Họ ra ngồi xuống một mô sét nho nhỏ vốn là cái hang của một con cu ly nào đã bỏ, rồi Nextêrenkô chậm rãi nói:
- Trước khi đến đây mình có rẽ qua Grêmiatsi Lốc. Mình đã gặp Radơmiốtnốp và tất cả các anh chị en cốt cán trong ấp. Còn Nagunốp thì trước khi về đây mình đã biết cậu ấy, cậu ấy có lên chỗ huyện uỷ chúng mình. Mình đã nói với cả cậu ấy lẫn Radơmiốtnốp và bây giờ mình nói lại cậu nghe: việc kết nạp vào Đảng những nông trang viên tốt, những người trung thành với sự nghiệp của chúng ta, các cậu làm kém lắm. Hết sức kém! Mà những anh em tốt thì nông trang thiếu gì, đúng không?
- Thực tế thế!
- Vậy tại sao lại thế?
- Nhưng ngay những anh em tốt vẫn còn chờ…
- Chờ cái gì?
- Chờ xem nông trang làm ăn ra sao… Và trong khi chờ đợi thì họ vẫn chăm mảnh vườn họ hơn.
- Phải lay họ dậy, thức tỉnh cái đầu óc lười suy nghĩ của họ chứ!
- Có lay đấy, nhưng không đi đến đâu. Tôi cho là đến sang thu chi bộ chúng tôi mới phát triển được, thực tế thế!
- Thế từ nay đến sang thu thì khoanh tay ngồi chờ à?
- Không, sao lại chờ, vẫn hoạt động chứ, nhưng chúng tôi không cưỡng ép ai.
- Ai bảo anh phải cưỡng ép. Chẳng qua chỉ là không nên bỏ lỡ dù chỉ là một cơ hội nào lôi kéo người này hay người khác trong đám lao động tiên tiến, giải thích cho họ đường lối của Đảng bằng những lời lẽ dễ hiểu.
- Thì chúng tôi vẫn làm như thế mà, đồng chí Nextêrenkô, - Đavưđốp cam đoan như vậy.
- Các anh hoạt động, nhưng chi bộ Đảng vẫn cứ không phát triển. Thế thì có làm cũng như không… Thôi được, ta đợi xem công việc của các cậu làm sẽ đi đến đâu. Bây giờ ta bàn sang việc khác. Mình muốn vạch cho cậu thấy một số thiếu sót thuộc một mặt khác. Mình về đây tìm cậu để làm quen nhau, đánh hơi nhau, như người ta thường nói, và chuyện trò với nhau một cách thoải mái. Cậu là một người am hiểu, chắc cậu sẽ không vin cớ mình còn trẻ, tuổi trẻ của cậu đã trôi qua rồi, và trôi xa đến nỗi cậu không đuổi theo níu nó lại được nữa đâu. Cậu cũng đừng mong mình chiếu cố cho cậu cái xuất thân vô sản của cậu, cái thiếu kinh nghiệm hoặc cái gì khác. Nhưng cậu cũng đừng tưởng mình sẽ có thái độ nghiêm khắc cứng rắn đặc biệt mà một số cán bộ lãnh đạo thích phô trương. - Nextêrenkô hơi bốc lên, nói tiếp: - Theo mình, trong sinh hoạt Đảng chúng ta có những cách làm chẳng lấy gì làm thông minh và tương ứng với chúng là những câu; “gọt”, “cạo”, “mài giũa”, v.v.. Cứ làm như đây không phải chuyện con người mà là một cục sắt gỉ nào đó vậy. Thế là cái quái gì nhỉ? Và đáng chú ý là trong đa số trường hợp, những câu ấy thường ở cửa miệng những người cả đời chưa hề cạo một tí gỉ sắt nào, và chắc là tay cũng chưa bao giờ sờ đến cái giũa. Vậy mà con người là một cái gì tinh tế, xử lý với nó phải hết sức thận trọng!
Mình kể cậu nghe câu chuyện này. Năm mười tám, ở đơn vị chúng mình tình trạng trật tự kỷ luật nát đến mức không ở đâu nát bằng. Không phải là một đội cận vệ Đỏ nữa mà là một đám thổ phỉ Mácnô, không nói ngoa đâu! Và thế là đầu năm 1919, trên đưa về một đồng chí chính uỷ, một đảng viên cộng sản, thợ mỏ Đônét. Một ông bác đứng tuổi, lưng gù gù, râu đen trễ xuống như râu Tarax Séptsenkô. Sau khi ông ta đến tình hình đơn vị thay đổi hẳn. Đơn vị được phiên chế lại thành một trung đoàn Hồng quân. Người thì vẫn là những con người cũ, đồng thời lại không phải như cũ, dường như họ đã thay da đổi cốt vậy. Chẳng cần kỷ luật ai, chẳng cần đưa ai ra Toà án cách mạng, và đấy chỉ là một tháng sau khi cái ông thợ mỏ chính uỷ ấy xuất hiện ở trung đoàn! Cha ấy làm bằng cách nào? Bằng trái tim, cậu ạ, ranh không? Ông ta chuyện trò với từng chiến sĩ Hồng quân, và với từng người ông ta tìm được những lời lẽ ân cần thích hợp. Người bước vào chiến đấu mà hoang mang dao động thì ông ta tâm sự động viên riêng; tay nào liều lĩnh thì ông ta chấn chỉnh, nhưng chấn chỉnh thế nào mà không làm hắn tự ái, tiêu cực gì cả. Ông ta rỉ tai hắn: “Đồ ngốc ơi, đừng có nhắm mắt xông bừa! Chúng nó giết chết toi đấy, và lúc ấy chúng mình biết làm thế nào? Thiếu cậu thì cả trung đội, ấy chưa nói cả đại đội, sẽ gay go to”. Lẽ dĩ nhiên là anh chàng hảo hán ấy lấy làm hởi lòng hởi dạ thấy chính uỷ quan niệm về mình như vậy, và từ đó thôi không liều lĩnh nữa, mà chiến đấu một cách thông minh… Ông chính uỷ nhà ta chỉ duy có một nhược điểm: đánh chiếm được một làng nào to hoặc một thị trấn kô-dắc nào là ông ta bắt đầu đi vơ vét…
Đavưđốp bị bất ngờ quay ngoắt một cái sang phía Nextêrenkô, mạnh đến nỗi suýt nữa thì ngã ngửa xuống từ trên cái mô đất hang con cu li bị gió xói mòn. Anh xoè năm ngón tay phải ra chống xuống lớp đất sét ướt để khỏi ngã, và thốt lên:
- Sao, vơ vét à, thế là thế nào? Anh nói bậy!
