- Ta vào trong nhà rèn, ngồi cho mát, chứ nắng này lão không quen, - bác Salưi không chịu nổi nắng rát vừa lau mồ hôi trên mặt, trên trán hói, và nói tiếp: - Một lão phó rèn già thì cũng chẳng khác gì một bà phu nhân già: không ưa tắm nắng, chẳng là vì suốt cái kiếp của mình cứ cấm cung trong nhà, - tất nhiên là mỗi người một kiểu.
Họ chuyển vào chỗ có bóng râm, ngồi xuống thềm đất nóng hâm hẩm đằng hướng bắc của gian lò rèn. Bác Salưi ngồi sát vào Đavưđốp, rì rầm nói, vo ve như một con ong bị mắc vào chạn:
- Vợ chồng Khốprốp có phải đã bị chúng giết không? Chúng giết đấy. Vì sao giết? Vì say rượu ư? Đâu phải cái sự ấy, anh ơi… Đây có chuyện gì đen tối đấy. Ai người ta lại giết người vì những chuyện không đâu. Lão già lão nghĩ lẩn thẩn thế này: nếu chính quyền xôviết không mê anh ta thì sẽ bắt và xử tử anh ta đàng hoàng theo toà án, chứ đâu lại làm dấm dúi, vậy nếu anh ta đã bị giết một cách dấm dúi, giết trộm, giữa đêm hôm, thậm chí lại bị giết cả vợ nữa thì có nghĩa là kẻ thù của chính quyền xôviết không mê anh ta, không thể khác được! Chứ lão hỏi anh, tại sao chúng lại giết vợ anh ta? Tại vì bọn giết người sợ chị ta tố cáo chúng trước chính quyền, do chị biết mặt chúng mà! Người chết thì hết nói, chôn xuống mồ là yên chuyện, anh ạ… Thế đấy thôi, không thể khác được, lão nói dứt khoát với anh như vậy.
- Cho là thế, và những điều ấy chả cần bác nói chúng tôi cũng thừa biết, thừa đoán ra được, nhưng cụ thể là ai giết? Điều đó thực tế chả ai biết cả, - Đavưđốp im lặng một lát, rồi lập mẹo, nói tiếp: - Và sẽ chẳng bao giờ biết được!
Bác Salưi dường như không nghe thấy câu cuối cùng của anh. Tay nắm chòm râu gần như bạc hết, bác toét miệng cười:
- Ngồi trong chỗ râm mát này dễ chịu thật. Ngày xửa ngày xưa, anh ạ, lão có lần gặp một chuyện như thế này. Một hôm, hồi ấy là trước mùa gặt, lão đang lắp vành cho chiếc xe bốn bánh của một lão nhà giàu ở Tavria. Lão nhớ, hắn đến lấy xe vào một ngày thường, ngày ăn chay, thứ tư hay thứ sáu gì đó. Hắn trả tiền, khen lão làm tốt, thết lão một chầu rượu, gọi những người làm của hắn đã dắt ngựa đến cho hắn lại cùng ngồi. Mọi người cùng uống. Rồi đến lượt lão mời rượu. Lại uống. Cái lão Ucrain ấy giàu lắm, trong bọn nhà giàu thật hiếm đứa như hắn: tâm địa hắn tốt. Anh ạ, thế rồi hắn nẩy ra sáng kiến làm một bữa nhậu nhẹt đàng hoàng. Mà lão thì công việc đang bề bộn, giữa ngày mùa mà, hàng họ ngập tận mũi. Lão đành bảo hắn; “Ông Tơrôphim Đênixôvits ạ, mời ông cứ tiếp tục, cứ uống với anh em, còn tôi ông cho kiếu, tôi không ngồi được đâu, lắm việc lắm”. Hắn đồng ý. Họ tiếp tục ngồi chén chú chén anh, còn lão, lão quay về lò. Đầu lão ù lên, nhưng chân vẫn đứng chắc, và tay cũng chắc, nhưng say, dứt khoát say lúy tuý. Đúng cái lúc khỉ gió ấy thì một chiếc xe ba ngựa leng keng đến trước cửa lò rèn. Lão bước ra. Đó là một chiếc xe thổ mộ thùng mây, và ngồi trên xe, dưới chiếc dù là tên Xêlivanốp, một tên địa chủ khắp vùng biết tiếng, kiêu căng khiếp lắm, và chó má thì trên đời này không ai bằng… Anh xà ích, mặt trắng bệch như tường vôi, tay run lẩy bẩy, đang cởi đai cho con ngựa bên trái. Anh ta đã sơ xuất để một chiếc cá móng ngựa rơi mất dọc đường. Thế là tên quý tộc ấy xỉa xói:
