Janice bước ra và ngồi xuống bên tôi. Nàng quàng tay qua vai tôi.
- Anh đã hết sức không làm cho anh ta đau đớn chứ?
Tôi lắc đầu tỏ ý không.
- Và anh ta muốn ra đi.
Tôi gật đầu.
- Vào nhà đi. - Nàng nói và giúp tôi đứng lên. Nàng làm tôi nghĩ đến cách John giúp tôi đứng lên sau khi chúng tôi cùng nhau cầu nguyện. - Vào nhà uống cà phê.
Tôi làm theo. Buổi sáng đầu tiên trôi qua, buổi chiều đầu tiên, rồi ca trực trở lại đầu tiên. Thời gian chiếm hữu tất cả, dù chúng ta muốn hay không muốn. Thời gian chiếm hữu tất cả, thời gian cướp đi tất cả, sau cùng chỉ còn bóng tối. Đôi khi chúng ta tìm thấy nhau trong bóng tối và đôi khi chúng ta mất họ lần nữa, cũng ở trong đó. Đây là tất cả những gì tôi biết, có điều câu chuyện này xảy ra năm 1932, khi nhà tù Tiểu bang vẫn còn ở Cold Mountain.
Cả cái ghế điện nữa, tất nhiên.
Khoảng hai giờ mười lăm phút chiều, bà bạn Elaine Connelly của tôi đến phòng sưởi nắng, nơi tôi đang ngồi, những trang tự truyện cuối cùng được xếp ngay ngắn trước mặt. Gương mặt bà tái xanh và có những vệt sáng dưới mắt. Tôi nghĩ bà ấy đã khóc.
Về phần tôi, tôi nhìn. Chỉ có thế. Nhìn ra ngoài cửa sổ, bàn tay phải phập phồng ở cổ tay. Nhưng dù sao cũng là cơn phập phồng thanh thản. Tôi cảm thấy trống rỗng, chỉ còn lớp vỏ ngoài khô khốc. Một cảm giác vừa khủng khiếp vừa tuyệt vời.
Thật khó mà đón ánh mắt của Elaine - tôi sợ sẽ thấy lòng căm ghét và sự khinh bỉ trong đó - nhưng không có. Buồn bã và ngạc nhiên, nhưng yên ổn. Không căm ghét, không khinh bỉ và không hoài nghi.
- Cô muốn xem phần còn lại không? - Tôi hỏi. Tôi vỗ vào chồng bản thảo bằng bàn tay đang đau. - Ở đây, nhưng tôi hiểu nếu cô không sớm...
- Điều em muốn không phải là vấn đề. - Bà nói. - Em phải biết câu chuyện ra sao, mặc dù sự việc anh xử tử hắn không còn là điều nghi ngờ. Sự can thiệp của Chúa với một chữ hoa C được đề cao quá lố trong cuộc sống của người phàm, em nghĩ thế. Nhưng trước khi đọc những trang này... Paul...
Bà ấy dừng lại, như thể không biết chắc nên nói tiếp như thế nào. Tôi chờ đợi. Đôi khi bạn không thể giúp người khác. Thậm chí đừng cố giúp còn tốt hơn.
- Paul, anh viết trong đây như thể anh có hai con lớn vào năm 1932 - không chỉ một, mà hai đứa. Nếu không phải anh đã kết hôn với Janice của anh khi lên mười hai và chị ấy mười một tuổi, đại khái như vậy, thì...
Tôi khẽ mỉm cười.
- Chúng tôi còn trẻ khi lấy nhau - nhiều người dân vùng đồi núi đều thế, cả mẹ tôi nữa - nhưng không trẻ đến mức đó.
- Vậy thì anh bao nhiêu tuổi? Em luôn luôn cho rằng anh trạc tám mươi, bằng tuổi em, thậm chí có thể trẻ hơn một chút, nhưng theo tập truyện này...
- Tôi được bốn mươi tuổi vào năm John bước trên Dặm Đường Xanh. - Tôi trả lời. - Tôi sinh năm 1892. Như thế tôi được một trăm lẻ bốn tuổi, trừ khi tôi tính sai.
Elaine trố mắt nhìn tôi, không nói nên lời.
Tôi đưa ra phần bản thảo còn lại, nhớ đến cách mà John đã chạm vào người tôi trong xà lim. Anh sẽ không nổ tung, gã nói, khẽ mỉm cười trước ý tưởng đó, và tôi thì không... Nhưng rốt cuộc điều gì đó đã xảy ra cho tôi. Điều gì đó lâu dài.
- Cô hãy đọc phần còn lại. - Tôi nói. - Những câu trả lời mà tôi biết có cả trong đấy.
- Tốt lắm. - Bà thầm thì. - Em hơi sợ, em không thể nói dối về điều đó, nhưng... thôi được. Anh sẽ ở đâu?
Tôi đứng lên, vươn vai, lắng nghe tiếng cột sống lách cách trên lưng. Một điều tôi biết chắc là cảm giác chán chường đến chết với căn phòng sưởi nắng.
- Ra ngoài sân bóng croquet đi. Vẫn còn có thứ tôi muốn cho cô xem, ở đằng kia.
- Nó... ghê không? - Trong dáng vẻ bẽn lẽn của bà tôi nhìn thấy bà thời con gái, khi đàn ông đội nón rơm vào mùa hè và khoác áo lông gấu chuột vào mùa đông.
- Không. - Tôi mỉm cười đáp lại. - Không ghê.
- Được rồi. - Bà cầm lấy những trang giấy. - Em đem những thứ này xuống phòng em đã. Gặp lại anh ngoài sân bóng... - Bà lật nhanh bản thảo, đánh giá. - Bốn tờ sao? Đúng vậy không?
- Hoàn toàn. - Tôi trả lời, nghĩ đến gã quá đỗi tò mò Brad Dolan. Đến lúc ấy hẳn là gã đã đi khỏi.