Nextêrenkô cười khúc khích:
- Nói thế cũng không đúng hẳn! Không phải vơ vét mà là đi lục tủ sách của những nhà buôn giàu, của bọn địa chủ, tóm lại là của tất cả những ai vào cài thời ấy có khả năng mua sách. Ông ta chọn riêng ra những cuốn sách mình cần rồi tịch thu phăng, không ý kiến ý cỏ gì cả! Tôi nói cậu không tin đâu: ông ta kéo lếch thếch sau mình bốn xe ngựa sách, cả một thư viện lưu động, và ông ta chăm lo đến sách cứ như chăm lo đến đạn dược vậy: xe nào cũng có vải bạt phủ, sách thì xếp từng chồng, lại còn lót rơm bên dưới nữa chứ. Rồi dọc đường trú quân, hoặc những lúc nghỉ ngơi, những quãng thời gian giữa các trận chiến đấu, vào mọi lúc rỗi rãi sau giờ ăn, giờ lau chùi vũ khí, ông ta lại dúi sách cho anh em chiến sĩ bắt đọc, rồi sau đó kiểm tra xem có đọc hay không…
Hồi ấy mình còn trẻ, quan tâm đến các em nhiều hơn đến sách, và thú thật chuyên môn lỉnh, không đọc… Mình hầu như mù chữ, và dốt đặc cán mai. Thế rồi một lần ông ta tóm được mình trốn đọc một quyển sách ông ấy đưa cho. Đến tận bây giờ mình vẫn còn nhớ cả tên tác giả lẫn đầu đề cuốn sách… Khoảng hai ngày sau ông ta hỏi mình nội dung quyển ấy, và mình đứng ngây tán tàn. Ông ta mới bảo, và trong những trường hợp như thế ông ta bao giờ cũng gọi riêng ra một chỗ nói, để người bị nói khỏi xấu hổ trước mặt người khác, ông ta bảo mình thế này: “Cậu nghĩ ra sao vậy? Cậu định sống ở trên đời này như một thằng ngốc đấy hử? Tôi thấy cậu suốt tối qua độc lượn quanh một em. Này, cậu hãy nhồi nhét vào đầu cậu điều này: một đứa con gái có học thì nó cần cóc gì một thằng ngu ngốc vô học như cậu, ngồi chuyện trò với cậu độ dăm phút nó đã chán ngấy; còn một đứa con gái ngu ngốc thì nó hẳn là chẳng cần gì đến cậu: cậu có truyền được tí thông minh nào cho nó đâu, và cũng chưa nhặt đâu được tí thông minh nào. Còn về tất cả mọi cái khác làm nên giá trị anh đàn ông thì người có học và kẻ vô học đều có ngang nhau, thành thử trong mọi trường hợp ưu thế bao giờ cũng thuộc về những người có học. Nghe thủng chưa, hả thằng ngỗng đực?”.
Ông ta nói thế thì mình còn cãi vào đâu được?
Nửa tháng ròng ông ta bám mình dai như đỉa, châm chọc mình, làm mình đến phát khóc, nhưng rốt cuộc đã làm mình quen dần với việc đọc sách, rồi chính mình cũng mê đến nỗi không rứt ra được nữa. Cho đến nay mình vẫn còn nhớ những lời động viên của ông ấy và nói thực ra, bây giờ mình cũng chẳng biết đã nhờ ai mà nên người: nhờ ông bố đã quá cố hay là nhờ đồng chí chính uỷ của mình.
