“ Bẩm hoàng thượng lúc thiếu niên thần đã từng có mấy năm đọc sách ở Cửu Nguyên. Sự tôn đã đặt tên chữ Hán cho thần là Mộ Hoa. Vì bản thân thần đối với văn hóa Trung Nguyên hết sức kính ngưỡng, thần cũng lập chí muốn lấy một cô gái Đại Đường để làm vợ” Trương Hoán thấy sự nhiệt tình và sùng bái của Thạch Mộ Hoa với Đường triểu, trong lòng cảm thấy thích thú, khẽ cười nói: “ Phụ thân ngươi không tự mình đến Đại Đường, vậy ông ta có gửi thư tín gì chăng” Thạch Mộ Hoa vội vàng khom người đáp: “ Bẩm hoàng thượng. có ạ, nó được đặt trong chiếc hộp vàng đó” Trương Hoán có vẻ kinh ngạc, hắn lại mở nắp hộp ra và lấy từ đó một tấm gấm màu trắng, khi mở tấm gấm thư đó ra hắn ngây ngẩn cả người. Cả tấm gấm thư đó đầy những chữ nhỏ, thì ra ông ta dùng máu tươi để viết, Trong huyết thư này ông ta đã kể hết những sự đè nén, khi dễ của Hồi Hột với Hiệt Kiết Tư. Hiện tại Hồi Hột chủ trương phát triển thế lực ở phía Tây tới Di Bá hải. Điều này khiến cho người Hiệt Kiết Tư co nguy cơ vong tộc diệt củng. Vì vậy trong huyết thư ông ta cầu khẩn Đại Đường ra tay trợ giúp người Hiệt Kiết Tư. Nếu được như thế người Hiệt Kiết Tư sẽ nguyện coi đại đường là cha. Trương Hoán khẽ cau mày, hắn không thích phương thức dùng huyết thư cực đoan này để bày tỏ tình cảm. Thạch Mộ Hoa vẫn khẩn khoản, chăm chú quan sát nhất cử nhất đọng của Trương Hoán, đây chính là thời khắc có liên quan đến sự sống còn của người Hiệt Kiết Tư vì vậy tất cả tinh thần trí lực của hắn đều đổ dồn về phía Trương Hoán. Thấy hoàng đế chau mày, hắn giật thót tim sợ hãi, quỳ rạp xuống nền ngự thư phòng, khóc lóc thảm thiết nói không ra tiếng: “ Muôn tâu hoàng thượng, người Hiệt Kiết Tư sau mỗi năm chăn nuôi làm lụng vất vả đều phải cống nạp sáu phần dê, bò trở lên cho bọn người Hồi Hột, như năm nay thời tiết khắc nghiệt, mà bọn chúng vẫn cứ đòi chúng thần cống nạp như năm trước, nếu không đủ sẽ bắt làm nô tỳ. Trăm năm qua người Hiệt Kiết Tư chúng thần luôn sống trong cảnh thiếu thốn từ cái ăn cho tới cái mặc, cực khổ muôn phần, nhiều lần chúng thần đã nổi dậy phản kháng nhưng đều bị Hồi Hột đàn áp. Ngay cả tổ phụ và hai vị bá phụ của thần đều bị chết dưới đao của bọn chúng. Mấy năm nay khí hậu càng ngày càng lạnh giá, dê bò khó chăn nuôi, người Hiệt Kiết Tư chúng thần phải tới Di bá Hải để bắt cá kiếm sống, nhưng ba năm trước đây bọn Hồi Hột phát triển thế lực về phía Tây tới Di Bá Hải lại càng bức bách chúng thần đến thậm tệ. Đỉnh điểm nhất là nửa năm trước chúng ra lệnh nghiêm cấm người Hiệt Kiết Tư không được đánh cá ở khu vực Di Bá Hải, tuyệt đường sống của chúng thần,lại còn bắt Hiệt Kiết Tư sang năm phải nộp trăm vạn con dê bò cùng năm mươi vạn con ngựa. Nếu không đáp ứng đủ chúng sẽ tận diệt tàn sát tất cả người Hiệt Kiết Tư. Hoàng thượng xin hãy cứu chúng thần, chúng thần thật sự cùng đường rồi” Lúc này Thôi Diệu đứng ở bên cạnh không nhịn được nữa, lên tiếng: “ Bẩm hoàng thượng, thảo dân có nghe rất nhiều thương nhân nói, người Hồi Hột cấm các thương nhân trao