Công Nữ Ngọc Vạn

Chương 6

 

Sau khi giải quyết ổn thỏa chuyện nhà, chúa Sãi cho sứ Chân Lạp vào chầu và thông báo chấp nhận việc cầu hôn của vua Chân Lạp. Trên danh nghĩa, đây là một cuộc hôn nhân hết sức quan trọng, vì sự kết thân để giúp đỡ nhau giữa hai nước, vì cuộc sống hòa bình lâu dài giữa hai dân tộc!

 Chúa Sãi sai đại thần Nguyễn Hữu Luân thay mặt mình thảo luận về cuộc hôn nhân ấy với sứ thần Chân Lạp. Cả hai bên đều đồng ý phá lệ, thực hiện hôn lễ sớm chừng nào hay chừng ấy. Cuộc thảo luận về những chi tiết để nối kết mối nhân duyên giữa hai nước tiến hành suôn sẻ, tốt đẹp.

 Tiếp đó, phía Chân Lạp lại thỉnh cầu phía Thuận Hóa cử vài vị quan văn võ sang làm cố vấn chính trị và quân sự cho triều đình Oudong. Hành động này thật sự triều đình Oudong nhắm vào mục đích mượn hình bóng người Việt để dằn mặt nước Xiêm và trấn an dân Chân Lạp. Đương nhiên thỉnh cầu này được chúa Sãi vui vẻ chấp thuận.

 Thế là chúa Sãi cho chọn ngày lành để đưa công nữ Ngọc Vạn về nhà chồng. Chúa cũng cho bố cáo với quốc dân để chúc mừng cuộc nhân duyên to lớn và tốt đẹp ấy.

Sau đó, chúa Sãi cử ông Nguyễn Hữu Luân, một vị quan văn, làm chánh sứ và phó tướng Lê Sáng làm phó, đại diện đàng gái đưa công nữ Ngọc Vạn về nhà chồng. Khi hôn sự hoàn thành, hai vị này sẽ ở luôn tại Oudong để làm nhiệm vụ cố vấn cho triều đình Chân Lạp.

 Ban đầu triều đình Thuận Hóa dự định phái đoàn hỗn hợp đưa và rước dâu sẽ đi bằng đường thủy cho tiện. Nhưng công nữ Ngọc Vạn lại đòi đi bằng đường bộ, nàng nại cớ muốn có cơ hội tìm hiểu thêm cảnh sống của nhân dân cũng như được chiêm ngưỡng sông núi gấm vóc trên đường mình đi qua. Chúa Sãi bèn chiều ý nàng. Ngày công nữ lên đường, chúa Sãi cho hơn năm trăm người theo chân, trong đó hơn một nửa là binh sĩ an ninh. Cộng thêm phái bộ sứ giả của Chân Lạp nữa, đoàn lữ hành lên tới tám trăm người. Ngoài ra, chúa cũng sức cho các chính quyền địa phương, kể cả hoàng gia Chiêm Thành, tăng cường an ninh và cung đốn lương thực cũng như phương tiện mỗi khi phái đoàn đưa rước dâu cần đến. Thế nhưng, trên suốt cuộc hành trình, công nữ Ngọc Vạn chỉ âm thầm quan sát sinh hoạt của dân chúng và không để xảy ra một vụ sách nhiễu, trưng dụng nào đối với các địa phương.

 Khi gần tới địa giới Chân Lạp, một phái bộ cao cấp của triều đình Chân Lạp do hoàng thân Nặc Nậu cầm đầu đã chờ sẵn để nghênh đón phái đoàn Đại Việt về kinh thành Oudong.

 Vua Chey ra lệnh thưởng cho tất cả những người có công đưa và rước dâu rất hậu. Theo sự thỏa thuận của đôi bên, một số người đi theo công nữ Ngọc Vạn, có hai vị quan Nguyễn Hữu Luân và Lê Sáng, cùng một số thợ các ngành nghề và chừng một trăm binh sĩ và vợ con họ được phép chính thức ở lại Chân Lạp. Vua Chey dành riêng cho quan binh Đại Việt một khu vực ở ngoại ô thủ đô Oudong để họ cất doanh trại làm chỗ ăn ở và làm việc gọi là Đại Việt doanh. Số còn lại được chiêu đãi đặc biệt trong mấy ngày, được đưa đi thăm viếng các thắng tích ở kinh thành Oudong, rồi sau đó đổi lộ trình theo đường thủy để trở về Đại Việt.

 °

 Sự việc vua Chân Lạp kết hôn với con vị chúa Đàng Trong nước Đại Việt đã làm đổi thay nhiều trong việc bang giao giữa Chân Lạp và các nước láng diềng. Nguyên lúc còn là hoàng tử, vua Chey đã cưới một công chúa người Lào tên là Pha Luông làm vợ. Đến khi lên ngôi, ngài lập bà công chúa này lên làm hoàng hậu. Hoàng hậu Pha Luông rất đẹp, lại tỏ ra hiền lành, luôn biết tuân phục theo ý muốn của chồng nên vua Chey yêu quí lắm. Tiếp đó hoàng hậu Pha Luông lại sinh được một hoàng tử. Vua Chey vui mừng lắm, nên càng cưng quí bà hơn. Vua đặt tên cho hoàng tử là Chan.

