Để lành bệnh tự nhiên

CHƯƠNG 1: KHỞI ĐẦU TỪ RỪNG RẬM

Để tôi đưa bạn đi với tôi đến một nơi xa xôi mà tôi đã đến cách đây hai mươi năm: nơi đó là bờ cát của một con sông lớn trong một buổi trưa oi bức, ngột ngạt vào năm 1972. Con sông này là một nhánh của sông Rio Caquetá trong vùng Tây Bắc Amazon, nằm gần biên giới chung của Columbia và Ecuador. Tôi đang bị lạc. Tôi đang tìm kiếm một người thổ dân da đỏ giống Kofán tên là Pedro, anh ta sống trong một chiếc chòi hẻo lánh nằm đâu đó trong khu rừng vĩ đại dày đặc, nhưng lối mòn dự định đưa tôi đến chòi bị chặn ngang bởi một con sông không thể vượt qua và tôi không biết phải tiến hành chuyện đi tìm người hướng đạo da đỏ này như thế nào. Chiều càng lúc càng xuống dần.

Hai ngày trước đây, sau một chuyến đi dài vất vả, tôi đã để lại cái xe của tôi ở cuối một con đường bụi bặm và dùng một chiếc canô máy để đến một vùng nhỏ nơi biên giới và nghỉ qua đêm trong trạng thái chập chờn. Ngày hôm sau, tôi tìm những người da đỏ chở canô bắt đầu đi một đoạn đường sông mà họ nói rằng sẽ dẫn tới nơi Pedro ở. Họ nói "phải mất nửa ngày đi bộ" nhưng tôi hiểu rằng nửa ngày đi bộ của dân da đỏ có thể là nhiều hơn đối với tôi. Tôi có đem theo một túi hành lý với những đồ cần thiết nhưng có nhiều thực phẩm lắm, vì tôi tính là sẽ ở chung với người hướng đạo này. Sau nhiều tiếng đồng hồ trong rừng tối, con đường sông đi đến ngã ba. Không ai nói điều gì về ngã ba sông này. Tôi lắng nghe sự lên tiếng của trực giác của mình và quyết định đi về hướng bên phải. Sau chừng một giờ nữa, tôi mới thấy rõ vài ngôi chòi và có năm người đàn ông da đỏ đang sơn mặt cho nhau.

Tôi cảm thấy nóng và khát kinh khủng và nói mấy câu tiếng Tây Ban Nha để xin nước uống. Những người đàn ông có vẻ tảng lờ đi. Họ nói rằng họ không có nước. Tôi kêu lên, "Không có nước?, sao lại như thế này được. " Họ nhún vai và tiếp tục vẽ mặt cho nhau. Tôi hỏi thăm về người hướng đạo thì được một người da đỏ trả lời là không có ở đây. "Tôi có thể tìm ông ta ở đâu?” Có sự gợi ý thoải mái cho biết là có một con đường nằm sau dãy chòi. Tôi hỏi, "Có xa lắm không?". Lại bị một cái nhún vai thay cho câu trả lời.

Đây là một kinh nghiệm mới lạ đối với tôi. Trong những vùng đất xa xôi của xứ Colombia tôi luôn gặp những người da đỏ cực kỳ hiếu khách. Chỉ có những cư dân ở những thành phố biên giới hiểm trở, những người lai (Tây Ban Nha lấy thổ dân da đỏ) đi tìm vàng, là những người không có thiện cảm và đáng sợ. Khi mà tôi đi được đến lãnh thổ của người da đỏ là tôi luôn luôn cảm thấy an toàn, tin chắc là những thổ dân địa phương sẽ đón tiếp người khách lạ, giúp người ấy tìm đến chỗ muốn tìm, và chắc chắn sẽ đưa nước cho người khách bộ hành đang khát nước này.

Năm người đàn ông da đỏ gốc Kofán này thuộc loại trẻ trung, đẹp trai và tự đắc. Họ bận áo chẽn bằng vải bông, để tóc dài và cố tình trung thành với môn nghệ thuật vẽ mặt của họ. Sau khi một người được vẽ vào trán hay má, anh ta bỏ ra một thời gian dài để xem xét đánh giá nét vẽ bằng một tấm gương bể, anh có thể nói mấy lời nho nhỏ tỏ vẻ sự đồng ý hay yêu cầu vẽ lại cho đẹp hơn. Rõ ràng làm mấy chuyện này cũng mất hết cả buổi trưa. Sự hiện diện của tôi chẳng làm bận tâm họ một chút gì, và sau chừng nửa tiếng đồng hồ bị bỏ quên, tôi mang hành lý và tiếp tục đi xuống con đường mòn. Vài tiếng đồng hồ sau, con đường mòn dẫn đến một bờ sông có rừng rậm chung quanh. Tôi như người bị bỏ rơi trên hoang đảo.

Quang cảnh nơi đây tuyệt đẹp, cho dù tôi coi con sông và khu rừng như là những chướng ngại vật hơn là nguồn cảm hứng. Trên cao những đám mây bay dồn dập như sóng cồn bay qua những lùm cây. Nước dưới dòng sông trong trẻo chảy siết. Không dấu hiệu nào của người có mặt nơi đây, không có tiếng động ngoại trừ tiếng của côn trùng và chim. Nếu không có muỗi mòng cắn xuất hiện với số lượng lớn từ bình minh cho đến hoàng hôn thì tôi sẽ cắm trại tại đây mà không cần nghĩ ngợi gì cả. Tôi có một cái võng và một cái mùng chống muỗi để trong túi hành lý và tôi có thể nghỉ qua đêm nếu cần thiết, nhưng tôi cảm thấy lo lắng khi nghĩ tới cái viễn tượng bị lạc, và cảm thấy nản vì thấy tính toán của mình vô ích.