Nextêrenkô ngừng lại một lát, đăm chiêu suy nghĩ, ra chiều buồn buồn. Nhưng một phút sau, không giấu nổi một nụ cười ranh mãnh anh ta đã hỏi dồn:
- Thế cậu, những lúc rỗi rãi có đọc gì không? Chắc chỉ xem báo thôi chứ gì? Và cũng ít lúc rỗi rãi, có phải không? Phòng đọc sách của các cậu có nhiều sách hay không hả?... Không biết à? Này người anh em ơi, thế thì cũng đáng lấy làm xấu hổ đấy! Thế nhưng cậu đã mò đến phòng đọc sách lần nào chưa đã?... Có hai lần tạt qua thôi hả? Thế thì ăn thua quái gì, cậu ơi! Mình đã đánh giá người đại biểu của giai cấp công nhân Lêningrát cao hơn đấy! Thế là mình đã có đề tài viết thư cho nhà máy của cậu rồi! Nhưng cậu đừng lo, mình sẽ lấy danh nghĩa cá nhân thôi, và viết như thế này: “Đồng chí Đavưđốp, nguyên là công nhân nhà máy các đồng chí, thuộc đoàn Hai vạn rưởi, hiện là chủ tịch nông trang Grêmiatsi Lốc, và các nông trang viên dưới quyền lãnh đạo của anh ấy đang cần sách vô cùng. Họ hết sức cần những sách chính trị và kinh tế phổ thông, sách về trồng trọt, chăn nuôi, nói chung là về nông nghiệp. Một bộ sưu tập sách văn học, cả cổ điển lẫn hiện đại, cũng sẽ được hoan nghênh. Đề nghị các đồng chí, với tư cách là đơn vị đỡ đầu, tặng cho nông trang một tủ sách gồm khoảng ba trăm cuốn, gửi theo địa chỉ sau đây…”. Được không? Viết thế nhá?.. Không muốn à? Cậu không muốn cũng phải! Thế thì cậu phải tự xoay xở, dùng vốn liếng nông trang tự túc lấy một tủ sách, ít nhất là hai ba trăm cuốn. Cậu bảo không có tiền hả? Xoay được thôi, khó quái gì! Cậu cứ đem bán béng một đôi bò gì đi, lạy trời, không sạt nghiệp đâu mà sợ! Thế là cậu sẽ có cả một thư viện, mà thư viện ra trò đấy! Hôm qua mình có xem sổ sách của nông trang, và thấy so với diện tích ruộng đất thì rõ ràng thừa sức kéo. Thế thì tốn cỏ nuôi làm gì vô ích? Cho tẩu đi! Cậu biết nông trang có bao nhiêu bò quá mười tuổi không? Không biết à? Cũng đáng tiếc đấy, nhưng mình có thể nói giúp cậu biết: có chín đôi bò già từ mười tuổi trở lên. Những nhà nông biết làm ăn không bao giờ giữ những của nợ ấy trong chuồng, họ vỗ béo rồi bán luôn. Rõ chửa?
- Rõ chứ sao không rõ, nhưng đàn gia súc thải, trong đó kể cả bò già, chúng tôi đã quyết định để sang thu sẽ bán. Những nhà nông giàu kinh nghiệm đã khuyên tôi làm thế.
- Thế hiện nay đàn gia súc ấy các cậu cho thả rông chứ?
- Không. Chúng nó cũng phải đi làm, đấy là nói về bò, cái ấy tôi biết chắc chắn.
- Cái ông nhà nông giàu kinh nghiệm nào mà lại khuyên cậu sang thu mới bán?
- Lão quản lý Ôxtơrốpnốp, và một tay nào nữa, tôi không nhớ.
- Hừm, hay nhỉ… Cái lão quản lý nhà cậu trước lúc tiến hành tập thể hoá không đầy nửa phút chắc hẳn phải là kulắc. Là nhà nông có kinh nghiệm sao lão ấy lại có thể khuyên cậu cái điều dấm dớ như vậy? Sang thu bán bò, và từ nay đến sang thu lại không tháo ách cho nó? Thế thì các anh sẽ chỉ có da và xương đem bán thôi. Còn mình thì mình khuyên cậu cái khác: bây giờ toàn bộ gia súc định đem bán, cậu cho thả cỏ, rồi vỗ béo bằng thức ăn tinh, và sang hè khi thị trường gia súc khan hiếm và giá thịt cao thì đem bán. Còn như sang thu thì chẳng có bò của các cậu thịt cũng đã ê hề, rẻ như bèo. Thóc các cậu thừa thãi. Vậy có quái gì mà lo? Vả lại, các cậu cứ tự tính đi, mình không muốn can thiệp vào công việc của các cậu. Cậu cũng nên suy nghĩ tí về chuyện ấy… Dù sao thì trước mắt cậu cũng có thể cho vỗ béo một đôi bò già và bán luôn. Nhưng tiền ấy đừng có đem ra chén, mà phải để mua sách. Tóm lại, sao cho sau hai tháng các cậu phải có một thư viện. Đó là một. Hai là, cậu cho chuyển ngay cái phòng đọc sách từ cái lều rách hiện nay sang cái nhà kulắc nào đẹp nhất. Làm thế không sợ sai đâu! Ba là, mình sẽ điều về cho cậu một người phhụ trách thư viện, một cậu tháo vát, và mình sẽ chỉ thị cho cậu ấy hàng ngày, vào buổi chiều, tổ chức đọc sách báo cho bà con nghe.
- Thì anh hãy từ từ đã nào! - Đavưđốp đỏ mặt lên đề nghị. - Tôi xin nói cưa đứt đục suốt với anh là tủ sách sẽ có, xong cái “một là”! Mai tôi sẽ cho dọn phòng đọc sách sang một cái nhà tử tế, xong cái “hai là”! Còn cái “ba là” thì phải để xem đã… Người phụ trách thư viện thì tôi đã nhằm được một cậu, một tay cỡ quốc tế, làm tuyên truyền thì chúa lắm! Nhưng hiện nay hắn ta đang ở dưới sản xuất, gay chính là ở chỗ đó… Tôi cho rằng khu đoàn Kômxômôn sẽ đi tới nhất trí với tôi thôi, và tôi sẽ phân công cho hắn việc ấy.
Nextêrenkô chăm chú nghe anh nói, gật gù, vẻ mặt khó hiểu, chỉ cười bằng đôi mắt:
- Một anh chỉ huy kiên quyết, biết nhanh chóng đưa ra những quyết định đúng đắn là mình mê ghê lắm.. Nhưng dẫu sao về cái phòng đọc sách của cậu, cậu hãy cứ nghe mình nói nốt đã. Hôm qua mình có đến đó. Mình cứ nói thật: một ngôi nhà không lấy gì làm hấp dẫn cho lắm… Trống tuềnh trống toàng và tiêu điều thảm hại! Cửa sổ bụi trắng. Sàn từ đời tám hoánh không cọ rửa. Nồng nặc mùi mốc và những cái mùi khỉ gió gì nữa chẳng biết. Cứ như chui vào nấm mồ vậy, lạy Chúa! Nhưng cái chính là sách chỉ lơ thơ được vài cuốn, và lại cũ rích. Trên một ngăn sách mình thấy một tờ áp phích cuộn tròn, lâu ngày đã vàng khè. Mình giở ra, xem tranh, rồi đọc:
Nhìn đội ngũ chúng ta
Bao thiếu nữ dõi mắt theo trìu mến,
Các mẹ già móm mém cầu nguyện,
Các bố già xúc động tự hào:
Con cái chúng ta dũng mãnh xiết bao
Đánh cho giặc thù tan tác
Hỡi các bạn dân cày giữa ruộng đồng bát ngát
Chớ quên rằng: có đội ngũ cần lao
Đang bảo vệ cho chúng ta yên lành lao động.