đổi mua bán lương thực với người Hiệt Kiết Tư. Bọn chúng còn thường xuyên phái kỵ binh đi tuần tra, một khi bị phát hiện thì giết không cần hỏi” “ Tôn nhi” Thôi Viên quát lên một tiếng cắt ngang lời của Thôi Diệu: “ Trước mặt hoàng thượng không được phép nhiều lời” Thôi Diệu bị làm cho sợ hãi một trận, hắn vội vàng cúi đầu im lặng. “ Thôi công tử có lòng hiệp nghĩa không có gì đáng chế trách cả.” Trương Hoán cười nói, nhưng sau đó nụ cười ấy là lời nói có phần lạnh lùng với Thạch Mộ Hoa: ‘ Vậy các ngươi muốn Đại Đường trợ giúp cái gì đây, có phải muốn chúng ta trợ giúp lương thực hay không” “ Không cần” Thạch Mộ Hoa qủa quyết phủ nhận: “ Người Hiệt Kiết Tư không cần trợ giúp lương thực, nếu cần lương thực chúng ta có thể di chuyển đến Tây phương nhưng chúng thần không muốn rời khỏi đất mẹ đã nuôi dưỡng người Hiệt Kiết Tư suốt mấy trăm năm qua. Chúng thần chỉ cần chiến đao, thỉnh cầu hoàng thượng có thể giúp chúng thần vũ khi và khôi giáp, chúng thần sẽ quyết một phen sinh tử với bọn người Hồi Hột, thà chết chứ không chịu thần phục chúng nữa. “ Trẫm hiểu” Trương Hoán chậm rãi gật đầu: “ Nhìn thấy sự thành tâm của các ngươi, trẫm về nguyên tắc sẽ đồng ý với thỉnh cầu đó, Nhưng chỉ có điều có đao kiếm thôi chưa đủ, nếu trong bụng đói cật rét thì làm sao các ngươi có thể sống chết với đám Hồi Hột đó, có thực mới vực được đạo chứ. Trẫm sẽ lệnh cho Toái Diệp cung cấp cho các ngươi vũ khĩ cùng lương thực. Nhưng ta hy vọng các ngươi sẽ tuân thủ những gì đã hứa: mãi mãi coi Đại Đường là cha” Thạch Mộ Hoa phủ phục trên nền ngự thư phòng khóc rống lên,nước mắt đầm đìa. Trương Hoán cũng không nói lời nào nữa, hắn chờ cho Thạch Mộ Hoa đỡ xúc động rồi nói tiếp: “ Nếu như ngươi đã hoàn thành sứ mạng mà phụ vương ngươi giao phó thì hãy ở Trường An nghỉ ngơi một chút cho khỏe lại đã. Chuyện này trẫm còn cần bạc cụ thể lại với mấy vị tướng quốc đã. Đợi đến đầu xuân sang năm ngươi hãy trở về nước, trước tiên ngươi hãy tới Toái Diệp rồi từ đó trẫm sẽ phái binh hộ tống ngươi về tới Kiên Côn” “ Thần xin khấu tạ công ơn tái sinh của hoàng thượng đối với người Hiệt Kiết Tư chúng thần” Thạch Mộ Hoa quỳ lạy, dập đầu ba lần rất thành kính. Trương Hoán liếc nhìn Thôi Viên một chút, thấy ông ta dường như muốn nói gì đó nhưng lại thôi. Hắn liền cười nói với Thôi Diệu: “ Trẫm biết ngươi muốn tham gia khoa cử, trong khi chờ đợi khoa thi sắp tới ngươi hãy cục khổ chuyến nữa hộ tống huynh muội bọn họ trở về. Nếu ngươi có thể hoàn thành sứ mệnh này thì cho dù ngươi không thi đỗ Tiến sĩ trẫm cũng sẽ đặc biệt trọng dụng ngươi” Thị vệ đưa Thạch Mộ Hoa và Thôi Diệu đi ra ngoài, trong ngự thư phòng lúc này chỉ còn có Trương Hoán và Thôi Viên, Thôi Viên bỗng nhiên thở dài nói: “ Ân đức của bệ hạ đối với thần, sợ rằng lão thần không thể báo đáp được rồi” “ Các lão không cần tạ ơn trẫm, trẫm chẳng qua là tạo cho hắn một cơ hội, sau này hắn có thể trở thành lương đống của Đại Đường hay không tất cả phụ thuộc vào tài năng và sự rèn luyện của hắn. Chỉ cần các lão hãy bảo trọng thân thể, sống khỏe mạnh là được rồi” Giọng nói của Trương Hoán đến đây dường như có một chút thương cảm đối với vị lão thần này. Thôi Viên nghe vậy cười nhạt nói: “ Sinh, lão,bệnh, tử là quy tắc của trời đất, thần cũng đã hưởng hết những phú quý của nhân gian rồi, chết cũng không còn hối tiếc gì nữa” Ông ta nói xong lại chuyển về đề tài cũ: “ Bệ hạ có từng cần nhắc việc tăng binh cho Toái Diệp hay không. Cựu thần cảm thấy một vạn quân đóng ở đó vẫn còn thiếu, chỉ có thể dùng để tự vệ, còn nếu muốn phát triển sức ảnh hướng thì không đủ” Trương Hoán chắp tay ra sau lưng, từ từ đi tới trước tấm bản đồ, hắn lại một lần nữa chăm chú nhìn thật lâu trước bản đồ Toái Diệp. Dã tâm xuôi nam của bọn người Cát La Lộc đã bộc lộ rõ ràng, thỏa thuận ngầm giữa Đại Đường và Đại Thực cũng đã bị phá vỡ. Xem ra chiến lược đối với An Tây của hắn cần phải có một bước đi quyết định nữa rồi. “ Trẫm có thể nói cho các lão biết vào đầu mùa xuân sang năm Đại Đường ta sẽ sát nhập An Tây đô hộ phủ và Bắc Đình đô hộ phủ lại làm một, lấy tên là Tân Tây Vực đô hộ phủ. Tân Tây Vực đô hộ phủ này sẽ được rời đến Toái Diệp. Đến lúc đó sẽ có bốn vạn quân đồn trú ở đây, và cũng tùy tình hình mà điều động thêm mười vạn đại quân ở Thông Lĩnh. Đầu tháng mười một năm Đại Trị thứ tư, bởi vì công việc phân chia, giao ruộng đất sắp kết thúc, nên triều đình bèn ban Phủ Binh Lệnh ra toàn quốc, Lện chỉ rõ không kể dân tộc, hễ là nam tử Đại Đường từ mười tám tuổi trở lên đều phải nghĩa vụ gia nhập Phủ Binh. Theo đó các tráng đinh này ở nguyên quán phục vụ sản xuất, đến thời chiến thì là quân nhân, thời bình thì làm người dân bình thường. Cứ mỗi tháng tất cả bọn họ đều phải tập trung huấn luyện mười lăm ngày, tất cả thiết giáp, vũ khí chiến trận, kể cả là ngựa chiến cũng do triều đình cung cấp. Những trai tráng trong Phủ Binh thì cứ bốn năm sẽ đi trong coi biên giới một năm, trong thời gian đó bên cạnh việc hưởng quân lương, thì các công việc đồng ruộng, nhà cửa sẽ do quan phủ địa phương giúp đỡ thu xếp. Đồng thời với luật Phủ Binh, triều đình còn ban bố việc chiêu mộ những trai tráng có thể chiến đấu lâu dài. Phàm là những nam tử tình nguyện đi phục vị biên cương thì ngoài đất đai hương hỏa tổ tiên, đến khi cuối đời bọn họ sẽ được cấp thêm ba mươi mẫu đất nữa theo khẩu phần. Còn nếu đến An Tây phục vụ thì tiền lương sẽ cao gấp đôi bình thường, cứ lấy một kỳ hạn phục vụ là sáu năm, hết kỳ hạn nghĩa vụ có thể trở về nguyên quán mà cuối đời có thể miễn trử Phủ Binh dịch. Bên cạnh việc thực hành Phủ Binh lệnh để huy động thanh niên nhập ngũ, triều đình cũng tập trung tinh giảm, năm mươi vạn quân Tây Lương đóng ở khắp Trung Nguyên cũng chỉ giữ lại có mười vạn tinh nhuệ nhất để bảo vệ bên ngoài kinh sư, còn lại tất cả được chuyển về các Phủ Binh ở nguyên quán quản lý. Như vậy quân chế thời kỳ này dần quay trở lại với quy đinh Phủ Binh chế thới Sơ Đường. Trên cơ sở ấy hình thành quân chế hoàn toàn mới: Phủ binh làm chủ, mộ binh là phụ.