“Đồ mặt mẹt, tao sẽ đuổi cổ mày đi, sẽ tống mày vào tù, thế này thì mày làm tao nhỡ xe hoả mất”, - và cứ thế lải nhải mãi. Anh ạ, ở vùng sông Đông chúng tôi, dưới thời Sa hoàng, dân kô-dắc cũng không chịu khom lưng trước địa chủ lắm đâu. Đối với cái tên Xêlivanốp này thì cũng thế thôi: lão coi nó không ra cái đếch gì, mặc dầu nó là thằng địa chủ to nhất. Thế là lão bước ra, chuếnh choáng hơi men, lão đứng bên cửa, nghe nó mắng anh xà ích như tát nước vào mặt. Lão sôi tiết lên, anh ạ, dứt khoát là sôi lên sùng sục. Thằng Xêlivanốp trông thấy lão, quát gọi: “Ê, thằng thợ rèn kia, lại đây!”. Lão đã định trả lời: “Mày cần thì mày lại đây”. Nhưng lão chợt nảy ra một ý khác: lão bước tới phía hắn, tươi cười như với một người thân thích, đi đên bên xe, giơ tay bắt tay và nói: “Chào anh bạn! Thế nào, có khá không?”. Hắn sửng sốt đến nỗi chiếc kính gọng vàng trên mũi rơi xuống; nếu cái kính không có sợi dây đeo buộc giữ, nhất định nó đã vỡ tan tành rồi! Hán kéo lại kính lên mũi, còn lão thì vẫn cứ chìa tay ra, mà tay lão thì đen, như bồ hóng, bẩn như hủi. Hắn làm như không trông thấy bàn tay lão, nhăn mặt lại như nuốt phải mật đắng, và rít răng lại nói: “Thằng này say rượu phỏng? Mày có biết mày giơ tay ra với ai không, thằng mặt mo?”. Lão đáp: “Ô hay, sao lại không biết nhỉ, biết quá đi chứ! Tớ với đằng ấy thì có khác nào anh em ruột thịt: đằng ấy tránh nắng rúc xuống dưới cái ô, còn tớ thì chui vào dưới mái lò rèn; tớ thì những ngày thường tớ cũng say khướt, đằng ấy vừa nhận xét rất đúng, còn đằng ấy thì chắc hẳn không chỉ uống rượu có ngày chủ nhật như dân phu dân thợ, trông cái mũi đằng ấy đỏ như quả cà chua thì biết… Thành thử, hai ta là dòng dõi quý tộc, chứ không phải như những kẻ khác. Vậy nếu đằng ấy ngại không muốn bắt tay tớ, vì tay đằng ấy trắng, tay tớ đen, thì cái đó tớ để đằng ấy tự vấn lương tâm. Chui vào sáu tấm thì cả hai chúng mình cũng đều mục xương ra như nhau thôi mà”.
Thằng Xêlivanốp lặng ngắt, chỉ có đôi môi cứ nhai trệu trạo và mặt méo đi. Lão hỏi hắn: “Đằng ấy cần gì? Cần đóng móng con nghẽo hả? Cái ấy thì xong ngay thôi. Nhưng đằng ấy đừng chửi mắng cậu xà ích nữa. Trông thì biết, cậu ta không biết đường nào mà nói. Đằng ấy muốn chửi thì chửi tớ đây này. Hai anh em ta vào trong lò rèn, khoá trái cửa lại, rồi đằng ấy thử chửi tớ xem. Tớ rất thích những thằng to gan”.
Thằng Xêlivanốp lặng ngắt, mặt càng méo xệch, lúc méo sang bên này, lúc méo sang bên kia, lúc tái nhợt lúc đỏ dừ, nhưng vẫn cứ lặng ngắt. Lão đóng móng cho con ngựa của nó, rồi bước tới bên xe. Nó làm ra vẻ không trông thấy lão, chìa ra cho cậu xà ích một đồng rúp bạc, bảo: “Đưa cho cái thằng khốn nạn ấy”. Lão nhận đồng rúp cậu xà ích đưa cho, ném trả lại vào trong xe xuống dưới chân thằng Xêlivanốp, và lão ra vẻ ngạc nhiên, cười bảo hắn: “Ô hay, anh em với nhau giúp nhau có tí thế thôi ai lại lấy tiền? Thôi, tớ ủng hộ anh em đấy, cầm lấy ra quán làm cút rượu chúc cho tớ khoẻ!”. Đến đó thì mặt lão địa chủ nhà ta không phải tái nhợt, và cũng không phải đỏ dừ nữa, mà là xám ngoét; nó rít lên the thé: “chúc sức khoẻ mày hả… Chúc cho mày và cả nhà mày chết trương chết rũ thì có, đồ chó đểu, đồ khốn nạn, đồ xã hội chủ nghĩa! Ông sẽ lên phố trình quan ataman! Cho mày tù rục xương!”.
Đavưđốp cười ha hả, to đến nỗi đàn chim sẻ sợ hãi bay vù từ dưới mái lò rèn ra. Bác Salưi cười nụ sau hàng râu, giở thuốc ra cuốn.
- Tóm lại là “hai anh em” không ăn ý với nhau chứ gì? – Đavưđốp hỏi, nói gần như không ra lời.
- Không ăn ý.
- Thế còn tiền? Nó lại ném trong xe ra chứ gì?
- Thế thì lão sẽ ném cho nó biết… Không, nó cầm đồng rúp chuồn thẳng… Nhưng anh ạ, vấn đề không phải là tiền…
- Thì là cái gì?
Cái cười của Đavưđốp dòn và dễ lây quá đến nỗi bác Salưi cũng phởn lên cười ha hả, khoát tay một cái:
- Kể ra lão cũng hơi ngớ ngẩn…
- Thì kể nốt đi bác! Kể luôn đi nào! – Đavưđốp cười chảy nước mắt hau háu nhìn bác Salưi.