Bà đưa tay ra véo tôi một cái rồi ra khỏi phòng. Tôi đứng tại chỗ một lúc, nhìn xuống bàn, ghi nhận sự thật rằng cái bàn lại trống trải một lần nữa, ngoại trừ khay điểm tâm mà Elaine đã đem cho tôi sáng hôm ấy, những trang viết rải rác của tôi sau cùng đã ra đi. Cách nào đó tôi không thể tin mình đã xong xuôi... và như bạn thấy đấy, vì tất cả đã được viết sau khi tôi ghi lại cuộc hành hình John Coffey và giao mớ trang giấy cuối cùng cho Elaine, tôi vẫn chưa xong. Và ngay cả vào lúc đó, một phần bản thân tôi biết tại sao.
Alabama.
Tôi nhón lấy khoanh bánh mì nướng cuối cùng trên khay, đi xuống cầu thang và ra ngoài sân bóng croquet. Ở đấy tôi ngồi dưới ánh nắng, ngắm nhìn một số cặp bạn già và một nhóm bốn người, chậm chạp nhưng vui nhộn đi qua, tay vung vẩy gậy đánh bóng, suy ngẫm những ý tưởng của một ông già và mặc cho ánh nắng sưởi ấm bộ xương già nua của tôi.
Khoảng hai giờ bốn mươi lăm phút, ca làm việc từ ba đến bảy giờ chậm rãi bắt đầu ở bãi để xe và đến ba giờ thì những nhân viên ca ngày đã ra về. Phần lớn đi theo nhóm nhưng tôi thấy Brad Dolan đi một mình. Một hình ảnh vui vẻ; xét cho cùng, có lẽ thế giới chưa hoàn toàn sụp đổ xuống địa ngục. Một trong những quyển truyện cười của hắn thò ra khỏi túi quần sau. Lối đi đến bãi để xe vắt ngang qua sân bóng nên hắn nhìn thấy tôi, nhưng hắn không vẫy tay cũng không nhăn nhó. Với tôi thế là tốt. Hắn chui vào chiếc xe Chevrolet cũ có dán hàng chữ: Tôi Đã Thấy Chúa Và Tên Ông Ấy Là Newt. Rồi hắn lên đường đến bất cứ nơi nào hắn đi khi không hiện diện ở đây, rải ra sau lưng hắn một vệt dài nhớt máy loại giảm giá.
Đến khoảng bốn giờ, Elaine nhập bọn với tôi như bà ấy đã hứa. Ánh mắt bà cho thấy bà đã khóc thêm một chút. Bà quàng tay quanh người tôi, siết chặt.
- John Coffey tội nghiệp. - Bà nói. - Và Paul Edgecombe cũng tội nghiệp nữa.
Paul tội nghiệp, tôi nghe giọng Janice. Chàng thân yêu tội nghiệp.
Elaine lại bật khóc. Tôi ôm bà, ở đó trên sân bóng croquet dưới ánh nắng xế chiều. Bóng chúng tôi nhìn như thể đang nhảy múa. Có lẽ đang ở trong phòng Dạ Vũ Tưởng Tượng như chúng tôi thường nghe trên radio vào thời đó.
Sau cùng bà đứng lên trong sự kiềm chế, lui ra khỏi vòng tay tôi. Bà tìm một mẩu giấy Kleenex trong túi áo và lau nước mắt.
- Paul, chuyện gì xảy ra cho vợ ông Giám thị? Chuyện gì xảy ra với Melly?
- Bà ấy được xem là điều thần kì của thời đại, ít nhất là đối với các bác sĩ của Bệnh viện Indianola. - Tôi trả lời. Tôi nắm tay bà và chúng tôi bắt đầu bước đến lối đi ra khỏi bãi để xe của nhân viên, vào trong rừng, về phía chái nhà bên cạnh bức tường giữa Georgia Pines và thế giới của những người trẻ.
- Bà ấy chết - vì đau tim, không phải vì u não - sau mười hay mười một năm. Tôi nghĩ vào năm 43. Hal chết vì đột quỵ vào khoảng ngày tấn công Trân Châu cảng - có thể đúng vào ngày Trân Châu cảng, theo như tôi nhớ, như vậy bà ấy thọ hơn chồng hai năm. Khá mỉa mai.
- Còn Janice?
- Hôm nay tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho chuyện đó. - Tôi trả lời. - Tồi sẽ kể cho cô nghe vào dịp khác.
- Anh hứa chứ?
- Hứa. - Nhưng đấy là một lời hứa mà tôi không bao giờ làm tròn. Ba tháng sau ngày chúng tôi cùng vào rừng (lẽ ra tôi đã nắm tay bà nếu không phải vì sợ làm đau những ngón tay co rúm và sưng tấy), Elaine Connelly lặng lẽ chết trên giường. Cũng như Melinda Moores, cái chết là kết quả của một cơn đau tim. Người hộ lí phát hiện ra bà kể rằng nét mặt bà bình an, như thể tử thần đến bất ngờ và không đau đớn nhiều. Tôi hi vọng anh ta nói đúng. Tôi yêu Elaine. Và tôi nhớ bà ấy. Bà ấy và Janice và Brutal và tất cả bọn họ.
Chúng tôi đến chái nhà thứ hai trên lối mòn, cái bên cạnh tường. Nó đứng lùi lại phía sau trong một bụi thông, mái nhà xệ và cửa sổ đóng ván đan xen và lốm đốm vào những chiếc bóng. Tôi dợm bước về phía nó. Elaine nấn ná một thoáng, vẻ sợ hãi.
- Không sao. - Tôi trấn an. - Thật mà. Vào đi.
Cửa không có chốt - đã từng có nhưng bị giật văng ra - vì thế tôi dùng một mảnh bìa cứng gập đôi để chặn lại. Tôi rút mảnh bìa cứng ra, bước vào trong chái nhà. Tôi bỏ mặc cho cánh cửa mở rộng tùy ý vì bên trong tối đen.