Mình nghĩ bụng: à, cái của này thì mình biết lâu rồi đấy! Tấm áp phích ấy mình đã được xem hồi 1920 trên mặt trận chống Vranghen, và từ đó mình nhớ mãi. Thơ của Đêmian Bétnưi đến bây giờ vẫn dùng tốt, nhưng phải nhận rằng năm nay là năm 30 thì cũng nên có một cái gì mới mẻ hơn, liên quan đến hiện tại, đến việc tập thể hoá chẳng hạn…
- Anh quả là tinh mắt, và sắc sảo, - Đavưđốp chưa hết lúng túng, làu bàu nói, giọng ra chiều hoan nghênh chứ không phải khó chịu.
- Cái nghề của mình là phải tinh mắt nhìn, giúp anh em uốn nắn lại những thiếu sót trong công tác, và việc ấy mình làm với tất cả thiện ý đối với cậu, cậu Xêmiôn ạ. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là mào đầu thôi, còn bây giờ mới vào đề. Cậu xuống đội đây, bỏ phóng sinh nông trang, bao nhiêu công việc trút hết cho Radơmiốtnốp. Và cậu thừa biết với tình hình hiện nay thì Radơmiốtnốp khó mà ôm nổi một mình, chẳng quán xuyến được công việc. Biết thế chứ gì? Vậy mà cậu cứ làm liều!
- Nhưng chính anh cũng đi gặt trên đồng ruộng Tubianxki đấy thôi! Anh định phủ nhận sức mạnh của tấm gương hay sao?
Nextêrenkô khoát tay một cái không hài lòng:
- Mình xuống làm ở Tubianxki có vài tiếng đồng hồ, để làm quen với anh em thôi, đó là chuyện khác. Còn cậu thì lao xuống đội vì có chuyện đời tư trắc trở. Khác nhau chứ? Mình cảm thấy hình như cậu chạy trốn Luska Nagunôva thì phải… Hay là mình nhầm?
Máu mặt Đavưđốp chảy đi đâu hết sạch. Anh quay đi, tay vặn vặn một cọng cỏ chẳng để làm gì, âm thầm nói:
- Anh cứ nói, tôi xin nghe…
Nhưng Nextêrenkô ân cần đặt nhẹ tay lên vai anh, khẽ kéo anh vào gần mình, nói:
- Nhưng đừng tự ái nhá! Dễ cậu tưởng không dưng mà mình lại đo đường cày của cậu sao? Cậu cày có đôi chỗ sâu hơn cả máy! Cơn giận của cậu, cậu trút xuống đất, và cái đau của cậu, cậu đổ lên đầu bò… Theo lời những anh em biết rõ cậu thì chuyện cậu với Luska hình như đang đi đến phăng teo thì phải. Đúng vậy không?
- Hình như thế.
- Chậc, thế thì chỉ có thể thành thực chúc mừng cậu thôi. Xêmiôn thân mến ạ, chuyện lòng thòng ấy cậu cũng nên mau mau chấm dứt đi. Dân ở đây quý cậu, nhưng có điều không hay là họ ái ngại cho cậu về cái chuyện trăng gió lăng nhăng ấy. Khi người ta ái ngại cho trẻ côi cút và người tàn tật thì đó là chuyện thường tình trong phong tục Nga. Nhưng khi người ta lại đem lòng ái ngại một anh chàng thông minh, hơn nữa lại là người lãnh đạo của mình, thì đối với anh chàng ấy còn có gì đáng xấu hổ và đáng sợ cho bằng? Và điều quan trọng là việc cậu ngớ ngẩn mà đi mê một ả chẳng ra cái quái gì, hơn nữa mới đây còn là vợ của đồng chí mình, theo mình đã ảnh hưởng đến mọi mặt. Nếu không phải là thế thì giải thích sao được những cái sai lầm không thể tha thứ được trong công tác của cậu, trong công tác của Nagunốp? Các cậu đã đâm đầu vào một bụi bòng bong, và nếu các cậu không tự gỡ ra thì huyện uỷ sẽ nhảy vào đấy, nói cậu biết thế!
- Có lẽ tôi nên rời khỏi Grêmiatsi Lốc thì tốt hơn chăng? - Đavưđốp ngập ngừng hỏi.
Nextêrenkô ngắt phăng lời anh:
- Đừng nói dấm dớ! Nếu bị vấy bùn thì trước hết phải tắm rửa sạch sẽ đã rồi hãy nói chuyện đi. Tốt hơn hết là cậu hãy nói mình rõ: cậu có biết Egôrôva, cô giáo, là đoàn viên Kômxômôn không?
- Biết, tôi đã có gặp. - Bỗng dưng Đavưđốp mỉm cười một cái không phải lúc. Anh nhớ lại lần đầu tiên anh gặp cái cô giáo trẻ măng nhút nhát quá đáng ấy hồi mùa đông năm ngoái giữa lúc đang đấu bọn kulắc.