Nhưng bác Salưi cứ khoát tay, toét rộng hoác cái miệng râu xồm xoàm mà cười ồm ồm như lệnh vỡ.
- Kìa thì kể đi chứ! Còn chờ gì nữa? – Đavưđốp lúc này đã quên đi vấn đề nghiêm túc đang bàn dở, cười không còn biết cái gì trên đời nữa, giục bác Salưi.
- Không còn biết kể cái gì nữa… Nó đã bảo lão là đồ chó đểu, đồ khốn nạn, và những cái đồ gì gì nữa, và cuối cùng là hết tiếng để chửi, nó giậm chân thình thình xuống sàn xe, rít lên: “Mẹ cha đồ xã hội chủ nghĩa! Ông sẽ cho mày vào tù!”. Hồi ấy lão chả hiểu xã hội chủ nghĩa là cái gì… Cách mạng thì lão biết, còn “xã hội chủ nghĩa” là gì thì lão chẳng biết, và lúc ấy lão tưởng đó là câu chửi tục nhất trong các câu chửi… Lão trả miếng ngay: “Mày là đồ xã hội chủ nghĩa ấy, quân chó đẻ, có cút ngay đi không, không ông đánh cho tuốt xác!”.
Đavưđốp ôm bụng cười một trận nữa. Bác Salưi đợi cho anh cười cho đã, rồi nói tiếp:
- Hôm sau có người đến dẫn lão lên gặp quan ataman. Hắn hỏi lão đầu đuôi xuôi ngược, rồi cũng cười như anh vậy, và thả lão về, không bắt giam. Hắn cũng xuất thân từ một gia đình sĩ quan nghèo, vậy cho nên hắn cũng khoái khi thấy có một anh phó rèn xoàng lại dám xỉ vả một ông chúa đất giàu có. Chỉ có là trước khi cho lão về, hắn bảo: “Này, anh kô-dắc kia, vừa vừa thôi nhớ, liệu giữ mồm giữ miệng, thời buổi này phức tạp đấy, hôm nay anh đóng móng ngựa, ngày mai rất có thể người ta sẽ đóng móng cho anh cả bốn cẳng để đường trường đến tận Xibia anh đi khỏi trượt ngã. Rõ chưa?”. Lão trả lời: “Bẩm quan lớn, rõ rồi ạ”. Hắn bảo: “Thôi, cút, và từ nay đừng để ta trông thấy mặt nữa. Còn ông Xêlivanốp thì ta sẽ báo ông ấy là ta đã lột da anh”. Đó, anh ạ, đầu đuôi là như thế…
Đavưđốp đứng dậy định chào bác phó rèn hay chuyện ra về, nhưng bác túm lấy cánh tay áo anh, lôi anh ngồi lại xuống bên bác, đột ngột hỏi:
- Anh sẽ chẳng bao giờ biết được ai đã giết vợ chồng Khốprốp phải không? Anh ạ, cái sai của anh là ở đấy đấy. Sẽ biết. Dứt khoát là sẽ biết, có điều là phải có thời gian.
Xem vẻ ông lão có biết manh mối gì đó, Đavưđốp quyết định lật con bài ra:
- Bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, bác nghi cho ai? – Anh hỏi thẳng, nhìn xoi mói vào đôi mắt đen có lòng trắng đầy những tia máu của bác Salưi.
Bác liếc vội anh một cái, trả lời lảng:
- Chuyện này, anh ạ, dễ lầm lắm đấy…
- Thì bác cứ nói đi!
Bác Salưi đặt tay lên đầu gối Đavưđốp nói bằng một giọng đã hết do dự:
- Này, anh ạ, giữ lấy lời còn hơn giữ tiền, giữ của, anh hãy hứa với lão: không nói với ai rằng đây là ý kiến của lão. Đồng ý không?
- Đồng ý.
- Nó là thế này; chuyện này cũng không thể không có bàn tay Iakốp Lukits dính vào. Lão dứt khoát với anh như thế.
- Ồ, ông bạ-ạ-ạn ơi… - Đavưđốp thất vọng dài giọng đáp…
- Lão là “bạn” thằng Xêlivanốp, còn anh thì lão đáng làm bố anh. – Bác Salưi tự ái nói: - Lão không bảo anh là chính tay Iakốp Lukits giết Khốprốp, lão chỉ bảo vụ này có tay hắn dính vào thôi. Cái đó anh cần phải hiểu ra, nếu như Chúa cũng cho anh chút trí thông minh.
- Vậy chứng cớ đâu?
- Anh được bổ làm thẩm phán rồi chắc? – bác Salưi hỏi đùa.
- Bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, chuyện nghiêm chỉnh thì bác đừng nói đùa, có ý kiến thì nêu hết ra đi. Chúng ta không việc gì phải chơi ú tim với nhau.
- Anh ạ, thẩm phán như anh thì tồi lắm, - bác Salưi khẳng định. – Đi đâu mà vội, quỷ tha ma bắt anh đi, lão sẽ trình bày hết anh nghe, trình bày dứt khoát, có điều là anh hãy cố lau sạch nhử mắt mà nhìn cho rõ… Anh tằng tịu với con Luska làm cái khỉ gió gì? Thật chẳng vừa đôi phải lứa tí nào! Anh không tìm được đứa đàn bà nào hơn cái con đĩ rạc ấy ư?