Người hướng đạo da đỏ khó tìm này có tiếng là một nhà chữa bệnh có nhiều năng lực. Trong vòng một năm tôi lang thang ở vùng Nam Mỹ, có những người hướng đạo làm tôi nản lòng. Một số thì say sưa. Một số háo danh và háo của. Có một người, khi ông biết tôi là Bác Sĩ từ trường đại học Harvard, ông yêu cầu tôi giúp ông một giấy chứng nhận của trường đại học Harvard để ông dùng để trị mấy đối thủ của ông. Tôi có nhiều cuộc thám hiểm trong những lần du lịch đó, nhưng cuối cùng, không có cuộc thám hiểm nào dạy tôi trở nên một người thầy thuốc tốt hơn. Anh chàng hướng đạo Pedro là hy vọng cuối cùng của tôi. Anh thuộc loại vô danh đối với thế giới bên ngoài. Tôi có lẽ là người nước ngoài đầu tiên thăm viếng anh, và tôi có nhiều hy vọng rằng anh sẽ dạy tôi những bí quyết của sự lành lặn mà tôi vốn đang tìm kiếm bấy lâu nay.

Nhưng giờ đây tôi đang bị lạc, ánh nắng xế chiều rực rỡ của mặt trời vùng Amazon đang chiếu xuống những tảng đá màu vàng đậm. Đêm sẽ xuống nhanh, và điều này có nghĩa là cơn lạnh bất chợt sẽ trải dài dọc con sông và tôi không còn cơ hội nào để đến một nơi có người ở. Tôi không phải là loại người hút thuốc nhưng tôi đốt ba điếu thuốc lá cùng một lúc, đây là một loại thuốc lá rẻ tiền địa phương tên Pielrojas (Da đỏ), có hình một người da đỏ Bắc Mỹ ngoài bao thuốc. Tôi thổi hơi vào thuốc lá làm bay khói thuốc chung quanh tôi, với hy vọng khói thuốc sẽ tạm thời đuổi đi lũ muỗi mòng dày đặc.

Dù trong trạng thái hoang mang, chuyện cần làm trước nhất là ăn, tôi lục lọi trong túi hành lý và tìm ra một gói đồ ăn hỗn hợp làm bằng cacao và một số trái cây khô. Tôi đốt lửa bằng một cái lò cháy bằng khí butane mang theo, nấu một ít nước sôi, và chẳng mấy chốc là đã nhấm nháp chút nước nóng, và chưa bao giờ tôi cảm thấy ngon như vậy - có một chút gì đó mà tôi cảm thấy thoải mái và thân mật khi uống chút nước nóng trong một khung cảnh xa lạ như thế này.

Tôi đang ở trong một vùng xa xôi của Nam Mỹ vì tôi đang tìm kiếm một thứ mà tôi tin rằng nó kỳ lạ và đặc biệt, một cái gì đó khác xa với kinh nghiệm thường ngày của tôi. Tôi đang tìm kiếm phần bên trong sâu xa nguồn cội của sức mạnh làm lành lặn, và sự nối kết của sự thần diệu, tôn giáo, và thuốc men. Tôi muốn hiểu xem tâm trí tác động với thân thể như thế nào. Trên hết, tôi hy vọng học được những bí mật thực tiễn để giúp người khỏe mạnh. Tôi đã trải qua tám năm trong một trường nổi tiếng để học những kiến thức cao siêu, bốn năm về thực vật (botany) và bốn năm về thuốc men (medicine), nhưng tôi vẫn không có câu trả lời rõ ràng cho những câu hỏi của tôi. Những nghiên cứu về thực vật học bỗng tạo ra sự ham muốn nhìn thấy rừng ẩm (rain forest), gặp gỡ những người dùng thực vật địa phương, và giúp bồi bổ cho kiến thức về thảo mộc làm thuốc đang phai nhạt đi mau chóng. Sự huấn luyện về Y khoa đã làm tôi muốn trốn chạy khỏi cái thế giới của cách chữa trị có tính cách kỹ thuật lan tràn để tìm về một phương hướng lý tưởng có tính lãng mạn về cách lành lặn tự nhiên.

Ba năm trước đây, vào năm 1969, lúc tôi chấm dứt những huấn luyện căn bản về Y khoa, tôi đã có một quyết định sáng suốt là tôi sẽ không hành nghề về những kiến thức Y khoa mà tôi mới vừa được học hỏi, huấn luyện. Tôi quyết định như vậy vì hai lý do, một vì cảm xúc và một vì lý luận. Lý do đầu tiên rất đơn giản là nếu tôi đau, tôi không muốn được chữa trị theo cái cách mà tôi đã được dạy để trị người khác, trừ phi có cách nào khác hơn. Điều đó làm tôi cảm thấy ngại ngùng khó chịu khi chữa trị kẻ khác. Cái lý luận thứ hai là hầu hết những cách điều trị tôi học trong bốn năm của trường thuốc Harvard và nội trú không đào sâu tới nơi gốc rễ của tiến trình bệnh và làm tăng tiến sức khỏe mà thay vào đó áp chế những tiến trình đó hay chỉ hoàn toàn chống lại tác động của những triệu chứng rõ ràng của bệnh. Tôi hầu như không học được về sức khỏe và sự bảo trì của nó, về cách làm thế nào để ngăn ngừa bệnh - đây là một sự bỏ quên lớn lao, vì tôi vẫn thường tin rằng cái nhiệm vụ chính yếu lúc đầu của Bác sĩ vẫn là nên dạy cho người ta làm thế nào để tránh khỏi mắc bệnh từ lúc đầu. Cái chữ "doctor" (Bác sĩ) là lấy từ tiếng La tinh có nghĩa là "teacher" (thầy giáo); thứ đến mới tính đến chuyện trị cho căn bệnh hiện tại.

Tôi cảm thấy khó chịu vì bản chất đàn áp (supressive nature) của nền Y khoa hiện đại. Nếu bạn nhìn những tên của những loại thuốc thông thường nhất hiện nay, bạn sẽ thấy phần lớn chúng đều bắt đầu với tiếp đầu ngữ "anti" (có nghĩa là "chống"). Thôi thì đủ thứ anti như antispasmodics (chống lại sự co thắt), antihypertensives (chống lại chứng tăng huyết áp), antianxiety, antidepresants (chống lại chứng căng thẳng), antihistamines (chống lại chất histamin), antiarrhythmics (chống lại chứng loạn nhịp tim), antitussives (chống lại chứng ho), antiperetics (chống lại chứng gây sốt, và antiinflammatories (chống lại chứng viêm) cũng giống như thuốc bao lại chất beta (beta blockers) và cơ chế đối kháng chất Histamine vốn là chất gây ra axít trong cơ thể như ở bao tử (H2-receptor antagonists). Rõ ràng điều này chống lại nguyên tắc của thuốc men (antimedicine) - nói vắn tắt của cái loại thuốc men theo cái nghĩa phản tác động (counteractive) và áp chế (supressive).