- Paul, cái gì?... Ồ. Ồ! - Tiếng “ồ” thứ hai thiếu chút nữa trở thành tiếng hét.
Một cái bàn đã được đẩy sang bên. Trên bàn là một đèn pin và một túi giấy nâu. Trên sàn nhà có một hộp xì gà hiệu Hava-Tampa mà tôi đã lấy được của nhà thầu nước ngọt và máy bán kẹo cho viện dưỡng lão. Tôi đã yêu cầu anh ta đưa thứ đặc biệt và vì công ty cũng bán các sản phẩm thuốc hút nên anh ta dễ dàng tìm được. Tôi đề nghị trả tiền - chúng là những tiện nghi giá trị khi tôi còn làm việc ở Cold Mountain, như đã kể cho bạn nghe - nhưng anh ta chỉ cười xòa.
Trố mắt nhìn qua thành hộp là một cặp mắt hạt thị sáng rỡ.
- Ông Jingles. - Tôi thấp giọng giới thiệu. - Lại đây. Lại đây gặp quý bà, anh bạn.
Tôi ngồi xổm xuống - đau đớn, nhưng cố nén - và chìa tay ra. Thoạt tiên tôi nghĩ lần này nó không vượt qua nổi thành hộp, nhưng con chuột làm được với cú nhảy cuối cùng. Nó lật nghiêng một bên rồi đứng dậy và chạy đến với tôi. Một chân sau tập tễnh, vết thương do Percy gây ra đã tái phát khi ông Jingles già đi. Tuổi già, già nua. Ngoại trừ phần trên đầu và chóp đuôi thì bộ lông của nó đã hoàn toàn hóa xám.
Con chuột nhảy lên lòng bàn tay tôi. Tôi nhấc tay lên và nó vươn cổ ra, ngửi hơi thở của tôi, tai quặp ra sau, cặp mắt nhỏ khao khát. Tôi chìa tay về phía Elaine, bà đang nhìn con chuột với đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên, miệng hé mở.
- Không thể được. - Bà thốt lên và nhướng mắt nhìn tôi. - Ôi Paul, không phải là... không thể được!
- Xem đi. - Tôi đáp. - Rồi hãy nói thế.
Từ cái túi trên bàn tôi lấy ra một ống chỉ mà tôi tự tô màu - không phải với bút chì hiệu Crayola mà Magic Markers, một phát minh nằm mơ cũng không thấy vào năm 1932. Thế nhưng cái ống chỉ vẫn đẹp. Sáng loáng như cái của Del, có lẽ hơn nữa. Thưa quý ông quý bà, tôi nghĩ. Xin chào mừng quý vị đến với gánh xiếc chuột!
Tôi lại ngồi xổm xuống và ông Jingles chạy ra khỏi lòng bàn tay tôi. Nó đã già nhưng vẫn say mê như bao giờ. Từ lúc tôi lấy ống chỉ ra khỏi túi, nó không còn để ý đến bất cứ thứ gì khác. Tôi lăn ống chỉ qua sàn nhà nứt nẻ, không bằng phẳng, và nó lập tức đuổi theo. Nó không chạy với tốc độ cũ nữa và thật đau lòng khi nhìn nó tập tễnh, nhưng tại sao lại phải chạy nhanh hoặc vững vàng? Như tôi đã nói, con chuột đã già, một con chuột Bành Tổ. Ít nhất là sáu mươi tư tuổi.
Nó đuổi kịp cái ống chỉ, vốn đập vào bức tường bên kia rồi nẩy ngược lại. Con chuột đi vòng qua, rồi nằm xuống bên cạnh ống chỉ. Elaine dợm bước đến nhưng tôi ngăn bà lại. Sau một khoảnh khắc, ông Jingles đứng lên được. Một cách chậm chạp, rất chậm chạp, nó dùng mũi đẩy cái ống chỉ trở lại chỗ tôi ngồi. Lần đầu tiên khi đến đây - tôi phát hiện ra nó đang nằm trên bậc thềm dẫn đến nhà bếp theo tư thế đó, như thể đã di chuyển một quãng đường xa và kiệt sức - nó vẫn còn đủ sức điều khiển ống chỉ bằng chân trước, như nó đã làm những năm tháng trước kia trên Dặm Đường Xanh. Nhưng cái mũi thì vẫn điêu luyện như trước kia. Nó chỉ phải di chuyển từ đầu ống này sang đầu kia để giữ đúng lộ trình. Khi đến chỗ tôi, tôi nhặt nó lên bằng một tay - con chuột nặng không hơn một cái lông chim - và tay kia nhặt ống chỉ. Đôi mắt sáng của nó không hề rời khỏi cái ống chỉ.
- Paul, đừng làm lần nữa, Paul. - Elaine thổn thức nói. - Nhìn nó diễn trò em không chịu đựng nổi.
Tôi hiểu cảm xúc của bà ấy nhưng nghĩ là sai khi yêu cầu tôi điều đó. Con chuột thích rượt đuổi và lấy ống chỉ về; sau bao nhiêu năm, nó vẫn còn ưa thích như thế. Tất cả chúng ta nên cảm thấy may mắn trong niềm đam mê của mình.
- Trong túi cũng có kẹo bạc hà. - Tôi nói. - Kẹo bạc hà Canada. Tôi nghĩ nó vẫn thích - nó sẽ hít ngửi không ngừng nếu tôi đưa cho nó một cục - nhưng hệ tiêu hóa của nó quá tệ, không ăn được. Thay vào đó, tôi đem đến bánh mì nướng.
Tôi lại ngồi xổm xuống, bẻ một mẩu bánh nhỏ mà tôi mang theo từ phòng sưởi nắng, đặt xuống sàn nhà. ông Jingles hít ngửi mẩu bánh, rồi nhặt lên và bắt đầu ăn. Đuôi con chuột gọn gàng cuộn quanh người. Nó thanh toán xong mẩu bánh rồi ngước nhìn, vẻ chờ đợi.