- Cái ấy không việc gì đến bác, - Đavưđốp ngắt lời bác Salưi.
- Không đâu, anh ơi, việc đến cả lão, việc đến cả toàn nông trang nữa kia.
- Tại sao lại thế được?
- Tại là vì anh tằng tịu với con mèo mả gà đồng ấy, công tác của anh bê trễ đi hẳn. Anh sinh ra bị quáng gà… Thế mà anh bảo không việc gì đến lão. Anh ạ, đây không phải là chuyện không hay cho riêng anh, mà cho chung toàn nông trang ta. Chắc anh tưởng chuyện anh lăng nhăng với con Luska anh giữ được kín hẳn, thực ra thì cả làng biết tỏng tòng tong. Đấy như đám phụ lão chúng tôi, đôi lần ngồi với nhau, chúng tôi cứ băn khoăn thắc mắc: làm thế nào để tách được anh ra khỏi cái con Luska chết giẫm nửa đời nửa đoạn ấy nhỉ? Vì sao chúng tôi lại nghĩ như thế? Vì rằng cái giống đàn bà như con Luska thì không làm cho anh đàn ông chịu thương chịu khó ra đâu, mà chỉ làm cho người ta sao lãng công việc đi thôi, chúng tôi lo cho anh là vì thế… Anh là người tốt, chững chạc, chẳng rượu chè bê tha, tóm lại là hiền, và cái con quỷ cái ấy đã lợi dụng những cái tốt của anh: nó cưỡi lên lưng anh quất cho anh chạy nhong nhong. Nó làm cách nào để cưỡi được lên lưng anh thì anh biết hơn lão; cưỡi lên lưng anh thì chớ, nó lại còn khoe vung khắp làng: “Đấy, thấy chưa, đã thấy tôi xỏ mũi được những anh chàng như thế nào chưa?”. Ôi anh Đavưđốp ơi, kiếm ai chả kiếm, sao lại kiếm con ấy… Một lần, vào hôm chủ nhật, đám già chúng tôi đang ngồi chơi trước cửa nhà Bexkhlépnốp thì anh đi qua. Ông cụ Bexkhlépnốp đã nhìn theo anh và nói: “Đáng lẽ phải bắc anh chàng Đavưđốp nhà ta lên cân mới phải: xem trước khi dính vào con Luska được bao nhiêu cân và bây giờ còn bao nhiêu. Nom kìa, nó đã rút hết ruột anh ta rồi. Chuyện này dở òm, các cụ ạ: ruột thì nó rút, phần bà con ta còn lại cái xác ve…”. Anh ạ, lão nói anh hãy tin lão, lão nghe thế mà lão xấu hổ hộ cho anh! Nếu như anh là anh phó nhỏ ở lò rèn lão thì làng xóm chả ai hơi đâu mà nói làm gì, nhưng đằng này anh lại là người đứng đầu toàn nông trang ta… Mà đứng đầu là quan trọng lắm đấy, anh ạ… Ngày xưa, khi có người kô-dắc nào bị đòn quan ngoài chợ vì phạm phải tội gì đó người ta thường nói; “Vãi máu đít ra cũng chẳng sao, miễn là cái đầu còn tỉnh”. Vậy nhưng cái đầu của nông trang ta không còn tỉnh nữa, hơi mụ đi rồi. Cái đầu ấy đã bị con Luska cho bùa mê thuốc lú. Nếu như anh chọn một con bé nào đứng đắn, hoặc một mụ goá đi cũng được, thì nào có ai bảo sao, đằng này anh lại… Ôi anh Đavưđốp ơi, anh tối mắt đi mất rồi! Lão thì lão chẳng cho rằng vì quá yêu con Luska mà anh rộc người đi như thế đâu mà là vì lương tâm anh cắn rứt, lão nói dứt khoát với anh như vậy.
Đavưđốp nhìn con đường chạy qua bên lò rèn, nhìn đàn chim sẻ đang quần bụi. Mặt anh tái đi trông rõ và trên đôi gò má nứt nẻ của anh xuất hiện những vết bầm xanh xanh.
- Thôi được rồi đấy! – anh lẩm bẩm nói, rồi quay sang bác Salưi. – Ông ạ, chả cần ông nói tôi cũng đã muốn lộn mửa.
- Say mà mửa được ra thì cũng nhẹ người, - bác Salưi nói như tiệm mồm nói chơi.
Nén đi cái ngượng ngùng bối rồi, Đavưđốp nói giọng lạnh lùng:
- Ừ, bác hãy đưa bằng chứng là Ôxtơrốpnốp có tham gia. Không có bằng chứng, không có sự việc cụ thể thì coi như vu khống. Bác giận Ôxtơrốpnốp đã gây chuyện với bác. Và bác chơi lại hắn chứ gì! Nào bác có chứng cớ gì thì đưa ra đi!