Bạn có thể giật mình mà hỏi, "Có gì không ổn về chuyện này". Nếu một cơn sốt đang trong tình trạng nguy hiểm, hay một cơn dị ứng không kiểm soát được, dĩ nhiên trong những trường hợp đó cần phải hóa giải ngay. Tôi không chống đối chuyện dùng những cách trị liệu đó trên một căn bản tạm thời ngắn hạn để điều chỉnh những điều kiện nghiêm trọng. Nhưng ngay từ những ngày đầu học thuốc, tôi đã ý thức rằng nếu chúng ta cứ dựa vào những phương cách ấy như là chiến thuật chính để điều trị bệnh tật thì rõ ràng là sẽ sinh ra hai loại vấn đề. Đầu tiên, bạn làm cho bệnh nhân bị nguy hiểm, vì đối với bản chất thân thể của họ, những vũ khí dược phẩm bị coi là quá mạnh và độc. Kết quả mong muốn thường không được như ý vì những biến chứng (side effects), bởi chất độc (toxiciy). Những phản ứng trái ngược đối với thuốc men có tính phản tác dụng (counteractive) của Y khoa hiện đại đã là những vết đen đối với hệ thống cơ thể, và tôi thấy quá nhiều trong khi được huấn luyện trong trường thuốc đủ để cho tôi biết rằng phải có một cách chữa bệnh khác tốt hơn. Thuốc men lấy từ thực vật có vẻ hấp dẫn tôi vì nó cho thấy cái cách an toàn, tự nhiên so với những loại thuốc tôi đã được dạy để dùng.

Vấn đề thứ hai tuy thiếu rõ ràng nhưng có thêm nhiều rắc rối, là qua thời gian những cách điều trị có tính áp chế (suppressive treatments) có thể thật sự làm cho bệnh càng nặng thêm thay vì giải quyết chúng. Điều có thể xảy ra này không xảy ra cho tôi cho đến khi tôi đọc được những bài viết của một lương y dị giáo lỗi lạc Samuel Hahnemann (1755-1843), thiên tài người Đức và là người y sĩ bị coi như phản bội này đã phát triển môn vi lượng đồng căn (homeopathy), đây là một trong những trường phái của ngoại khoa (alternative). Phép chữa vi lượng đồng căn dựa trên sự đưa vào cơ thể một số lượng rất nhỏ chất thuốc chữa trị được pha loãng rất nhiều để gây xúc tác với những phản ứng có tính lành lặn. Tôi không phải là người theo theo lối chữa vi lượng đồng căn. Tôi mạnh mẽ không đồng ý với những người theo phe vi lượng đồng căn chống đối chuyện miễn dịch (immunization) và toàn bộ cơ thể rối loạn tùm lum cũng như trường phái này không tương hợp với những mô hình khoa học hiện nay của vật lý và hóa học. Tuy thế, tôi đã từng chứng nghiệm và quan sát những cách chữa vi lượng đồng căn và và ngưỡng mộ cách dùng trị bệnh của phương pháp này vốn không làm hại cơ thể. Hơn nữa tôi lại tìm thấy những ý tưởng của Hahnemann rất hữu ích.

Một trong những bài giảng dạy quan trọng nhất của ông quan tâm đến sự nguy hiểm của chuyện đè nén những triệu chứng rõ ràng của bệnh tật. Hahnemann dùng ví dụ một vết đỏ ngứa trên da. Ông dạy tốt hơn là nên có bệnh trên bề mặt của cơ thể bởi vì từ bề mặt bệnh có thể đi ra phía ngoài. Những phương pháp trị bệnh áp chế có thể làm cho tiến trình bệnh đi vào phía trong những bộ phận trọng yếu của cơ thể. Chuyện ngứa ngáy ngoài da có thể biến mất, nhưng những rắc rối có thể xuất hiện đâu đó, và rắc rối này có thể chống lại ngay cả những phương cách trị liệu áp chế mạnh mẽ nhất.

Hahnemann đã nhìn thấy vấn đề này rất lâu trước khi có sự khám phá chất corticosteroids, đây là một thứ hóc-môn chống viêm rất mạnh mẽ (the very powerful anti- inflammatory hormones) mà những Bác sĩ bấy giờ cho bệnh nhân thoải mái mà không nghĩ đến sự nguy hại của thuốc này. Loại thuốc đắp làm bằng chất steroids là chất thuốc áp chế rất hữu hiệu để trị bệnh phát ban trên da (skin rashes) và tuy không được tốt về lâu về dài, thế mà hiện nay nó vẫn được bán khắp các quày ở siêu thị trên đất Mỹ. Tôi đã thấy rất nhiều lần có những bệnh nhân trở nên lệ thuộc vào thuốc này. Khi nào mà họ dùng kem steroid và dầu thoa thì vết phát ban trên da coi như còn được kiểm soát, nhưng ngay sau khi ngưng dùng thuốc thì bệnh phát ban trên da tái xuất hiện với một mức độ còn trầm trọng hơn trước. Tiến trình bệnh đã không được giải quyết mà chỉ cầm cự thế thôi, và bệnh thu thập thêm sức mạnh để rồi sẽ tái biểu lộ ngay khi lực áp chế bên ngoài hết hiệu lực.

Khi chất steroids được đưa vào thân thể một cách có hệ thống, năng lực áp chế và chất độc của chúng lại càng lớn hơn. Bệnh nhân dùng những loại thuốc như prednisone năm này qua tháng khác để kiểm soát những bệnh như thấp khớp (rheumatoid artritis), bệnh suyễn (asthma), và những chứng tự động miễn dịch (autoimmune) và dị ứng (allergic) bất bình thường thông thường cũng hứng chịu một số lượng chất độc nhiều kinh khủng (bệnh mập phì, căng thẳng thần kinh, bệnh loét bao tử, bệnh cataracts ở mắt, bệnh yếu xương, mụn), nhưng không thể ngừng dùng thuốc vì những triệu chứng của bệnh sẽ trở lại với nguyên đầy đủ sức mạnh. Những gì xảy đến với năng lực của căn bệnh bị áp chế này? Chúng đi nơi đâu?