- Đôi khi bọn già chúng tôi có thể làm cô ngạc nhiên trước tính háu ăn của chúng tôi. - Tôi nói với Elaine và đưa bánh cho bà. - Cô thử xem.
Bà ấy bẻ một mẩu bánh khác và bỏ lên sàn nhà. Ông Jingles tiến lại gần, hít ngửi, nhìn Elaine... rồi nhặt lên và bắt đầu thưởng thức.
- Cô thấy chưa? - Tôi nói. - Nó biết cô không phải là một lính gác theo thời vụ.
- Paul, nó từ đâu đến?
- Không có manh mối. Một hôm vào sáng sớm, tôi ra ngoài đi dạo thì nó đã ở đây, nằm trên bậc thềm nhà bếp. Tôi biết ngay nó là ai nhưng vẫn lấy một ống chỉ từ giỏ đột xuất trong phòng giặt để thử cho chắc. Và tôi lấy cho nó một hộp xì gà, lót bằng thứ vải mềm nhất tôi tìm được. Nó cũng như chúng ta, Ellie ạ, tôi nghĩ thế - phần lớn ngày tháng chỉ chết cứng ở một nơi chốn buồn phiền. Nhưng nó chưa mất tất cả lòng ham sống. Nó vẫn còn thích cái ống chỉ và một cuộc thăm viếng của anh bạn già Khu E. Sáu mươi năm tôi giữ kín câu chuyện về John Coffey trong lòng, sáu mươi hoặc hơn và bây giờ tôi đã kể. Để tôi biết mình cần gấp rút và làm điều đó trong khi còn kịp. Vì tôi cũng như nó - đang đến nơi ấy.
- Đến đâu?
- Ổ, cô biết mà. - Tôi trả lời và chúng tôi ngắm nhìn ông Jingles một lúc trong yên lặng. Rồi không vì lí do gì để có thể kể cho bạn nghe, tôi lại ném ống chỉ ra, mặc dù Elaine đã yêu cầu tôi không làm. Về mặt nào đó, có lẽ chỉ vì chuyện con chuột rượt đuổi một ống chỉ giống như người già có phiên bản ân ái chậm rãi và cẩn thận của họ - có thể bạn không muốn xem chuyện đó, bạn vốn còn trẻ và tin rằng khi bước vào tuổi xế chiều, một ngoại lệ sẽ được tạo ra trong trường hợp của bạn, nhưng họ vẫn còn muốn ân ái.
Ông Jingles đuổi theo ống chỉ lần nữa, rõ ràng là đau đớn, và cũng rõ ràng (ít nhất đối với tôi) bằng tất cả lòng vui thích mê đắm ngày xưa.
- Cửa sổ Isinglass. - Elaine thì thào, nhìn con chuột đang chạy.
- Cửa sổ Isinglass. - Tôi đồng ý và mỉm cười.
- John Coffey chạm vào con chuột theo cách anh ta chạm vào anh. Anh ta không chỉ làm cho anh tốt lên so với những điều tồi tệ mắc phải lúc ấy, anh ta còn khiến cho anh... gì nào, đề kháng?
- Tôi nghĩ nói thế là hay.
- Đề kháng với những gì rốt cuộc sẽ đốn gục tất cả chúng ta như cây cối bị mối mọt. Anh... và nó. Ông Jingles. Khi anh ta khép ông Jingles trong bàn tay.
- Đúng. Sức mạnh nào đó chảy trong người John đã làm được - dù sao tôi nghĩ như vậy - và bây giờ nó đang tàn lụi. Những con mối đã gặm thủng vỏ cây. Tốn nhiều thời gian hơn bình thường nhưng rồi chúng cũng đến. Có thể tôi sống thêm được vài năm, tôi đoán người vẫn sống lâu hơn chuột nhưng thời gian của ông Jingles đã cạn.
Con chuột chạy đến cái ống chỉ, khập khễnh chạy quanh, ngã vật sang bên thở hào hển (chúng tôi thấy sự hô hấp của nó qua bộ lông xám nhấp nhô như làn sóng), rồi nó đứng lên và bắt đầu liều lĩnh đẩy nó trở lại bằng mũi. Lông nó màu xám, dáng đi không vững nhưng cặp mắt hạt thị ngời sáng như bao giờ.
- Anh nghĩ nó muốn anh viết những gì anh đã viết. - Bà nói. - Phải thế không, Paul?
- Không phải ông Jingles. - Tôi trả lời. - Không phải con chuột nhưng thứ sức mạnh vốn...
- Sao, Paulie! Cả Elaine Connelly nữa kia! - Một giọng nói oang oang phát ra từ chỗ cửa mở. Giọng nói chất chứa nỗi kinh hãi đầy mỉa mai. - Như tôi đang thở và sống vậy! Mấy người làm trò gì ở đây vậy?
Tôi quay lại, không ngạc nhiên chút nào khi thấy Brad Dolan đứng ở bậc cửa. Hắn đang nhăn nhở cười theo kiểu thích thú vì đã lừa được bạn một vố đau. Hắn đã đi bao xa sau khi hết ca làm việc? Có lẽ chỉ bằng gã cao bồi, đủ uống một hai chai bia và nhảy một bản trước khi quay lại.
- Ra ngoài. - Elaine lạnh lùng nói. - Ra ngoài ngay.
- Bà dám bảo tôi ra ngoài sao, mụ chó cái già khọm nhăn nheo? - Hắn đốp chát. - Có thể bảo tôi lên đồi nhưng lúc này mụ không phải ở trên đồi. Chỗ này không phải là nơi mấy người được vào. Ngoài giới hạn. Tổ ấm uyên ương há, Paulie? Là chuyện của ông ở đây phải không? Một thứ đệm Playboy cho bọn già... - Mắt hắn mở to khi rốt cuộc hắn nhìn thấy vị khách trọ của chái nhà. - Cái chó gì thế?