- Anh ạ, anh nói dở lắm, - bác Salưi nghiêm nghị đáp lại. – Lão giận gì Ôxtơrốpnốp? Giận chuyện tính công chăng? Thì lão cứ việc không chịu, tự khắc hắn phải tính đủ cho lão. Còn như bằng chứng thì lão không có, lão đâu có nằm dưới gầm giường Khốprốp khi chúng hành hung giết cô vợ anh ta và cũng là người thân tình với lão.
Ông lão lắng tai nghe có tiếng sột soạt sau tường, và thân hình nặng nề trùng trục thế mà lão đứng phắt dậy một cái nhanh nhẹn lạ thường. Lão đứng đó một phút dỏng tai nghe, rồi thủng thỉnh cởi tấm tạp dề da cáu bẩn luồn qua đầu, và nói:
- Thôi, anh ạ, anh về chơi nhà lão, làm một bát sữa mát, rồi ngồi mát mẻ nói nốt câu chuyện. Lão nói riêng với anh… - Bác ghé tai Đavưđốp và cái câu chuyện kín bác nói thì thào bằng cái giọng ồm ồm ấy có lẽ hàng xóm lắng giềng đều nghe rõ mồn một: - Lại cái thằng ranh con ấy đang nghe trộm đấy, cấm sai đâu.!... Lúc nào nó cũng rình nghe, nó không để mình nói chuyện yên được với ai, cái tai nó lúc nào cũng vểnh lên. Lạy Chúa, lão thật khốn khổ khốn sở với nó, không sao kể xiết! Ương bướng, và lười, và ranh ma quỷ quái không để đâu cho hết, nhưng công việc lò rèn thì nó có khả năng, nghĩa là lão nói dứt khoát thế! Thằng quỷ sứ nhà giời ấy, nó mó đến việc gì là làm được việc ấy. Lại là đứa mồ côi cha mẹ nữa. Có thế lão mới cố cắn răng chịu đựng những cái tai ác của nó, lão muốn dạy nó nên người, để nó nối được nghiệp lão.
Bác Salưi bước vào trong gian lò rèn, vứt cái tạp dề lên trên mặt bàn đen nhẻm bồ hóng, bảo gọn Đavưđốp: “Đi!”. – và ra đường về nhà.
Đavưđốp chỉ muốn sớm được ngồi một mình ngẫm nghĩ về những lời anh vừa nghe bác Salưi nói, nhưng câu chuyện liên quan đến vụ sát hại Khốprốp còn đang dở, đành theo gót bác thợ rèn đang bước đi khệnh khạng như một con gấu.
Lẳng lặng mà đi thì Đavưđốp thấy bất tiện, cho nên anh gợi chuyện hỏi:
- Gia đình nhà ta thế nào, hả bác Ipôlít Xiđôrôvits?
- Gia đình lão ấy hả? Có độc lão và bà lão điếc lòi tĩ.
- Thế không con cái gì à?
- Hồi còn trẻ cũng có hai đứa đấy, nhưng trời không cho sống. Còn đứa thứ ba đẻ ra đã chết rồi, và từ đó bà lão không chửa đẻ gì nữa. Hồi đó bà ấy trẻ, khoẻ mạnh, nhưng có cái gì mắc míu, trục trặc sao đó, và thế là tịt hẳn! Vợ chồng lão làm đủ cách, cố đủ vành, nhưng chẳng đi đến đâu. Bà nhà nó năm ấy đã cuốc bộ đi Kiép, lễ nhà thờ xin cầu tự một mụn con, nhưng cũng chẳng được cái gì. Trước khi bà ấy ra đi, lão bảo: “Đi thì cũng cố đùm vạt áo mang về cho tôi một thằng nhãi Khôkhôn nhá!” – Bác Salưi cười khúc khích, nói tiếp: - Bà ấy nhiếc lão là đồ phải gió, ra cầu nguyện mấy câu trước tượng thánh, rồi đi. Bà ấy đi từ mùa xuân đến mùa thu mới về, nhưng chẳng được cái tích sự gì cả. Từ đấy trở đi, lão bắt đầu nuôi đủ thứ trẻ mồ côi, truyền cho chúng nghề rèn. Lão rất chi là yêu trẻ, nhưng Chúa lại không muốn lão có con cho vui nhà vui cửa. Anh ạ, đời vẫn có những chuyện như thế đấy…
Ngôi nhà nom sạch sẽ, bên trong tối lờ mờ, yên tĩnh và mát rượi. Một thứ ánh sáng vàng vàng lọt vào nhà qua khe cửa chớp đóng kín che nắng. Sàn nhà mới cọ rửa ít lâu thoang thoảng mùi xạ và mùi cỏ ngái. Bác Salưi đích thân xuống hầm mang lên một bình sữa đổ mồ hôi lạnh, đặt lên bàn hai chiếc cốc vại, thở dài nói:
- Bà nhà lão đang công tác ngoài vườn rau. Cái bà thổ tả ấy cấm có sợ nắng… Vậy là anh hỏi lão có bằng chứng gì không hả? Lão nói dứt khoát với anh là sáng hôm vợ chồng Khốprốp bị giết, lão có đến thăm viếng, vì cái nhà chị Khốprốp ấy chẳng gì cũng là chỗ thân tình với lão. Nhưng nhà có công an gác ngoài cửa, dự thẩm viên đến, và cấm không cho ai vào. Lão đứng vẩn vơ bên thềm một lát.. Chợt lão nhìn thấy trên thềm nhà một vết chân quen quen… Trên thềm vết chân người dẫm nát, nhưng có một vết phía bên, gần lan can.