Kinh nghiệm của tôi với bệnh nhân đã chứng tỏ những lời báo động của Hahnemann là đúng. Mới vừa đây tôi gặp một người đàn bà chừng trên ba mươi tuổi mà hai năm trước đây, bà ta bắt đầu tỏ lộ những triệu chứng của bệnh tự động miễn dịch: bệnh cứng da (scleroderma). Bệnh bắt đầu bằng một dãy những triệu chứng có những vết trắng nổi lên trên tay khi tiếp xúc với trời giá lạnh. Cái này gọi là hiện tượng Raynaud, một dấu hiệu chứng bất động của mạch thần kinh có thể tự nó sẽ biến đi hay báo trước sẽ làm trầm trọng thêm chức năng thần kinh và lưu thông. Trong trường hợp này nó sẽ kéo theo bằng sự đau nhức tại khớp và làm cho những ngón tay sưng. Rồi thì da của những ngón tay và bàn tay trở nên dày cộm và cứng lại, đây là sự biểu hiện rõ ràng nhất của bệnh xơ cứng da. Bàn tay của những bệnh nhân xơ xứng thường lạnh, màu đỏ tía, bóng loáng, cứng và rất khó cử động, nhưng sự thay đổi bên ngoài này, trong lúc thay hình đổi dạng, không phải là kết quả xấu nhất của bệnh này. Lúc bệnh xơ cứng da dính líu đến những bộ phận bên trong của hệ thống tiêu hóa và tim phổi thì nó có thể giết người.

Những bác sĩ nhanh chóng xác định vấn đề và bắt đầu chữa trị bệnh nhân bằng những liều thuốc cao chất prednisone và những loại thuốc áp chế hệ thống miễn nhiễm khác (cardiorespiratory systems). Cô ta đã phản ứng thật tuyệt vời. Chỉ trong vòng vài tháng, da của cô trở lại bình thường, tất cả chỗ đau đớn nơi khớp xương biến đi, và rồi những y sĩ của cô tuyên bố cô đã "thuyên giảm hoàn toàn". Không may mắn thay, chỉ hơn một năm sau đó cô bắt đầu phát ra chứng thở hổn hển, chiếu quang tuyến X thì cho biết là cô mang bệnh viêm phổi, một chứng bệnh phát triển từ từ trong đó những tế bào phổi bị thay thế bằng tế bào bị viêm. Cô được bảo cho biết rằng tình trạng này không có liên hệ gì đến bệnh xơ cứng da cũ của cô cả; nhưng, thật ra, bệnh viêm phổi được biết đến khá nhiều, mặc dù không được phổ thông lắm, cách biểu lộ ra cũng giống như vậy, chỉ có điều là nó xảy ra trong một khu vực trọng yếu hơn trong cơ thể và khó trị hơn. Hai bàn tay của cô ấm áp có màu hồng, và mềm mại. Không có dấu hiệu nào của bệnh tật trên con người cô ta. Tuy nhiên, phía bên trong, cô đang bị tàn hại bởi một căn bệnh trong phổi mà giờ đây chống lại tất cả những sức mạnh áp chế của thuốc men hiện đại.

Lúc tôi hoàn thành xong nội trú Y khoa, tôi cũng đã thấy đủ những sự thay đổi về chủ đề này để thuyết phục tôi không muốn hành nghề Y khoa hiện đại này nữa hay cần phải được huấn luyện thêm nữa. Tôi không biết cái gì khác nữa để thực tập, tuy nhiên, sự bất an đó đã dẫn tôi tính làm cái yêu cầu hiện tại của tôi. Nhưng sau hai năm tìm tòi khó nhọc, tôi chỉ học hỏi được rất ít về khả năng lành lặn. Một thời gian ngắn trước khi tới vùng đất của người da đỏ Kofán, tôi kết luận rằng tôi đã cố gắng không đủ để khám phá ra địa hạt mới này. Những người chữa lành và những người hướng đạo tôi muốn tìm thì đã được khám phá vì họ quá nổi tiếng và quá dễ tìm. Tôi nghĩ những gì tôi muốn tìm chắc phải ở thật xa và khó tìm thấy, vẫn còn dấu ở trong một chỗ nào đó tăm tối trong vùng rừng rậm Amazon.

Và giờ này thì tôi như thế này đây, vừa ăn xong một ít cacao, ngày đã gần hết và tôi đang bị lạc giữa rừng sâu.

Cuối cùng thì tôi cũng kiếm được người hướng đạo tên Pedro, và tôi nhớ rõ cuộc hội ngộ hôm ấy lắm dù bao năm tháng đã trôi qua, vì nó là một bước ngoặt chuyển hướng trong đời tôi. Dĩ nhiên lúc ấy tôi chưa có một ý tưởng cụ thể rõ ràng nào, cứ coi đó là một trong những chuỗi bực bội mà tôi đang gặp. Thực ra, đây là bước đầu tiên của con đường mới, con đường đem tôi về lại một chỗ mà nơi đó tôi khám phá ra những gì tôi đã biết từ lâu nhưng không thể phát hiện ra được.

Lúc mang đồ đạc dụng cụ lên vai, tôi phát hiện ra một bãi cát ven sông nằm phía sông trên không xa lắm. Tôi nghĩ từ vị trí đó tôi có thể nhìn rõ hơn khu vực này và có thể phán đoán một cách hợp lý về hướng chòi của Pedro. Tôi lội đến bãi cát đó, và khi tôi cố ý nhìn kỹ bờ sông thì tôi khám phá ra hình như có một con đường mòn phía nguồn trên của sông. Đúng rồi. Tôi men theo bờ nước mà đi đến đó, lúc tới đó rồi, tôi cảm thấy như bao nhiêu sự căng thẳng đều tiêu tán hết, cho dù mặt trời giờ đây đã xuống thấp ở phía Tây. Sau bốn mươi lăm phút, tôi đến một bãi rộng nơi có con sông nhỏ đổ vào con sông lớn. Tại chỗ khúc sông giao nhau, có một cái nhà sàn lớn dựng trên cột. Tôi hối hả chạy tới nó mà cảm thấy như bầu trời rực sáng lên với muôn màu sắc của hoàng hôn miền nhiệt đới, tôi leo lên cầu thang thô sơ để tới cái lan can nhìn xuống chỗ nước hợp dòng của hai con sông.