Tôi không quay lại nhìn. Một, tôi biết là cái gì ở đó; hai là quá khứ đã bất ngờ trùm lên hiện tại, tạo ra một ảnh ba chiều, khủng khiếp trong tính hiện thực của nó. Không phải Brad Dolan đứng đó mà là Percy Wetmore. Một khoảnh khắc sau hắn sẽ xông vào và nghiền nát ông Jingles (kẻ không còn hi vọng chạy nhanh hơn hắn) dưới gót giày. Và lần này không có John Coffey để đưa nó từ bờ vực cái chết trở về. Cũng như không có một John Coffey khi tôi cần gã vào ngày mưa ấy ở Alabama.
Tôi đứng lên, lần này không còn thấy đau ở khớp xương hoặc bắp thịt nữa, xông về phía Dolan.
- Để nó yên! - Tôi hét to. - Cậu để nó yên, Percy, nếu không thề có Chúa, tôi sẽ...
- Ông gọi ai là Percy? - Hắn hỏi và xô mạnh đến mức tôi suýt ngã. Elaine chụp lấy tôi, mặc dù làm như thế bà ấy sẽ bị đau, và kiềm tôi đứng vững lại. - Không phải đây là lần đầu ông nói thế. Nín tè trong quần đi. Tôi không đụng đến nó đâu. Không cần. Chỉ là một con gặm nhấm đã chết ngoẻo.
Tôi quay lại, trong lòng nghĩ ông Jingles chỉ nằm nghiêng để lấy lại hơi thở, theo cách mà thỉnh thoảng nó làm. Con chuột nằm nghiêng, đúng vậy, nhưng chuyển động nhấp nhô qua bộ lông đã ngừng. Tôi cố tin rằng mình vẫn còn nhìn thấy, và rồi Elaine òa khóc. Bà đau đớn cúi xuống, nhặt con chuột tôi đã gặp lần đầu trên Dặm Đường Xanh, con chuột đã chạy đến bàn trực mà không sợ sệt, như một con người đến gần những kẻ đồng đẳng... hoặc bạn bè của anh ta. Nó nằm lịm trên tay bà. Cặp mắt mờ đục và bất động. Cậu bé đã chết.
Dolan toét miệng cười khó chịu, phô ra hàm răng vốn có rất ít quan hệ với nha sĩ.
- Ôi trời, thế đấy! - Hắn lải nhải. - Chúng ta vừa mất con vật cưng của gia đình ư? Có nên tổ chức tang lễ nho nhỏ có hoa giấy và...
- Câm miệng! - Elaine gào vào mặt hắn, sang sảng và mạnh mẽ đến nỗi hắn lùi lại một bước, nụ cười tuột khỏi bộ mặt. - Cút Ra Khỏi Đây! Cút Ra, Hoặc Mi Sẽ Không Được Làm Việc Thêm Một Ngày Nữa! Một Giờ Nữa Cũng Không! Ta Thề Đấy!
- Chú em sẽ không có nổi một khoanh bánh mì cứu trợ. - Tôi nói nhưng rất khẽ nên cả hai đều không nghe. Tôi không thể rời mắt khỏi ông Jingles đang nằm trên tay Elaine, như một tấm thảm da gấu nhỏ nhất thế giới.
Brad có ý định ăn miếng trả miếng với bà ấy, mắng bà là bịp bợm - hắn nói đúng, chái nhà không hẳn là lãnh thổ được chấp thuận dành cho những người dưỡng lão ở Georgia Pines, thậm chí tôi cũng biết điều đó - rồi lại thôi. Hắn, về bản chất là một thằng hèn như Percy. Có lẽ hắn đã kiểm chứng lời tuyên bố của Elaine rằng cháu nội bà là Một Nhân Vật Quan Trọng Nào Đó và phát hiện lời tuyên bố là sự thật. Một phần lớn, có lẽ vì thói tò mò đã được thỏa mãn, cơn khát nước đã lắng xuống. Và sau tất cả những thắc mắc của hắn, điều bí mật hóa ra chẳng có gì nhiều nhặn. Con chuột cưng của một ông già đã sống trong chái nhà. Bây giờ nó đã ngủm vì lên cơn đau tim hay gì đó trong khi đang lăn một cái ống chỉ đủ màu.
- Không hiểu tại sao mấy người đổ quạu. - Hắn nói. - Cả hai người. Mấy người làm như nó là chó hay gì đó.
- Ra ngoài. - Elaine khinh bỉ. - Ra ngoài, đồ ngu. Bộ não nhỏ bé của mi quả là xấu xa và lầm lạc.
Mặt hắn bừng đỏ, những vết tàn nhang thời Trung học đỏ bầm hơn nữa. Nhìn thoáng qua thấy rất nhiều.
- Tôi sẽ đi. - Hắn đáp lại. - Nhưng ngày mai khi mấy người đến đây... Paulie... ông sẽ thấy cửa có ổ khóa mới. Chỗ này cấm người ở nội trú, mặc xác mụ già Chất Thải Của Tôi Không Thối kia muốn nói xấu tôi cứ nói. Nhìn sàn nhà coi! Ván sàn đã long ra và mục ruỗng! Nếu mấy người đi ngang, cẳng chân ốm tong của mấy người có khả năng gãy gập như củi nhúm lửa. Vậy thì cứ lấy con chuột đi nếu mấy người muốn, rồi biến. Tổ Uyên Ương từ nay đóng cửa.
Hắn quay đi và sải bước, dáng vẻ như một con người tự tin rằng ít nhất hắn cũng xứng đáng được chú ý. Tôi chờ hắn đi khuất, rồi nhẹ nhàng lấy con chuột ra khỏi tay Elaine. Ánh mắt tôi tình cờ nhìn thấy cái túi có kẹo bạc hà bên trong và gây hậu quả - nước mắt bắt đầu ứa ra. Tôi không biết, dạo này không hiểu sao tôi dễ khóc hơn.