- Nó có cái gì mà bác thấy quen? – Đavưđốp hỏi vội, vẻ chăm chú.
- Có cái gót cá sắt. Vết chân còn mới, đêm qua thôi, in rõ, và cái cá sắt nom quen quen… Loại cá sắt ấy theo lão thì cả làng chẳng ai dùng đóng ủng, trừ một người. Và lão không thể lầm được, vì đôi cá ấy ở lò rèn lão ra.
Đavưđốp sốt ruột đặt cốc sữa uống dở sang bên:
- Tôi không hiểu. Xin bác nói rõ hơn.
- Anh ạ, có gì đâu mà không hiểu. Hai năm trước đây, từ cái hồi còn cá thể cơ, lúc sắp vào mùa xuân, Iakốp Lukits có đến lò rèn nhờ lão lắp vành cho chiếc xe ngựa. Lão bảo; “Đem lại đây, hiện tôi đang rỗi.”. Hắn đem xe lại, ngồi lò rèn lão khoảng nửa tiếng, chuyện gẫu con cà con kê. Rồi hắn đứng dậy định về, và đứng bên lò hắn chú ý đến đống sắt vụn, cúi xuống lục bới. Cái đống sắt vụn của lão thì đủ thứ linh tinh, đủ các vật tầm tầm. Hắn tìm thấy một đôi cá ủng kiểu vòng kín gót gầy của Anh mà lão vứt lăn lóc đấy từ hồi nội chiến. Hắn nói: “Bác Ipôlít Xiđôrôvits ơi, cho tôi xin đôi cá này tôi đóng vào ủng, dạo này già rồi, cứ lê gót sền sệt, gót giày dép nào cũng chẳng được mấy nả, phải chữa luôn”. Lão bảo hắn: “Cứ lấy đi thôi, bà con với nhau có đáng cái gì. Cá thép bền lắm đấy, đi đến đời con đời cháu không hỏng”. Hắn đút túi ra về. Chuyện ấy tất nhiên là hắn quên rồi, nhưng lão thì lão nhớ. Lão đã trông thấy chính cái hình cá sắt ấy ở vết chân in trên tuyết…Lão thấy nghi quá. Lão nghĩ bụng: sao lại có cái vết cá ấy ở đây nhỉ?
- Rồi sao nữa? – Đavưđốp giục ông lão cứ kể lể con cà con kê.
- Rồi lão nghĩ bụng: “Ta đến chơi nhà Iakốp Lukits tí, xem vết giày hắn thế nào”. Lão đến tìm hắn, giả vờ hỏi han sắt đánh lưỡi cày, rồi nhìn chân hắn. Nhưng hắn lại đi giày nỉ? Chẳng là đang rét đại hàn mà. Lão làm như tiện mồm hỏi chơi: “Bác Iakốp Lukits à, bác có trông thấy xác hai người bị giết không?”. Hắn trả lời: “Không, tôi không dám nhìn người chết, nhất lại là bị giết. Tim tôi yếu mà. Nói thế chứ trước sau rồi ai cũng phải qua cái đận ấy thôi”. Lão lân la trò chuyện rồi như vô tình hỏi tiếp: “Bác gặp Khốprốp lần cuối cùng đã lâu chưa?”. Hắn nói: “Chả mấy lâu, mới tuần trước”. Hắn nói tiếp: “Trong ta sao lại có những kẻ ác ôn thế! Sát mạng một con người lực lưỡng như vậy. Và vì lý do gì chả biết? Anh ta hiền như đất, xưa nay có gây thù chuốc oán với ai bao giờ đâu. Mẹ cha bọn khốn nạn, cho chúng nó chết khô chết héo, chết trương chết rũ ra”.
Lão nghe mà lòng như lửa đốt! Trong khi hắn giở cái giọng lưỡi Giuđa ấy ra, đầu gói lão cứ rung lên, và bụng lão nghĩ: “Đồ chó, chính mày đêm qua đã lần mò đến nhà Khốprốp, và nếu không phải mày đã giết anh ta thì là mày đã dẫn thằng sát nhân đến đấy”. Những lão vẫn làm ra vẻ như không, rồi cáo về. Nhưng cái ý định kiểm tra lại vết giày ấy đã chốt sâu vào đầu óc lão, như cái đinh cắm vào móng ngựa vậy. Đôi cá giày lão cho hắn, còn hay đã rơi mất? Lão đợi hai tuần thì hắn mới bỏ giày nỉ, đi ủng vào. Trời vừa bắt đầu ấm, tuyết bắt đầu tan là lão quẳng công việc lò rèn đó, mò ngay lên trụ sở. Iakốp Lukits có đó, và đi ủng! Một lát sau hắn bước ra ngoài. Lão theo hút. Hắn bỏ đường cái, rẽ vào lối ra kho. Lão nhìn lốt chân hắn: đôi cá sắt lão cho hắn hai năm trước vẫn còn, vết in rành rành đó!