Không thấy người hướng đạo bên trong. Người có mặt trong nhà là một cô gái da đỏ còn trẻ tuổi, cô nói tiếng Tây Ban Nha một cách rụt rè và nhìn tôi như một người quái lạ. Cô nói với tôi là Pedro đi rồi. Anh ta đã đi mười ngày trước đây và đáng lẽ đã trở về từ hôm qua. Tôi hỏi cô tôi có thể ở lại không. Cô không chống đối nên tôi tháo hành lý trên vai xuống và lấy cái võng mắc giữa hai cái cột ở một góc lan can nhà.

Trong suốt bốn ngày đêm sau đó, tôi cứ nằm ỳ trên võng, tôi đốt thuốc lá Pielroja liên tục trên tay, nhìn những ngày nóng nực đi qua đêm trong sáng và nhiều sao trên trời. Đôi lúc, tôi bất chấp muỗi mòng để ra sông bơi vào lúc giữa trưa. Tôi cố gắng nói chuyện với cô gái trong nhà nhưng không thành công. Tôi ở trong nhà để trốn cái thế giới nóng nực, ẩm thấp, ánh nắng mặt trời làm lóa mắt, và rừng rậm, đúng là thế giới của các truyện ngắn của nhà văn Jack London viết về vùng cực Bắc. Đúng là một chọn lựa nhiều cảm hứng, đúng là cái thế giới văn chương của những lều tuyết, những cánh đồng băng giá, cùng với cái lạnh tê cóng. Nhưng buồn thay chuyện đã đến phần kết thúc nên tôi cứ đọc đi đọc lại hoài.

Lại có thêm một chuyện khác nữa làm cho tôi cũng vơi bớt sự buồn chán. Đó là Pedro có giết một con báo trước khi anh rời nhà. Con báo có một con nhỏ và hiện nay đang ở trong một cái chuồng trong nhà. Nó có vẻ kháu khỉnh, nhỏ nhắn và có vẻ muốn tiếp xúc với người ngoài. Có một lần, tôi mang nó ra khỏi chuồng và đùa vui với nó trên sàn nhà. Chơi với nó một chốc thì nó trở nên cáu kỉnh, thô bạo đối với tôi. Tôi muốn nó chấm dứt, nhưng những cố gắng của tôi tìm cách đẩy nó ra và làm cho nó bình tĩnh trở lại đã kích thích bản năng hoang dại vốn có trong đầu óc nó. Đột nhiên nó không còn là con mèo con bé nhỏ nữa mà đã trở thành một con vật hung ác. Cô gái da đỏ cầm một cái chổi tới giúp tôi và cả hai chúng tôi tính toán cách để đưa nó trở lại vào chuồng. Tôi bị vài vết cào và hai vết cắn trên vai.

Rồi đến một buổi trưa nọ, Pedro xuất hiện và đón chào tôi nồng nhiệt. Anh ta là một người mạnh mẽ hoạt động và cương nghị trong lứa tuổi đầu 40. Tôi có cảm tình với anh ngay lập tức, nhưng ngay sau đó anh nói với tôi là anh không thấy lý do nào cho tôi tiếp tục ở lại nhà anh nữa, vì anh đã ngưng cái nghề chữa bệnh. Thay vì làm nghề chữa bệnh, anh đã trở nên một nhà tranh đấu chính trị và đang rán tổ chức cho người da đỏ Kofán của anh chiến đấu chống lại một sự đe dọa to lớn đến cách sống của đồng bào anh, đó là sự hiện diện của những người trong rừng "La Texas". Đây là cái tên địa phương của Texaco, vốn là nơi mà những người đã đến từ vùng Tây Bắc Amazon để khai thác mỏ dầu trù phú của vùng đất này. Tôi có lần dừng lại không lâu ở một thành phố biên giới được coi như hậu cứ của Texaco và hết sức kinh ngạc khi thấy và nghe những chuyện trước mắt: đây là một trung tâm ồn ào, đầy bùn lầy lội, khói bay mù mịt, trộm cướp như rươi, đĩ điếm tùm lum, sự hỗn độn tàn phá lan tràn khắp nơi và bắt nguồn từ bên lề của trung tâm ấy Nhưng thành phố ấy xa vùng đất thanh bình này hàng trăm dặm, và tôi không hiểu sao nó lại ảnh hưởng đến cuộc sống của Pedro như thế.

Anh nói cho tôi biết rằng tiếng động của những máy bay trực thăng của Texaco đã làm cho chuyện săn bắn khó khăn, và làm cho cá biến mất từ những sông hồ. Chuyện săn bắn và câu cá đã sút giảm rất nhiều trong vòng hai năm qua, anh đổ tất cả lỗi cho chuyện tìm kiếm mỏ dầu. Mọi nỗ lực của anh bây giờ là làm sao thu thập đủ chữ ký cho một kiến nghị đòi hỏi sự thối lui từ Texaco. Anh ấy cảm thấy áy náy khi thấy tôi đã vượt qua một đoạn đường khá xa để đến đây mà không thu lượm được điều gì. Tôi cũng cảm thấy như thế. Ít nhất giờ đây tôi mới hiểu được rằng tại sao những người đàn ông da đỏ Kofán là không niềm nỡ tiếp đón một người khác từ phương xa như tôi khi đi qua khu rừng của họ.

Sáng hôm sau tôi ra đi. Cuối cùng tôi tìm ra chiếc xe của tôi và lái nó rời xa lãnh thổ của người Kofán để đi tìm những gì tốt đẹp hơn.