- Cô giúp tôi chôn cất anh bạn cũ chứ? - Tôi đề nghị với Elaine khi tiếng chân nặng nề của Brad Dolan đã mờ dần.
- Vâng. - Bà quàng tay quanh hông và ngả đầu vào vai tôi. Bằng một ngón tay già nua và cong queo, bà vuốt ve mạn sườn bất động của ông Jingles. - Em rất vui được làm điều đó.
Vậy là chúng tôi mượn một cái xẻng từ nhà kho làm vườn, chôn cất con chuột của Del trong lúc bóng chiều ngả dài qua những lùm cây, rồi chúng tôi quay về nhận bữa ăn tối và chấp nhận những gì còn lại của cuộc sống. Tôi thấy mình đang nghĩ ngợi về Del, Del đang quỳ trên tấm thảm xanh trong văn phòng của tôi, tay chắp lại và chỏm đầu hói lấp lánh dưới ánh đèn; Del, kẻ đã yêu cầu chúng tôi chăm sóc ông Jingles, bảo đảm không để cho kẻ xấu xa làm hại nó lần nữa. Ngoại trừ việc kẻ xấu xa sau cùng đã làm hại tất cả chúng ta, phải không?
- Paul? - Elaine hỏi. Giọng bà vừa ân cần vừa kiệt sức. Thậm chí việc đào huyệt bằng xẻng và hạ huyệt một con chuột cũng đem lại nhiều khích động cho những cặp tình nhân già như chúng tôi, tôi nghĩ vậy. - Anh không sao chứ?
Tay tôi quàng qua eo bà, siết nhẹ.
- Tôi khỏe. - Tôi trả lời.
- Nghe này. - Bà nói. - Sẽ có một buổi hoàng hôn đẹp. Chúng ta ở ngoài trời để thưởng thức chứ?
- Được. - Tôi đáp và chúng tôi ở lại trên bãi cỏ, quàng tay ôm eo nhau, thoạt đầu ngắm những màu sắc rực rỡ xuất hiện trên nền trời, rồi ngắm chúng phai dần sang màu tro xám.
Hỡi Nữ thánh Marie, Mẹ của Chúa Trời, xin hãy cầu nguyện cho chúng con, những ngư dân nghèo, bây giờ và vào giây phút lâm chung.
Amen.
58.
1956. Alabama trong mưa.
Cháu nội thứ ba của chúng tôi, một cô gái xinh đẹp tên Tessa sắp tốt nghiệp Đại học Florida. Chúng tôi đáp chuyến xe Greyhound. Lúc ấy tôi sáu mươi tư tuổi, chỉ vừa thanh niên. Jan được năm mươi chín, vẫn xinh đẹp như bao giờ. ít nhất là đối với tôi. Chúng tôi ngồi băng ghế sau suốt lộ trình, và nàng cằn nhằn tôi vì không mua cho nàng máy chụp ảnh mới để ghi lại hình ảnh sự kiện hạnh phúc. Tôi há miệng bảo nàng rằng chúng tôi có cả một ngày để mua sắm sau khi đến, rằng nàng có thể mua máy ảnh mới nếu nàng muốn, ngân sách đủ cung ứng; hơn nữa tôi nghĩ nàng cằn nhằn chỉ vì buồn chán chuyến đi và không thích quyển sách nàng đem theo. Một quyển Perry Mason. Đấy là khi mọi thứ trong kí ức tôi xóa trắng đi một chút, giống như cuộn phim bị bỏ dưới ánh mặt trời.
Bạn còn nhớ tai nạn đó không? Tôi cho là một ít có thể vì đã đọc nhưng phần lớn thì không. Tuy nhiên nó đã nổi đình nổi đám trên hàng đầu trang nhất từ bờ đại dương này sang bờ đại dương kia khi xảy ra. Chúng tôi đang ở bên ngoài thành phố Birmingham dưới cơn mưa tầm tã, Janice đang than phiền về cái máy ảnh cũ thì một bánh xe nổ. Chiếc xe buýt loạng choạng sang một bên trên lề đường ướt nước và bị một xe tải chở phân bón húc vào hông. Xe tải tống xe buýt đập vào trụ cầu với vận tốc hơn sáu mươi dặm một giờ, nghiền nát nó trên nền bê tông và bẻ gãy làm hai. Hai nửa xe buýt sáng loáng, ướt nước mưa xoắn theo hai hướng đối nghịch, nửa có bồn dầu diesel nổ tung, bắn tung một quả cầu lửa màu đỏ đen lên nền trời xám xịt của một ngày mưa. Một phút trước Janice còn đang cằn nhằn về chiếc máy ảnh Kodak cũ của nàng, phút tiếp theo tôi thấy mình đang nằm ở góc kia của đường hầm dưới trận mưa, trố mắt nhìn một cái quần lót bằng nylon của phụ nữ văng ra từ vali của người nào đó. Trên quần thêu chữ Wednesday bằng chỉ đen. Vali sổ tung tóe khắp nơi. Và những xác chết. Và những phần thân thể của xác chết. Có bảy mươi ba hành khách trên chuyến xe buýt đó, và chỉ có bốn người thoát nạn. Tôi là một trong số họ, kẻ duy nhất không bị thương nghiêm trọng.
Tôi đứng dậy và lảo đảo bước đi giữa những chiếc vali sổ tung và xác người vương vãi, khóc gọi tên vợ tôi. Tôi nhớ đã đá văng một cái đồng hồ báo thức sang bên và tôi nhớ có thấy một bé trai khoảng mười ba tuổi đã chết, nằm trên một đống rải rác thủy tinh vỡ, với đồ chơi máy bay P.F. Flyers ở dưới chân và nửa gương mặt đã biến mất. Tôi cảm thấy mưa vỗ vào mặt, rồi tôi đi qua đường hầm và tránh được một lúc. Ra khỏi đầu kia đường hầm mưa lại xuất hiện, đập vào má và trán tôi. Tôi thấy Jan nằm bên buồng lái vỡ nát của chiếc xe tải chỗ phân bón bị lật nghiêng. Tôi nhận ra nàng nhờ chiếc áo đỏ - chiếc áo đẹp hạng nhì của nàng. Bộ áo đẹp nhất đương nhiên nàng để dành cho buổi lễ tốt nghiệp thực sự.