- Ông lão ngớ ngẩn này, sao hồi ấy lại ngậm miệng, không nói không năng gì? Sao không báo cáo với nơi cần báo cáo? – Máu Đavưđốp bốc hết lên mặt. Anh bực tức đấm mạnh một cái xuống bàn.
Nhưng bác Salưi chằm chằm nhìn anh bằng con mắt không lấy gì làm dịu dàng cho lắm, hỏi vặn lại:
- Này anh ơi, anh tưởng trứng khôn hơn vịt hẳn? Chuyện ấy lão đã nghĩ đến trước anh cơ… Nhưng giả thử là ba tuần sau khi xảy ra vụ giết người, lão đi báo cáo với nhân viên điều tra, xin hỏi cái lốt chân kia đâu? Thế chẳng ra là lão ngu lắm sao?
- Lão phải nói ngay hôm xảy ra ấy c hứ! Lão là đồ hèn, chẳng qua là lão hốt thằng Ôxtơrốpnốp, thực tế thế!
- Của đáng tội, có thế, - bác Salưi xin chịu ngay. – Anh ơi, lủng củng với Ôxtơrốpnốp là chuyện nguy hiểm đấy… Mươi năm trước đây, khi hắn còn trẻ hơn, mùa cắt cỏ, hắn với Anchíp Gráts bực nhau, chửi lộn nhau, rồi hắn bị Anchíp nện cho một trận nên thân. Một tháng sau cái bếp ngoài trời nhà Anchíp cháy. Bếp làm ngay gần nhà và đêm ấy gió thổi tạt theo hướng nhà, và thế là nhà cháy nốt. Cả cái dẫy nhà xép bốc cháy rừng rực, rồi kho thóc cũng đi đời luôn. Anchíp trước kia nhà cửa bề thế, bây giờ chui rúc trong cái lều gianh vách đất. Đụng đến Iakốp Lukits thì thế đấy. Những chuyện xích mích thù oán từ đời thuở nào hắn cũng chẳng bỏ qua đâu, nói gì đến chuyện bây giờ. Nhưng anh ạ, vấn đề không phải ở chỗ ấy. Vấn đề là lão đã do dự, không quả quyết đến trình bày với công an: phần thì lão e dè, phần thì lão không tin dứt khoát là chỉ mình Iakốp Lukits có đôi cá giày ấy. Phải kiểm tra đã, bởi vì rằng thời nội chiến có đến nửa số người vùng ta đi giày săng đá Anh. Thêm nữa, qua một tiếng đồng hồ thì thềm nhà Khốprốp đã nát những vết giày, đến nỗi ngay cả vết lạc đà hay chân ngựa cũng khó mà phân biệt được. Đấy, đầu đuôi như thế đấy, nếu suy trước tính sau cho kín mọi bề thì đâu phải chuyện đơn giản. Cho nên hôm nay lão mời anh đến đây không phải để xem máy cắt cỏ đâu, mà để bàn bạc riêng với anh một lúc.
- Ông quyết định hơi muộn, ông lẩm cẩm lắm… - Đavưđốp nói bằng giọng trách móc.
- Chưa muộn đâu, nhưng nếu anh không sớm mở to mắt ra thì nhìn muộn mất đấy, lão nói dứt khoát cho anh biết thế.
Đavưđốp im lặng một lát, rồi đáp, cân nhắc từng tiếng:
- Về chuyện tôi, bác Ipôlít Xiđôrôvits ạ, về chuyện công tác của tôi bác có nhiều ý kiến đúng, tôi xin cám ơn bác. Công tác của tôi phải chấn chỉnh lại, thực tế thế! Nhưng công việc mới toanh thế thì ma quỷ cũng lần mò đâu được ra ngay!
- Cái ấy thì đúng, - bác Salưi tán thành.
- Còn về việc tính công cho bác, chúng tôi sẽ xem xét và sửa lại. Về Ôxtơrốpnốp bây giờ cứ từ từ vậy thôi, vì ta không bắt được quả tang hắn. Cần phải có thời gian. Nhưng về chuyện ta nói với nhau đây, bác chớ hé răng ra với ai. Bác rõ không?
- Lão sẽ im như thóc.
- Bác còn điều gì muốn nói nữa không? Nếu không thì tôi ra trường học đây, tôi có tí việc cần gặp ông hiệu trưởng.
- Còn điều này nữa. Anh hãy dứt khoát quẳng cha nó con Luska đi! Anh ạ, con ranh con ấy sẽ cho anh đi đứt ấy…
- Ồ, quỷ tha ma bắt ông đi! – Đavưđốp kêu lên ngán ngẩm. – Chuyện ấy ta bàn rồi, và thế là đủ. Tưởng trước khi chia tay bác nói chuyện gì đáng chuyện, chứ lại cái chuyện cũ rích ấy…
- Anh đừng vội khùng lên, chuyện người già cả nói cho anh, anh hãy vểnh tai lên mà nghe. Lão không nói chuyện vớ vẩn đâu, anh nên biết là thời gian gần đây con ấy không chỉ móc với riêng mình anh… Và nếu anh không muốn ăn một viên đạn vào giữa sọ thì cái con chó cái ấy, anh hãy đá nó đi, dứt khoát!
- Nhưng tôi có thể bị ăn đạn của ai cơ chứ?