Tôi bỏ ra thêm một năm nữa để đi lanh thang khắp nước Colombia, Ecuador, và Peru, nhưng tôi không bao giờ trải qua một cuộc hành trình gian khổ để tìm thấy một loại thuốc lạ kỳ diệu. Thay vào đó tôi tìm hiểu những thực vật làm thuốc( medicinal plant ở Ecuador và Peru, học hỏi về sự gieo trồng và cách dùng của lá cacao (coca leaf), làm việc chung với một nhà làm phim người Columbia để làm những phim tài liệu về những thực vật làm thuốc của những người hướng đạo, và tìm kiếm thêm những loại thực phẩm, gia vị, thuốc nhuộm bất thường. Dù tôi không muốn công nhận điều trên với tâm thức của tôi, ở chừng mức nào đó, tôi ý thức được rằng những gì tôi đang tìm kiếm không thể tìm thấy ở vùng rừng hoang Amazon hay bất cứ một nơi kỳ lạ nào khác. Tôi vẫn tự nhắc nhở mình là rán đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi của tôi là: Cội nguồn của sự lành lặn là gì? Sự liên hệ giữa sự điều trị (treatments) và chữa lành (cures)?Làm thế nào mà Bác sĩ và bệnh nhân có thể tìm đến gần sự lành lặn một cách mau mắn hơn nữa? Chuyện tôi đi tìm Pedro đã dạy tôi là tôi đang đi kiếm những câu trả lời sai đường rồi, rằng tôi không cần phải bỏ qua mảnh đất sinh sống của văn hóa, học vấn trước đây, và cả chính bản thân tôi để đi tìm nguồn cội của sự lành lặn. Nhưng tôi phải trải qua những năm tháng lang thang tìm kiếm để tìm ra điều ấy.

Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ khi tôi rời ngôi chòi nhà sàn của Pedro ở chỗ giao lưu của hai con sông. Vào thời gian đó sự tàn phá của rừng ẩm gây ra bởi sự đào kiếm dầu đã đến một mức độ mà Pedro và đồng bào của ông không thể nào tưởng tượng được. Chuyện xây đường, dầu xì ra ngoài, chuyện tống bỏ những chất độc xuống những con sông, và sự coi thường đến độ tàn nhẫn độc ác của chính quyền quốc gia và những công ty làm ăn nước ngoài đối với nền văn hóa địa phương đã làm tổn hại những vùng rộng lớn của xứ Colombia và Ecuador đến độ không còn có thể sửa chửa được. Nói một cách ngắn gọn là giống dân Kofán bị đẩy ra rìa. Họ coi như bị chấm dứt, kết liễu, và những kiến thức gì còn lưu trữ bởi những người tuổi tác khôn ngoan và những người chữa lành truyền thống sớm muộn gì cũng bị mất vĩnh viễn. Những bộ lạc khác cũng bị những đe dọa tương tự. Liệu họ có tránh khỏi số phận thê thảm của giống dân Kofán hay không thì không có câu trả lời chắc chắn.

Những năm tháng gần đây là những năm thoải mái, hanh thông đối với tôi. Tôi tìm thấy những gì tôi tìm kiếm và nhiều hơn nữa, tìm thấy chúng ở gần nhà hơn trong những phương cách vừa khá bất ngờ vừa hài lòng đắc ý.

Những Bề Mặt Của Sự Lành Lặn: Kristin

Đáng lẽ Kristin Kinops không sống đến ngày hôm nay. Chắc chắc là cô không thể nào có con. Không những bác sĩ của cô cho cô về nhà để chết; họ thấy rõ ràng rằng những phương cách điều trị cho cô đã phá hủy khả năng sinh sản của cô.

Câu chuyện của Kristin bắt đầu với sự xuất hiện của những vết bầm không giải thích được trên thân thể của cô vào năm 1974. Cô được mười chín tuổi năm ấy và sống với bạn bè trên hòn đảo Maui ở Hawaii. Một bác sĩ đề nghị cô đùng thêm chất sắt (iron supplement), nhưng sau hai tuần không thấy sự tiến bộ, cô đi thử máu và kết quả thử máu cho biết có điều đáng báo động. Những thành phần của máu đều xuống thấp: hồng huyết cầu, bạch huyết cầu và bản máu (platelets). Bản máu là những thành phần trong máu có trách nhiệm về chuyện đông máu, và giờ đây mức độ thấp - của chúng là kết quả của vết bầm làm cho Kristin chú ý. Cô được cho một cái hẹn để làm một mẫu thí nghiệm về tủy xương (bone- marrow) để tìm hiểu tại sao cô thiếu tế bào máu, và kết quả thử nghiệm kỳ này lại càng đáng ngại hơn. Tủy của cô hầu như không có tế bào trong đó, chỉ có hai phần trăm là có số liệu bình thường. Sự thử nghiệm cho thấy cô bị bệnh thiếu máu đã ngừng phát triển (aplastic anemia)- đây là bệnh tai họa, vì đây nó biểu hiện sự mất mát của một trong những mô quan trọng nhất của cơ thể, là nguồn cội của những thành phần cấu tạo của máu. Kristin được di chuyển về bệnh viện ở miền nam California để có được những phương tiện Y khoa hiện đại chữa trị với cố gắng cứu mạng sống của cô.

Cái chữ " aplastic" có nghĩa là "without form" (không có hình dạng) - là một tiếng diễn tả một quá trình xóa đi những thành phần thông thường của tủy, để rồi dẫn đến tình trạng "chứng tủy trống" (empty marrow syndrome), trong đó có nhiều khoảng trống và chất béo, đó là nơi mà những tế bào máu tạo thành đáng lý ra phải có. Tủy xương sản sinh ra hồng huyết cầu mang theo khí oxygen, nhưng tế bào bạch huyết cầu khác nhau vốn mang chức năng chủ yếu của hệ thống phòng ngừa của cơ thể, và chất bản máu (platelets). Bình thường có một sự sản sinh liên lục của tất cả những thành phần, mỗi thứ đều phát xuất từ màng tế bào nguyên thủy của chúng, trưởng thành theo từng giai đoạn, và cuối cùng di chuyển từ những hốc tủy của xương lớn để vào máu. Những tế bào nguyên thủy tự chúng cũng có một nguồn gốc chung gọi là thân tế bào, một tế bào còn phôi thai "nguyên thủy", trở thành chất liệu của tủy, và có khả năng biến thành những dạng khác nhau. Vì thế coi như bệnh ngừng phát triển tế bào máu sinh ra do sự thất bại của thân tế bào này, là do kết quả của sự thương tổn hay đè nén của cái gì đó.