Jan chưa chết hẳn. Tôi thường nghĩ sẽ tốt hơn - cho tôi, nếu không phải cho nàng - nếu nàng chết ngay. Có lẽ như thế sẽ khiến tôi để nàng ra đi được sớm hơn một chút, tự nhiên hơn một chút. Hoặc có lẽ tôi chỉ tự lừa dối mình về điều đó. Tôi chỉ biết chắc rằng tôi đã không bao giờ để nàng ra đi, không thật sự.
Toàn thân nàng run rẩy. Một chiếc giày đã tuột ra và tôi thấy bàn chân nàng co giật. Mắt nàng mở nhưng vô hồn, mắt trái đầy máu, và khi quỳ xuống bên nàng dưới trận mưa ám mùi khói, tất cả những gì tôi nghĩ được là cú giật đó có nghĩa nàng đang bị xử tử bằng ghế điện, nàng đang bị xử tử bằng ghế điện và tôi phải giữ cầu dao điện trước khi quá muộn.
- Giúp tôi! - Tôi gào lên. - Hãy giúp tôi, ai đó giúp tôi!
Không ai giúp, thậm chí không ai đến. Mưa giáng xuống kịch liệt - một trận mưa lớn, ướt sũng đã dán sát mái tóc còn đen của tôi vào đầu - và tôi ôm nàng trong tay nhưng không có ai đến. Đôi mắt vô hồn của nàng ngước nhìn tôi với một vẻ chăm chú sững sờ, máu tuôn ra thành dòng từ phía sau cái đầu bị nghiền nát. Bên cạnh một bàn tay run rẩy, co thắt vô thức là một mảnh thép pha crôm, có in chữ GREY bên trên. Kế đó là chưa đầy một phần tư của thứ trước kia từng là một doanh nhân trong bộ y phục bằng len nâu.
[Chúc các bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách]
- Giúp tôi với! - Tôi gào lên lần nữa và quay về phía đường hầm, ở đấy tôi thấy John Coffey đang đứng trong bóng tối, có điều chỉ là bóng hình của chính gã, một con người to lớn với đôi tay dài đong đưa và một cái đầu hói. - John! - Tôi gào to. - Ôi John, làm ơn giúp tôi! Làm ơn giúp Janice!
Nước mưa chảy vào mắt tôi. Tôi nheo mắt gạt ra và gã biến mất. Tôi có thể thấy mình đã lầm những cái bóng với John... nhưng không chỉ là những cái bóng. Tôi đoan chắc như thế. Gã đã ở đó. Có lẽ chỉ như một bóng ma nhưng gã đã ở đó, nước mưa rơi trên mặt hòa lẫn vào nước mắt.
Nàng chết trên tay tôi, ở đấy dưới cơn mưa, bên cạnh chiếc xe tải chở phân bón bốc mùi dầu diesel cháy khét, xộc vào mũi tôi. Không có lấy một thoáng ý thức - mắt trong lại, làn môi mấp máy thầm thì lời tỏ tình cuối cùng. Có một thứ nghiến chặt run rẩy trong làn da thịt bên dưới tay tôi, rồi nàng ra đi. Lúc ấy tôi nghĩ đến Melinda Moores lần đầu tiên trong nhiều năm, Melinda đang ngồi dậy trên giường, nơi tất cả các bác sĩ ở Bệnh viện Indianola vốn tin rằng bà sẽ chết; Melinda Moores với dáng vẻ tươi tắn, thanh thản nhìn John Coffey với đôi mắt sáng, đầy ngạc nhiên. Melinda đang nói: “Tôi thấy anh lang thang trong bóng tối và tôi cũng thế. Chúng ta tìm thấy nhau.”
Tôi đặt cái đầu xác xơ tội nghiệp của Janice xuống vỉa hè ướt sũng của tuyến xa lộ xuyên bang, đứng dậy (điều này dễ hiểu; tôi bị rạch một vết trên cạnh bàn tay trái nhưng chỉ thế) và gào thét tên gã vào trong những bóng tối của đường hầm.
- John! John Coffey! Anh ở đâu, bự con?
Tôi bước về phía những cái bóng, đá một con gấu bông dính máu trên lông sang bên, cặp kính gọng sắt vỡ một mắt, một bàn tay đứt lìa đeo nhẫn mặt ngọc garnet trên ngón út.
- Anh đã cứu sống vợ Hal tại sao vợ tôi lại không? Tại sao không là Janice? Tại sao Janice của tôi không được?
Không có câu trả lời, chỉ có mùi dầu diesel và mùi xác chết đang cháy, chỉ có mưa từ bầu trời xám ngoét rơi xuống không ngừng, nện lên nền xi măng trong khi vợ tôi nằm chết trên con đường sau lưng tôi. Lúc ấy không có câu trả lời và bây giờ cũng không. Nhưng dĩ nhiên không chỉ một mình Melly Moores được John Coffey cứu sống vào năm 1932, hoặc con chuột của Del, kẻ đã diễn trò tinh xảo với cái ống chỉ và dường như đã tìm kiếm Del từ lâu trước khi gã xuất hiện... rất lâu trước khi John Coffey xuất hiện.
John cùng đã cứu vớt tôi. Nhiều năm sau, khi đứng dưới cơn mưa xôi xả ở Alabama và tìm kiếm một con người không hiện diện trong bóng tối đường hầm, đứng giữa đống hành lí ngổn ngang và người chết bị hủy hoại, tôi đã học được một điều kinh khủng: đôi khi tuyệt đối không có sự khác biệt giữa được cứu rỗi và bị nguyền rủa.