Đôi môi cương nghị của Đavưđốp chỉ thoáng một nụ cười hoài nghi, nhưng bác Salưi đã để ý thấy và điên tiết lên:
- Anh nhăn nhở cái gì? Anh hãy cảm ơn Chúa đã để cho anh sống đến ngày hôm nay, anh thật có mắt cũng như mù! Lão cứ thắc mắc mãi: sao nó lại bắn anh Maka, mà không bắn anh?
- “Nó” là ai?
- Thằng ranh con Chimôphây Mũi toác chứ còn ai nữa! Nó thù oán với anh Maka cái gì lão chẳng hiểu. Lão mời anh đến báo cho anh biết chuyện này, anh lại nhăn nhăn nhở nhở chẳng khác gì thằng Vanhia nhà lão vậy.
Đavưđốp bất giác thò tay vào túi áo, tỳ ngực vào bàn.
- Thằng Chimôphây hả? Nó ở đâu mò ra?
- Ở chỗ đi đày trốn về, chứ còn ở đâu?
- Bác thấy nó à? – Đavưđốp hỏi nhỏ, gần như thì thào.
- Hôm nay có phải thứ tư không nhỉ?
- Thứ tư.
- Vậy thế là đêm hôm thứ bảy lão thấy nó đi với con Luska nhà anh. Tối hôm ấy con bò cái nhà lão không về chuồng, lão phải đi tìm cái con ôn vật ấy. Quãng nửa đêm, lão túm được cái con thối thây ấy dắt về thì bắt gặp hai đứa ở gần rìa làng.
- Nhưng bác có trông gà hoá cuốc không đấy?
- Anh tưởng lão trông anh hoá ra thằng Chimôphây sao? – bác Salưi mỉm cười chế giễu. – Không, anh ơi, lão già thì già nhưng mắt còn tinh chán. Chắc chúng nó tưởng con vật đi lang thang một mình trong đêm tối, mà thực ra thì có lão theo sau, tóm lại là thoạt đầu chúng nó chưa thấy lão. Con Luska nói: “Úi, đồ chết giẫm, con bò đấy, anh Chimôphây ạ, thế mà em cứ tưởng có người”. Vừa lúc ấy thì lão lù lù đến. Con ấy đứng phắt dậy trước, thằng Chimôphây đứng dậy theo ngay. Lão nghe nó lên đạn, nhưng miệng nó vẫn lặng ngắt. Thế là lão rất chi là ôn tồn, bảo chúng nó: “Ngồi xuống đi, bà con cứ ngồi xuống đi! Lão không làm phiền gì bà con đâu, lão đi lùa con bò về thôi mà, nó bị lạc đàn…”.
- Chà, bây giờ thì rõ cả rồi, - Đavưđốp nói, có lẽ là nói với mình thì đúng hơn là nói với bác Salưi.
Anh nặng nề cất mình đứng dậy, tay trái ôm lấy bác thợ rèn, tay phải nắm chặt khuỷu tay bác;
- Bác Ipôlít Xiđôrôvits, xin cám ơn về tất cả những điều bác nói hôm nay.
Tối hôm ấy anh kể lại cho Nagunốp và Radơmiốtnốp về câu chuyện giữa anh với bác Salưi. Anh đề nghị lập tức báo cáo lên GPU huyện việc thằng Chimôphây Mũi toác đã trốn về làng. Nagunốp, lúc nghe tin cứ tỉnh bơ như không, phản đối đề nghị của Đavưđốp:
- Không nên báo cáo đi đâu cả. Họ sẽ làm hỏng toét hết. Thằng Chimôphây không ngu đâu, nó không dại gì ở trong làng, và chỉ cần một cha GPU ló mặt về đây thôi, nó lập tức biết ngay và chuồn thằng.
- GPU về bí mật, ban đêm, thì nó biết làm sao được? – Radơmiốtnốp vặn lại.
Nagunốp khinh khỉnh nhìn anh một cái nhìn thương hại:
- Anđrây ạ, cậu nói cứ như trẻ con. Con chó sói bao giờ cũng phát hiện ra người đi săn trước, rồi người đi săn mới phát hiện ra nó.
- Vậy ý kiến cậu thế nào? – Đavưđốp hỏi.
- Cho mình cái hạn năm sáu hôm, mình sẽ mang về cho các cậu thằng Chimôphây hoặc sống hoặc chết. Còn cậu với Anđrây thì dẫu sao ban đêm cũng liệu dờ hồn: khuya đừng có mò ra đường, và đừng thắp đèn. Tôi chỉ yêu cầu các cậu có thế, còn mọi việc cứ để mặc tôi.
Nagunốp dứt khoát từ chối không chịu nói gì thêm về kế hoạch hành động của mình.
- Được, để cậu làm, - Đavưđốp đồng ý. – Nhưng cậu coi chừng: để hụt thằng Chimôphây, nó sổng mất thì có đến mạt kiếp ta cũng không tìm ra nó.
- Cứ yên tâm, nó chạy đằng trời, - Nagunốp khẽ nhếch mép cười, nói quả quyết như thế, và đôi mi thâm quầng của anh khép xuống, dập tắt những tia lửa vừa loé lên một khoảnh khắc trong đôi mắt anh.