Gặp anh, cô ta vụng về chìa ra bàn tay nhỏ nhắn khum khum lạnh ngắt mồ hồi, rồi đỏ mặt lên đau khổ, tưởng muốn khóc, cô ta nói không ra hơi: “Nữ giáo viên Egôrôva Liútmila”. Hồi ấy Đavưđốp đã đề nghị với Nagunốp: “Cậu nhận cô giáo Kômxômôn này đi, cho nhập đội với cậu. Để con bé ấy được thấy thế nào là đấu tranh giai cấp”. Nhưng Nagunốp lầm lầm nhìn hai bàn tay dài đen sạm của mình, rồi đáp: “Cậu nhận về chỗ cậu ấy, mình chả cần đến con bé ấy làm gì! Nó dạy học trẻ con, có thằng nhóc bị điểm hai, thế là cả cô lẫn trò cùng khóc. Ai đã kết nạp một con nhãi như vậy vào Kômxômôn thế chả biết? Kômxômôn gì nó! Mới nứt mắt!”.
Lần đầu tiên từ lúc buổi đầu Nextêrenkô cau mày lại, nhìn Đavưđốp một cách không bằng lòng:
- Cậu cười gì vậy? Cậu thấy câu mình hỏi kỳ cục lắm sao?
Đavưđốp vụng về cố giải thích nguyên nhân cái cười không đúng lúc của mình:
- Không, có gì đâu, tôi chỉ nhớ lại một chuyện với vẩn về cái cô giáo ấy… Cô ấy nhát cứ như cáy…
- Nhớ lại một chuyện vớ vẩn! Cậu khéo chọn lúc đùa nhỉ! - Nextêrenkô thốt lên bằng một giọng khó chịu ra mặt. - Tốt hơn là cậu hãy nhớ rằng cái cô giáo nhát như cáy ấy là người đoàn viên Kômxômôn duy nhất trong làng các anh đấy! Một làng to như vậy mà không có được cái chi đoàn. Và đó là không phải chuyện vớ vẩn đâu! Ai phải chịu trách nhiệm về chuyện ấy? Trước nhất là Nagunốp, rồi đến cậu, và cả mình nữa. Cậu lại còn cười hả? Cái cười ấy là không hay đâu, Xêmiôn Đavưđốp ạ. Và cậu cũng đừng viện cớ bận nhiều việc cấp bách! Mọi công việc Đảng trao cho chúng ta đều là cấp bách cả. Vấn đề là biết xoay xở.
Đavưđốp đã bắt đầu nóng mặt, nhưng vẫn cố nén, nói:
- Đồng chí Nextêrenkô ạ, đồng chí mới đến Grêmiatsi Lốc có một ngày mà đã phát hiện được bao nhiêu là sai lầm khuyết điểm trong công tác của chúng tôi, kể cả chuyện đời tư của tôi… nếu anh về đây ở từ tháng Giêng thì chắc còn khiếp nữa! Phải ngồi một tuần nghe chưa hết nhận xét của anh, thực tế thế!
Câu nói cuối cùng của Đavưđốp làm cho Nextêrenkô tươi tỉnh lên phần nào. Anh nheo mắt hóm hỉnh, lấy cùi tay huých Đavưđốp một cái:
- Thế cậu, Xêmiôn ạ, cậu có cho là thế này không: nếu không phải mình về “ở” Grêmiatsi từ tháng Giêng, mà cũng kề vai sát cánh làm việc với các cậu thì có thể khuyết điểm sẽ bớt đi chăng?
- Thực tế thế, sẽ bớt, nhưng vẫn cứ có. Anh cũng chả thoát khỏi sai lầm, thực tế thế! Anh ạ, nhiều khuyết điểm của tôi, tôi cũng nhìn ra, nhưng không phải cái nào cũng sửa được và sửa được ngay, khốn nạn cho tôi là ở chỗ đó, thực tế thế! Mùa xuân vừa rồi, một lần các em học sinh cùng với ông hiệu trưởng tên là Spưn kéo nhau ra đồng diệt chuột. Tôi đi qua đó nhưng chẳng dừng lại, chẳng nói năng một câu, chẳng biết và đến bây giờ cũng vẫn chẳng biết cái ông giáo già ấy sống ra sao. Tôi nói anh nghe, có chuyện khác còn tệ hơn cơ. Mùa đông, ông ta gửi giấy cho tôi xin một chiếc xe ngựa để chở củi. Chắc anh tưởng tôi cho ông ta mượn chứ gì? Không, tôi quên khuấy mất. Bao nhiêu công việc khác làm tôi không còn thời gian lẫn bụng dạ nào nhớ đến ông lão nữa… Đến tận bây giờ cứ nghĩ đến là tôi thấy xấu hổ! Còn về việc chi đoàn Kômxômôn thì đúng thôi. Chúng tôi đã lơ là một công tác quan trọng, và trong việc này, tôi cũng rất có lỗi, thực tế thế!
Nhưng Nextêrenkô đâu phải là người dễ mủi lòng trước những lời ăn năn hối lỗi. Anh chưa buông tha:
- Có điều rất tốt là cậu đã thấy sai lầm của mình và rõ ràng là còn biết xấu hổ. Thế nhưng chi đoàn Kômxômôn có nhờ thế mà mọc ra được đâu, và ông giáo già được tí củi nào đâu… Phải làm, Xêmiôn ạ, chứ không phải chỉ ngồi ăn năn!
- Tất cả những cái đó sẽ được sửa chữa, sẽ làm, hứa với anh như vậy! Nhưng về việc tổ chức chi đoàn thì đề nghị các anh, nghĩa là huyện uỷ, giúp chúng tôi một tay. Các anh cứ cho xin vài ba cô cậu đoàn viên, làm tạm thời một thời gian thôi cũng được. Cô Egôrôva, tôi nói với anh một cách nghiêm chỉnh, là cán bộ tổ chức thì không ra gì. Cô ấy lúc nào cũng bẽn la bẽn lẽn thế thì làm ăn với thanh niên sao được, nhất là đám thanh niên của chúng tôi đây!
