năm 1948. Cuốn này khá đầy đủ. Tác giả có chỉ dẫn du khách về dân tộc, lịch sử, địa lý, tôn giáo Cao Miên, lại lập chương trình để đi coi phế tích theo con đường nào, và những giờ nào để khỏi bỏ sót những chổ đáng coi. Sách dầy 280 trang, rất nhiều hình ảnh và bản đồ. Nên coi thêm cuốn Pour miex comprendre Angkor của G. Coedès - Andrien neuve – 1947.
(2) Xem phụ lục
(°) Có người còn gọi là Lục Chân Lạp hoặc Thượng Chân Lạp
TÔN GIÁO
Mới đầu người Miên theo đạo Bà La Môn rồi sau theo đạo Phật, phái Tiểu thừa. Bốn vị thần Phật được họ thờ là:
- Thần Brahma sinh ra muôn loài.
- Thần Vichnou giữ gìn cho muôn loài khỏi bị tiêu diệt.
- Thần Civa tàn phá và kiến thiết.
- Phật Avalokitecvara, vị Phật của chu kỳ hiện tại.
Trong bốn vị đó, ba vị sau được thờ phụng nhiều hơn. Phật Avalokitecvara có bốn mặt quay về bốn phương trời để cứu nhân độ thế. Con rắn thần linga tượng trưng cho thần Civa. Còn thần Vichnou có khi là một con rắn có khi là một con rùa, có khi là một con lợn rừng, chính thần này khuấy nước biển cho thành sữa để nuôi loài người.
Ngoài ra còn nhiều vị thần tượng trưng bằng voi, sư tử, bò… Đền nào ở Đế Thiên Đế Thích cũng chạm hình các vị thần. Tôi nhận thấy thần nào cũng trẻ, không như thần Trung quốc (°) phần nhiều có râu dài.
Nhờ cuốn Guide Groslier và nhờ ba người bạn đưa đi, tôi khỏi phải mướn người chỉ dẫn. Nghề chỉ dẫn du khách đã làm giàu cho một số người Miên. Hồi xưa họ sung sướng và nhàn hạ hơn công chức nhiều, nhưng từ khi có chiến tranh, đa số thất nghiệp.
Chú thích:
(°) Sau 5 từ “Trung Hoa”, ở đây lại xuất hiện từ “Trung quốc”! Tôi cũng phải chép đúng nguyên văn. Xin nói thêm là các từ nếu thấy sai chính tả tôi đều chỉnh lại cho đúng, ví dụ như Coedes (sai) được sửa lại thành Coedès (đúng). Có thể trong tài liệu nguồn còn vài lỗi chính tả mà tôi không thấy và chắc chắc là có nhiều lỗi chính tả là do tôi gõ sai. Rất mong các bạn chỉ ra giùm. Xin cám ơn trước.