Tôi cảm thấy một hoặc hai sự dâng trào qua người khi chúng tôi cùng ngồi trên sạp của gã - ngày mười tám, mười chín và hai mươi ba tháng mười một. Dâng ra khỏi gã và trào vào tôi, thứ quyền năng kì lạ nào đó gã mang trong người đã xuyên qua đôi bàn tay chúng tôi đan vào nhau, theo cách mà tình yêu, hi vọng và ý tốt của chúng ta không bao giờ làm nổi, một cảm giác khởi đầu. Những cơn đau bệnh đã cướp đi bạn bè và những người thương yêu cùng thế hệ cho đến khi không còn lại người nào - đột quỵ, ung thư, lên cơn đau tim, các thứ bệnh gan, bệnh máu - chúng để yên không động chạm đến tôi, chúng tránh tôi như một tài xế lách xe để tránh một con nai hoặc con gấu chuột trên đường. Vào năm 1932, John Coffey đã tiêm chủng sự sống cho tôi. Gã đã xử tử hình tôi bằng sự sống, có lẽ bạn sẽ nói thế. Cuối cùng thì tôi cũng chết - dĩ nhiên sẽ chết, bất cứ ảo tưởng nào của tôi về sự bất tử đều đã chết theo ông Jingles - nhưng tôi ước được chết sớm trước khi tử thần đến tìm. Nói thật, tôi đã ao ước như thế rồi, từ khi Elaine Connelly mất đi. Có cần kể bạn nghe không?
Tôi xem lại những trang viết này, lật chúng bằng bàn tay run rẩy đầy vết và tự hỏi có chút ý nghĩa nào ở đây không, như trong những quyển sách được xem là thăng hoa và cao cả. Tôi ngẫm nghĩ về những bài thuyết giáo thời niên thiếu, những khẳng định hùng hồn trong nhà thờ Ngợi Ca Jesus, Chúa Uy Vũ, và tôi nhớ lại các tu sĩ thường nói mắt Chúa ở trong mắt chim sẻ, rằng Người thấy và ghi nhận cả tạo vật kém cỏi nhất của Người. Khi nghĩ đến ông Jingles và những mẩu gỗ bé xíu mà chúng tôi tìm được trong cái lỗ trên cây đa, tôi cho điều đó là đúng. Thế nhưng cũng chính Chúa đã hiến tế John Coffey, người chỉ cố gắng làm điều tốt theo cách mù quáng của mình, tàn bạo cũng như bất cứ nhà tiên tri Cựu Ước nào đã hiến tế một con cừu không có khả năng tự vệ... như Abraham sẽ hiến tế con trai của chính mình nếu được ơn Trên gọi. Tôi nghĩ đến John khi nói rằng Wharton đã giết hai bé gái song sinh nhà Detterick bằng tình yêu của chúng dành cho nhau, rằng điều đó xảy ra hàng ngày, trên khắp thế giới. Nếu điều đó xảy ra, Chúa sẽ mặc cho nó xảy ra, và khi chúng ta nói "Tôi không hiểu,” thì Chúa trả lời, "Ta cóc cần.”
Tôi nghĩ đến ông Jingles chết trong khi tôi quay lưng lại và sự chú tâm của tồi bị khuấy đảo bởi một gã xấu bụng, kẻ mà cảm xúc tốt đẹp nhất của hắn dường như là một loài tò mò không khoan nhượng. Tôi nghĩ về Janice, co giật những giây phút vô hồn cuối cùng khi tôi quỳ bên nàng dưới cơn mưa.
Thôi đi, tôi đã cố nói với John vào ngày hôm ấy trong xà lim của gã. Buông tay tôi ra. Tôi sẽ chết chìm nếu anh không buông. Chết chìm hoặc nổ tung.
- Anh không nổ tung. - Gã trả lời, nghe được ý tưởng của tôi và mỉm cười. Và điều kinh khủng là tôi không nổ. Tôi vẫn chưa nổ tung.
Ít nhất tôi cũng mắc một chứng bệnh của người già: khổ sở vì mất ngủ. Đến tận khuya tôi còn nằm trên giường, lắng nghe âm thanh nhớp nháp và vô vọng của những người đàn ông và đàn bà ho khạc ra những lộ trình dấn sâu vào tuổi già. Đôi khi tôi nghe thấy tiếng chuông gọi, hoặc tiếng quẹt của một chiếc giày ngoài hành lang, hoặc chiếc TV nhỏ của bà Javits mở nghe bản tin về khuya. Tôi nằm đây và nếu mặt trăng ở ngoài cửa sổ, tôi sẽ ngắm nó. Tôi nằm đây và nghĩ về Brutal, Dean, và thỉnh thoảng là William Wharton đang lải nhải: “Đúng vậy, đồ mọi đen, xấu như mày muốn.” Tôi nghĩ đến Delacroix nói: “Xem này, sếp Edgecombe, tôi đã dạy ông Jingles diễn trò mới.” Tôi nghĩ đến Elaine đang đứng ở bậc cửa vào phòng sưởi nắng và ra lệnh cho Brad Dolan để tôi yên. Đôi khi tôi ngủ thiếp đi và thấy con đường hầm dưới cơn mưa, có John Coffey đứng bên dưới những cái bóng. Trong những giấc mơ nhỏ bé này, điều đó không bao giờ là sự đánh lừa của con mắt; luôn luôn chắc chắn là gã, anh chàng to xác của tôi, gã cứ đứng đó và nhìn. Tôi nằm đây và chờ đợi. Tôi nghĩ về Janice, tôi đã mất nàng như thế nào, nàng đã rải đầy màu đỏ qua ngón tay tôi dưới cơn mưa và tôi chờ. Chúng tôi nợ nhau một cái chết, không có ngoại lệ, tôi biết điều đó, nhưng đôi khi Chúa ơi, Dặm Đường Xanh dài thăm thẳm.
HẾT