Đến lúc này Nextêrenkô mới tỏ vẻ hài lòng:
- Đấy, nói thế thì đã nghe được rồi đấy! Về đoàn Kômxômôn, chúng mình sẽ hỗ trợ, mình hứa, và bây giờ cho phép mình bổ sung thêm một chút vào lời tự phê bình của cậu. Trước ngày Mồng 1 tháng Năm, cửa hàng hợp tác ở đây có xin cậu hai cỗ xe để lên phố quận chở hàng về phải không?
- Có chuyện ấy.
- Cậu có cho không?
- Không cho được. Lúc ấy chúng tôi đang vừa cày, vừa gieo, làm đồng thời. Công đâu mà đi chở hàng.
- Không thể nào dành ra được hai cỗ xe à? Thôi đi, anh cứ nói liều! Dành được quá chứ, và chẳng tai hại gì đến công việc đồng áng cả. Chẳng qua là cậu không biết làm, không muốn làm, không chịu nghĩ: “Việc này sẽ có ảnh hưởng gì đến tinh thần nông trang viên?”. Kết quả là để có những thứ cần thiết cho đời sống như xà phòng, muối, diêm, dầu hoả, và ngày lễ lại đến nơi rồi, chị em Grêmiatsi lại phải cuốc bộ lên phố quận. Thế rồi thì họ sẽ bàn tán với nhau đánh giá chính quyền xôviết của chúng ta như thế nào? Hay là cậu cóc cần? Vậy mà mình với cậu chiến đấu đâu phải là để người ta chửi vào cái chính quyền thân yêu của chúng ta! Không, đâu phải thế! – Nextêrenkô thốt lên bằng một giọng đanh lại bất ngờ. Rồi kết thúc, giọng bây giờ lại thì thào: - Chẳng lẽ một chân lý đơn giản như vậy mà cậu không hiểu sao, hả Xêmiôn? Đồng chí ơi, tỉnh lại đi, và nhúc nhắc lên đi!...
Đavưđốp vê nát mẩu thuốc đã tắt ngấm, mắt nhìn xuống đất, im lặng hồi lâu. Suốt đời anh bao giờ cũng hết sức dè dặt trong việc bọc lộ những tình cảm đang dày vò mình, và cái gì chứ đa cảm uỷ mị thì không ai có thể trách anh được. Ấy thế mà lúc này có một sức mạnh nào không rõ đã thúc đẩy anh ôm chầm lấy Nextêrenkô, thậm chí còn khẽ đặt đôi môi khô cứng lên cái má râu ria lởm chởm của đồng chí bí thư. Giọng anh rung rung xúc động khi nói:
- Cám ơn, anh Nextêrenkô! Rất cám ơn! Anh tốt lắm, và làm việc với anh dễ chịu lắm, chứ không như với anh °°rghinxki. Anh nói với tôi những lời nghe rất đắng, nhưng rất đúng, thực tế thế! Duy có điều là, lạy Chúa, anh đừng nghĩ tôi là đồ bỏ đi! Tôi sẽ làm đâu vào đấy, tất cả anh em chúng tôi sẽ cố gắng và làm đâu vào đấy; tôi sẽ xem xét lại nhiều chuyện, bây giờ thì chả thiếu những vấn đề suy nghĩ… Đồng chí Nextêrenkô ạ, đồng chí hãy tin ở tôi!
Nextêrenkô cũng xúc động chẳng kém, nhưng không để lộ ra mặt. Anh ho húng hắng, nheo nheo đôi mắt nâu lúc này đã mất ánh vui vui. Sau một phút im lặng, anh so vai rùng mình một cái, nói nhỏ:
- Mình tin ở cậu, tin ở anh em, và mình trông mong vào cậu, như vào chính mình. Nhớ kỹ điều đó, Xêmiôn Đavưđốp ạ! Chớ phụ lòng tin của huyện uỷ và của mình, chớ đấy nhá! Vì chúng mình, những người cộng sản, bất kể trường hợp nào chúng mình cũng không được quên là phải kề vai sát cánh, như những chiến sĩ trong cùng một đại đội! Điều ấy cậu biết quá đi rồi. Sao cho từ nay mình với cậu khỏi phải có những cuộc chuyện trò khó chịu nữa. Cho qua được rồi đấy! Mình không thích những cuộc nói chuyện như thế này, mặc dầu đôi khi nó vẫn cứ cần. Mỗi lần phải nặng lời, cắn cấu một anh em như cậu là y như rằng đêm ấy mình mất ngủ, lòng đau nhoi nhói…
Xiết chặt bàn tay nóng hổi của Nextêrenkô, Đavưđốp đăm đăm nhìn vào mặt anh và sửng sốt: ngồi bên anh không còn là một còn người kể chuyện có duyên, không còn là một anh chàng xởi lởi ruột để ngoài da, sẵn sàng bông phèng cũng như sẵn sàng vật nhau, mà là một người đã luống tuổi và mệt mỏi. Đôi mắt Nextêrenkô bỗng như già hẳn đi, hai bên mép hằn những đường nhăn sâu, và cả cái màu rám đỏ trên đôi gò má cao của anh cũng dường như phai đi, nhợt vàng. Chỉ có vài phút ngắn ngủi mà Nextêrenkô như đã thay da đổi lốt. Anh nặng nhọc cẩt mình đứng dậy, nói:
- Mình phải đi đây, ngồi với cậu lâu qúa rồi.
- Anh muốn ốm hay sao đấy? – Đavưđốp lo lắng hỏi.- Sao tự nhiên nom phờ phạc.
- Cậu đoán giỏi đấy, - Nextêrenkô nói, giọng rầu rầu. – Mình bắt đầu lên cơn sốt rét. Cái bệnh khốn kiếp ấy, mình mắc phải nó lâu rồi, ở Trung Á, thế rồi từ đó không sao trừ được nó!