Trong trường hợp của Kristin, sự thất bại của tủy xương có nguồn gốc không nhận diện ra được, nhưng có sự nghi ngờ đây là một trường hợp bị nhiễm chất độc. Có thêm sáu người nữa ở Maui cũng phát triển chứng tủy và máu bất thường cùng một lúc; tất cả bọn họ đều chết trong vòng vài tháng. Những trường hợp dính chùm như thế này làm người ta nghi là do môi trường sống gây ra. Những hóa chất dùng trong nông nghiệp đã được dùng ẩu tả và không cẩn thận ở Hawaii, đặc biệt được dùng trên những cánh đồng mía và thơm khắp nơi. Có thể những người không may mắn đã phơi bày tính di truyền nhạy cảm của họ đối với thuốc trừ sâu hay thuốc diệt cỏ để rồi những thuốc này đã vào hệ thống cơ thể của họ rồi chăng? Chúng ta không bao giờ biết được chuyện đó.

Kristin được đưa đến Santa Barbara, Califomia trong tình trạng yếu ớt đến độ tuyệt vọng. Hãy tưởng tượng hoàn cảnh tuyệt vọng của một người mà tủy hầu như không còn hoạt động. Sự tiêu hao của hồng huyết cầu làm ngưng trệ sự trao đổi chất trong người (metalbolism) và đè nặng áp lực lên tim, giờ đây tim phải làm việc nhiều hơn để bù vào lượng khí oxygen thấp trong máu. Sự thiếu hụt bạch huyết cầu đã phá đi khả năng của cơ thể chống lại với sự nhiễm trùng.

Bệnh viện phải giữ Kristin vào trong một môi trường "cách biệt một cách trái ngược" (reverse isolation) được bảo vệ, chăm sóc để giảm thiểu tối đa sự tiếp xúc của cô với vi trùng, cũng như bảo vệ cô bằng thuốc trụ sinh và tắm rửa cô hàng ngày bằng nước sát trùng. Sự vắng mặt của bản máu (platelets) tạo ra sự nguy hiểm của sự chảy máu bất thường, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Muốn trị bệnh thiếu máu cần phải có những biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt. Bác sĩ thường cho những liều lượng cao steroids và những thứ thuốc áp chế hệ thống miễn nhiễm khác (immunosuppressive), những thuốc này có thể hữu hiệu trong vài trường hợp nhưng lại không có kết quả đối với những trường hợp khác. Sự chữa trị như thế trông có vẻ vô lý, với sự thật được đưa ra là hệ thống miễn nhiễm đã bị tê liệt bởi sự biến mất của vũ khí của nó là bạch huyết cầu; nhưng có thể nhiều hình thức tự động miễn nhiễm đã dàn xếp cho sự nguy hiểm của tủy, và chất steroids sẽ áp chế điều đó. Có lẽ sự phơi bày trước một vài hóa chất hay siêu vi khuẩn đã tạo ra một phản ứng tự động miễn nhiễm trong đó hệ thống miễn nhiễm tấn công những tế bào tủy; phản ứng khi đó trở nên tự tồn tại (self-perpetuating), độc lập với biến cố tác động.

Những bác sĩ của Kristin bắt đầu chuyện chữa trị bằng steroid nhưng vẫn nghĩ rằng cô quá yếu để có thể sống được. Thay vào đó họ gửi cô đến bệnh viện của trường đại học UCLA tại Los Angeles để giải phẫu thay tủy (bone-manow transplant). Loại giải phẫu này có thể là hy vọng tốt nhất cho những người mang bệnh hoại huyết (aplastic anemia), đặc biệt là những người trước, vốn là những người thường phản ứng thuận lợi; nhưng đây là một cuộc giải phẫu quan trọng, với những kết quả không chắc chắn, bị giới hạn bởi mẫu tủy thích hợp của người hiến tặng: mẫu thích hợp nhất là từ người sinh đôi hay là anh chị em có cùng chất kháng nguyên tương ứng (antigenically compatible). May mắn thay, Kristin có một người anh và một người chị có mẫu máu thích hợp và sẵn sàng hiến tủy để giúp, nhưng cô muốn tránh giải phẫu, cô nói, "Tôi đã làm nhiều chuyện để cố gắng tránh giải phẫu bằng cách dùng trí tưởng tượng, thiền quán để lành lặn, và uống nhiều vitamins cùng những chất phụ trội khác. Rồi tôi kiếm một người làm lành lặn (healer) để giúp tôi chữa bệnh, nhưng trễ quá rồi. Những bác sĩ cho tôi một hẹn chót dứt khoát, và người làm lành lặn không đủ thời gian để giúp tôi. " Rốt cuộc Kristin phải trải qua hai lần giải phẫu, nhưng cô lại không được may mắn lắm; cơ thể cô phản kháng mẫu tủy hiến. Y khoa hiện đại chỉ có thể làm tối đa như thế thôi. Không còn gì có thể giúp cô ngoại trừ sự vỗ về an ủi chung chung. Những bác sĩ của cô không còn hy vọng gì nữa.

Nhưng Kristin vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Cô quyết định tìm kiếm những cách trị liệu khác, và cô có ý muốn muốn thử phương pháp lành lặn bằng tâm lý và dùng trí tưởng tượng. Người bác sĩ tâm thần ở bệnh viện giới thiệu cô đến một nhà nghiên cứu tại UCLA đang tìm tòi về khả năng dùng tâm lý để chữa bệnh cho lành lặn. Qua nhà nghiên cứu này, cô gặp một nhà chữa bệnh dùng môn thôi miên cũng như dùng tay xoa nắn. Trong lúc còn ở bệnh viện Kristin được chữa bệnh một tuần hai lần và làm như thế trong vòng hai tuần. Vào cuối thời gian đó, kết quả thử nghiệm cho thấy mức độ tủy có tăng lên vừa phải, cô chưa từng nghe bác sĩ của cô nói đến điều đó. Nhưng mặc dù số lượng máu của cô tăng lên, chúng vẫn chưa đủ để cho cô rời phòng cách biệt, và cô yêu cầu được truyền máu. Cuối cùng những bác sĩ cho biết là họ không thể làm gì thêm được nữa. Sau những cuộc thảo luận với bệnh nhân và mẹ cô ta, họ cho phép cô rời bệnh viện. Bà mẹ cô ta hiểu rằng bác sĩ cho cô con gái bà về để chết tại nhà.