- Anh làm gì ở Trung Á? Có việc gì cần mà phải mò ra tận đấy?
- Dễ cậu tưởng mình ra đấy để hái đào chắc? Mình đi quét bọn bạch vệ, thế mà có tí bệnh sốt rét của bản thân mình, mình không quét nổi. Các ông bác sĩ đã xua nó vào buồng gan cho mình rồi, bây giờ cũng đành phải chung sống với nó thôi. Nhưng này, nhân tiện, đây là điều cuối cùng mình muốn nói với cậu: bọn phản cách mạng đang rục rịch ở khu ta đấy, và ở tỉnh Xtalingrát bên cạnh cũng vậy. Bọn ngu thảm ngu hại ấy hát thế nào nhỉ? “Tiêu diệt ta, chúng muốn tiêu diệt, chúng định tiêu diệt ta…”.
Đavưđốp tiếp luôn vào đó:
- “Và chúng ta cũng không khoanh tay ngồi chờ”.
- Rất đúng. Nhưng dù sao cái tai ta phải giữ rất thính, - Nextêrenkô trầm ngâm gãi gãi một bên lông mày, rồi càu nhàu: - chả còn cách nào khác, đôi khi cũng đành phải cho đi cái vật mình quý… Chúng mình đã kết bạn gắn bó với nhau thì cậu hãy nhận lấy cái đồ chơi này mình tặng cậu, có lúc cần đến nó đấy. Nagunốp đã bị chúng cảnh cáo, cậu nữa cũng phải cẩn thận, kẻo rồi có thể ăn một đòn gì gay hơn…
Anh rút trong túi áo ra một khẩu Braoninh cỡ hai, đặt vào tay Đavưđốp:
- Để tự vệ thì cái vật xinh xinh này có lẽ tác dụng hơn cái lắc lê thợ nguội đấy.
Đavưđốp xiết chặt tay Nextêrenkô, ấp a ấp úng nói:
- Cám ơn anh chí tình, chả biết nói thế nào… ờ, anh chu đáo quá, thực tế thế! Rất là một sự cám ơn!
Nextêrenkô nói đùa:
- Dắt nó vào người ấy, lợi cho sức khoẻ lắm đấy. Nhưng chú ý, đừng có để mất! Những anh cựu chiến binh càng về già càng hay đãng trí…
- Tôi còn sống thì còn nó, và nếu tôi mất nó thì cũng là mất luôn cái đầu, - Đavưđốp khẳng định dứt khoát và đút luôn khẩu súng vào túi sau quần.
Nhưng rồi anh lại rút nó ra ngay, băn khoăn nhìn nó, rồi lại nhìn Nextêrenkô:
- Thế này không ổn… Anh không có vũ khí phòng thân thì làm thế nào hả? Trả anh, tôi không cần!
Nextêrenkô ngượng nghịu gạt bàn tay Đavưđốp chìa ra:
- Không lo, mình còn dự trữ khẩu nữa. Khẩu này là khẩu dùng thường ngày, còn khẩu kia mình giữ như giữ con ngươi của mình, nó là cái tặng phẩm, có khắc tên mình. Cậu tưởng mình đi bộ đội, chiến đấu năm năm mà không được cái gì sao? – Nextêrenkô nháy mắt một cái, và cố mỉm cười nữa, nhưng chỉ rặn ra được một nụ cười rúm ró của kẻ đang ốm.
Anh lại xo ro vì lạnh, rùng rùng đôi vai, cố cưỡng lại cơn run, và nói nhát gừng:
- Hôm qua bác Salưi có khoe với mình món tặng phẩm của cậu. Mình đến chơi bác ấy mà, ngồi uống nước chè pha mật ong bàn luận sự đời với nhau, thế rồi bác ấy lục hòm lấy ra bộ đồ thợ nguội cậu cho, và bảo: “Cả đời lão chỉ nhận được hai cái tặng phẩm: cái túi đựng thuốc lá của bà lão cho khi bà ấy còn con gái và đang xu hướng với anh thợ rèn trẻ là lão lúc bấy giờ, và cái bộ đồ này đây của đồng chí Đavưđốp tặng cho vì thành tích trong công tác rèn của lão. Cả một đời người dài dằng dặc có độc hai tặng phẩm! Ấy thế mà trong cuộc đời đầy muội khói của lão, lão đã rèn nắn biết bao nhiêu là sắt thép, không thể nào đếm được! Bởi vậy cho nên những tặng phẩm này không phải lão chỉ cất trong hòm đâu, mà còn cất trong trái tim lão!”. Ông lão hay thật! Ông ta đã sống một cuộc đời lao động rất đẹp, và nói giọng các cụ, cầu Chúa phù hộ cho mỗi người chúng ta đem lại được lợi ích cho mọi người bằng với cái mà hai bàn tay của ông lão thợ rèn ấy đã mang lại. Cậu thấy đấy, tặng phẩm của cậu so với tặng phẩm của mình còn quý hơn nhiều chứ!
Hai người rảo bước trở về xe lều của đội. Bây giờ thì Nextêrenkô lên cơn run bần bật.
Từ đằng tây, mưa lại đang đổ tới. Những đám mây tơi tả tà tà bay thấp: dấu hiệu đầu tiên của thời tiết chuyển xấu. Hương cỏ non quyện với mùi đất ẩm. Mặt trời vừa ló ra đã ẩn vào trong đám mây đen, và hai con đại bàng thảo nguyên đã xuất hiện, giang đôi cánh rộng đón làn gió mát, bay vút lên tận chín tầng mây. Cái lặng tờ trước cơn mưa trùm lên thảo nguyên như một tấm dạ mềm, duy chỉ còn tiếng bọn chuột đồng lo ngại kêu lên rin rít, báo hiệu sẽ kéo dài:
- Anh vào xe lều nằm nghỉ tí đã rồi hãy đi. Không thì bị mưa giữa đường, ướt hết rồi lại ốm to, - Đavưđốp một mực khuyên Nextêrenkô.
Nhưng Nextêrenkô dứt khoát từ chối:
- Không được. Ba giờ mình phải họp huyện uỷ. Mà mưa không đuổi kịp mình đâu. Ngựa mình hay lắm!
Tay anh run run như một ông lão lụ khụ khi anh tháo cương và xiết lại yên ngựa. Hôn vội Đavưđốp một cái rồi bằng một động tác nhanh nhẹn bất ngờ, anh nhảy phốc lên lưng con ngựa đang sốt ruột đứng chờ, lớn tiếng nói:
- Phóng ngựa một lúc sẽ ấm người lên ngay! – Và anh ra đi theo nước kiệu rảo.
Nghe tiếng vó ngựa bồm bộp, bà Đaria Kuprianốpna ở trong xe lều lao ra như một cục bột nhão bắn ra từ trong chậu nhào bột, và giơ tay lên trời than vãn:
- Đi rồi à? Đi khổ đi sở đâu mà ăn cũng chẳng kịp ăn?
- Anh ấy bị ốm, - Đavưđốp đáp, mắt nhìn theo đồng chí bí thư một lát lâu.
- Thế có chán cho cái thân tôi không cơ chứ! Người tốt ơi là tốt, thế mà để người ta đi bụng đói! Anh ta là cán bộ thật, trông biết mà, nhưng đã không ngại ngồi gọt khoai với tôi lúc anh đang ngủ khì đấy, anh chủ tịch ạ. Anh ta không như các ông tướng kô-dắc nhà ta đâu, thật là một trời một vực! Các ông tướng ấy thì đừng hòng họ giúp mình! Họ thì chỉ chén kễnh bụng rồi chơi trăng tán láo, chứ giúp mình bếp núc thì đừng có mở mồm nhờ họ! Người ở đâu đến thế mà nói năng với tôi ngọt ngào đáo để! Có tìm trăm năm cũng chẳng thấy đâu được ai ăn nói ngọt ngào dễ nghe đến thế! – Bà Đaria Kuprianốpna mín chặt đôi môi đỏ hỏn lại làm duyên, hết lời ca ngợi Nextêrenkô, mắt thì liếc nhìn Đavưđốp xem cảm tưởng của anh ta thế nào.
Đavưđốp chẳng buồn nghe, đầu còn đang bận nghĩ lại cuộc chuyện trò vừa rồi với Nextêrenkô. Nhưng bà Đaria Kuprianốpna đã mở máy nói thì hãm lại đâu phải chuyện dễ, cho nên bà lại tiếp:
- Nhưng anh, anh Đavưđốp ạ, anh cũng là cái đồ chết giẫm, giá anh bảo cho tôi một câu là người ta phải đi thì hay bao nhiêu! Còn tôi thì cũng ngu khổ ngu sở, chả biết trông chừng, thật chán mớ đời! Biết đâu anh ta lại chẳng nghĩ là con mụ cấp dưỡng đã cố tình chui vào xe lều tránh mặt anh ta, mà tôi thì còn tiếc anh ta cái gì nữa…
Đavưđốp vẫn cứ nín thinh, còn bà Đaria Kuprianốpna thì cứ thao thao bất tuyệt:
- Xem anh ta cưỡi ngựa mới ác chứ! Cứ như đẻ ra dưới bụng ngựa và lớn lên trên mình ngựa vậy! Và ngồi vững như bàn thạch, ôi con chim ưng! Một dân kô-dắc chính cống, khỏi nói, mà kô-dắc có tông có giống nữa ấy chứ! – bà ta hồ hởi nói, mắt thích thú nhìn người kỵ sĩ đang phóng như bay.
- Anh ấy không phải kô-dắc, mà là người Ukrain, - Đavưđốp lơ đãng đáp, và thở dài. Trong bụng anh chẳng vui từ sau lúc Nextêrenkô ra đi.
Lời anh đáp làm bà Đaria Kuprianốpna bùng lên như thùng thuốc nổ:
- Chuyện dớ da dớ dẩn ấy anh về nói với bu nó ở nhà ấy, đừng nói với tôi! Tôi nói cấm sai, anh ta đứt đuôi con nòng nọc là dân kô-dắc mà! Mắt mũi anh gà mờ hay sao đấy? Trông dáng cưỡi ngựa từ xa đã đoán ra ngay, huống hồ nhìn tận mắt, qua vẻ người, qua tư thế dáng điệu, và qua cả lời ăn tiếng nói với phụ nữ nữa thì rành rành anh ta là máu kô-dắc, và không phải là loại cà là mèng đâu… - bà nhấn mạnh, giọng đầy ngụ ý.
- Ừ thì kô-dắc vậy, đối với tôi cái đó cũng vô thưởng vô phạt, - Đavưđốp dàn hoà. – Nhưng anh chàng hay đấy chứ nhỉ? Bác thấy thế nào? Chắc bác chuyện trò với anh ta chán chê mê mỏi rồi mới vào đánh thức tôi dậy chứ gì?
Bây giờ đến lượt bà Đaria Kuprianốpna thở dài. Bà thở dài đánh sượt một cái, mạnh đến nỗi đường khâu cái áo cũ kỹ đứt tung ra từ nách xuống dọc thân.
- Người thế hiếm lắm! – chờ một lát rồi bác Đaria Kuprianốpna mới đáp bằng một giọng đầy cảm tình sâu sắc, rồi bỗng dưng vô vớ bà khùng lên, khua nồi xoong bát đĩa loảng xoảng, xếp đi đặt lại trên bàn, mà thực ra cũng chẳng phải xếp đặt, mà là bạ đâu quẳng đó, lung tung…