Kristin vẫn kiên nhẫn tìm kiếm phương cách chữa trị cho lành lặn. Cô ta đi 5 ngày một tuần để được trị bệnh bằng cách xoa bóp bằng tay. Sau hai tuần, kết quả một lần nữa thật nhiệm mầu: số lượng máu tăng và đứng xấp xỉ ở mức thấp bình thường. Cô tiếp tục duy trì như vậy. Rồi cô bị nhiễm vi trùng viêm gan từ máu chuyền và bắt đầu trở nên yếu ớt, cô sốt với nhiệt độ 100 độ F trong suốt một tháng.

Cô nghe nói có một người đàn bà có thể chỉ cho cách ăn uống nhờ vào trực giác. Thực đơn dành cho cô không phải dễ nuốt. Không được dùng món gì có đường hay tinh bột (starch), hai trứng và nhiều lòng đỏ trứng (yolk) mỗi ngày với rau được chưng hấp( steamed vegetables), nước rau và sà lách không có dầu, một ít cá và gà được hấp, và một ly nước lựu hay nho mỗi ngày, pha loãng đi năm mươi phần trăm với nước. Knstin theo chế độ ăn uống này trong vòng chín tháng. Cô xuống cân. Cô nói, "Đây là chuyện khó nhất trong đời mà tôi đã từng làm. Nhưng nó đã kéo cô lên. Chỉ trong vòng vài ngày đã có sự thay đổi lớn lao về những triệu chứng viêm gan. "

Tổng cộng Kristin nằm bệnh viện nửa năm. Một năm trôi qua kể từ ngày cô phát đau, cô mới biết rằng cô sẽ sống, tuy con đường trở về sức khỏe bình thường tương đối chậm chạp và khó khăn. Cô nhớ lại, "Họ nói với tôi là tôi sẽ không bao giờ có thể có con được, vì ảnh hưởng của thứ thuốc họ cho tôi uống để áp chế sự phản kháng của tủy trong cuộc giải phẫu. Bởi vì có sự nguy hiểm của chuyện chảy máu không kiểm soát được, họ không để cho tôi có kinh, nên họ cho tôi thuốc hóc-môn đàn bà (female hormone) với liều lượng cao. Thêm vào đó tôi còn phải dùng thuốc prednisone để cố gắng kiểm soát những phản ứng trong cuộc giải phẫu và cho hóc-môn đàn ông (male hormone) với cố gắng kích thích tủy xương của tôi (bone marrow). Tôi không có kinh trong vòng một năm, và một người chữa bệnh bằng thần học (psychic healer) lúc đặt tay vào vùng xương chậu của tôi đã cho biết là bà cảm thấy 'một sự tối đen hoàn toàn' ở đó. Nhưng khi tôi tuyệt thực một tuần lễ thì tôi có kinh trở lại! Kể từ đó đường kinh của tôi đều hòa."

Hai mươi năm sau, Kristin trở thành một người đàn bà khỏe mạnh, xông xáo và là một bà mẹ của bốn đứa con mạnh khỏe tự nhiên. Sự bình phục của cô có vẻ bất thường nếu nhìn dưới quan điểm y khoa nên một trong những bác sĩ của cô đã đưa trường hợp bệnh lý của cô ra một diễn đàn quốc tế về bệnh hoại huyết (aplastic anemia). Kristin viết như sau, "Tôi không những sống mà lại còn khỏe mạnh. Tôi luôn luôn phát triển trong những hoạt động thể chất và thấy tôi ngày càng khỏe và tôi có thể trở nên mạnh đến cái mức mà tôi muốn. Đạp xe đạp hàng ngày, chạy bộ hàng ngày, và bơi ngoài biển làm cho tôi vượt qua trở ngại cuối cùng để đi đến sức khỏe tuyệt hảo”.

"Ngày hôm nay tôi cảm thấy vui sướng và bận rộn nuôi dưỡng bốn đứa con của tôi. Ôi có bằng Bác sĩ điều trị theo phương pháp tự nhiên (licensed naturopathic doctor) nhưng không hành nghề nữa kể từ khi tôi làm mẹ. Tôi dạy Yoga và đang viết cùng vẽ một cuốn sách có hình cho trẻ em. Gia đình tôi rất hoạt động- thôi thì trượt tuyết, trượt gió (windsurf), và tôi chạy bộ thường xuyên. Trừ phi tôi nói đến lịch sử bệnh tật của tôi, những người khác không nghi ngờ gì cả; thật ra những người mà tôi kể chuyện đều rất ngạc nhiên khi thấy tôi đã từng đau thập tử nhất sinh."

Những gì đã gìn giữ sức mạnh lành lặn mà Kristin đã dùng để kích thích tủy xương của cô, trung hòa hóa (neutralize) những gì là nguyên nhân khởi đầu của bệnh, và hủy đi những kết quả độc hại của cách trị bệnh có tính cách xâm lấn (Invasive treatment)? Tôi thật sự ngạc nhiên về sự tự tin chắc nịch của cô trong khi có bệnh. Cô nói với tôi, "Tôi luôn tin rằng phải có một cách để sống. Tôi chỉ cần phải kiếm chúng đúng lúc. Niềm tin ấy cùng với sự tìm kiếm được hỗ trợ bởi sự lạc quan bất diệt làm cho tôi trở thành một nhân tố chủ động tham gia vào trong tiến trình lành lặn của tôi."

Và đây là những gì cô khuyên những người khác đang đương đầu với những cuộc khủng hoảng Y khoa nghiêm trọng?

Cô nói, "Có những con đường khác nhau dẫn đến sự lành lặn cho những người khác nhau nhưng luôn luôn có một cách thức. Hãy tiếp tục tìm kiếm!"