 Bấy giờ tình hình bang giao giữa Chân Lạp và Xiêm La mỗi ngày mỗi thêm gay cấn, triều đình Chân Lạp buộc lòng phải tìm mọi cách liên kết với triều đình Thuận Hóa để phòng nhờ cứu viện. Việc cầu hôn với công nữ Ngọc Vạn là hành động nhằm mục đích tạo một mắt xích nối kết hai nước. Những lời bàn thảo vấn đề này của triều đình chẳng bao lâu cũng lọt vào đến hậu cung. Một hôm, khi vua Chey vào thăm hoàng hậu Pha Luông, hoàng hậu tỏ vẻ buồn bã nói với vua:

 - Thiếp nghe người ta nói bệ hạ định cưới thêm một công chúa Đại Việt, điều đó có đúng không?

 Vua Chey ngập ngừng một chốc rồi nói:

 - Đó là ý muốn của triều đình, không phải ý riêng của trẫm. Thật sự triều đình chỉ muốn tìm cách liên kết mật thiết thêm với Đại Việt để nhờ họ giúp ta chống lại nước Xiêm La thôi.

 - Nhưng khi cưới nàng ấy về, theo thói thường, bệ hạ sẽ có mới nới cũ, khi ấy thân phận thiếp sẽ ra thế nào làm sao biết được?

 Nói thế xong, hoàng hậu Pha Luông ôm mặt khóc rưng rức. Vua Chey an ủi:

 - Hậu đừng ngại điều đó. Trẫm cưới thêm người vợ Đại Việt này chẳng qua là vì việc nước chứ trẫm nào đã biết mặt mũi nàng ấy ra sao đâu mà bảo yêu thương! Hơn nữa, một người đàn bà đẹp người đẹp nết như hậu trên đời này còn ai sánh kịp mà hậu sợ? Nhất là hậu đã có một hoàng tử sẽ là kẻ nối dõi cho ta, ai làm lung lay địa vị hậu được chứ?

 Hoàng hậu Pha Luông mắt long lanh ngấn lệ, nói:

 - Thiếp tin bệ hạ, nếu sau này bệ hạ đổi lòng thì thiếp chỉ có chết!

 Vua Chey lấy khăn lau nước mắt cho hoàng hậu rồi ôm bà vào lòng, nói:

 - Trẫm thề có trời đất, không bao giờ trẫm phản bội hậu!...

 Khi công nữ Ngọc Vạn đến kinh thành Oudong, việc trước tiên của nàng là theo hoàng thân Nặc Nậu cùng viên đặc sứ Nguyễn Hữu Luân và phó tướng Lê Sáng đến bái yết vua Chey. Lúc ấy hoàng hậu Pha Luông cũng có mặt bên cạnh vua. Vừa thấy công nữ Ngọc Vạn, vua Chey giật mình: "Trên đời này lại còn có người đẹp đến thế sao?". Vua lúng túng quay sang nhìn hoàng hậu Pha Luông. Ngài thấy mặt vị hoàng hậu này đang tái xanh, có vẻ thẫn thờ... Nhà vua nghĩ rằng nếu để thời gian bái kiến này kéo dài có thể gây tâm lý bất ổn cho hoàng hậu, ngài bèn nói:

 - Được rồi, hoàng thân hãy đưa công nữ về cung mới và tạm thời thu xếp chỗ ăn ở cho phái đoàn quan đặc sứ. Qua một cuộc hành trình quá dài chắc mọi người đã mệt lắm, cần phải nghỉ ngơi. Ngày mai trẫm sẽ cho chỉ thị những việc làm cần thiết.

 Khi công nữ Ngọc Vạn và các viên quan Đại Việt đã lui ra, hoàng hậu Pha Luông nói với vua Chey:

 - Bệ hạ thấy đó, với sắc đẹp như nàng công nữ này, rồi đây mẹ con thiếp sẽ không biết nương tựa vào đâu là chắc rồi!

 Vua Chey im lặng giây lát rồi nói:

 - Hậu chớ nên lo nghĩ như thế! Trẫm đây chứ phải người nào khác đâu!

 Hoàng hậu Pha Luông nhìn nhà vua với nước mắt ràn rụa:

 - Mẹ con thiếp đã đoán biết trước sau gì rồi cũng có ngày hôm nay mà...

 Nhà vua hơi ngỡ ngàng vì nàng công chúa Lào bình thường hiền lành, rất biết tuân phục chồng thế mà bây giờ lại tỏ ra khó chịu đến thế! Việc nước chưa biết thế nào nhưng việc nhà thì chắc chắn rắc rối rồi đấy. Ngài không giấu được vẻ bực mình:

 - Đã có chuyện gì đâu mà hậu làm rối lên thế? Trẫm đã nói việc này chỉ là mưu kế của triều đình nhắm vào mục đích liên kết với Đại Việt để chống nước Xiêm thôi mà!

 Thật tình ngài nói cứng để trấn an hoàng hậu thôi chứ ngài cũng dư biết chính mình đã bị ngọn sóng tình kia cuốn hút một cách mãnh liệt, ngài tự thấy mình khó lòng mà cưỡng lại nổi. Công nữ Ngọc Vạn quả là người ngọc! Người như vậy đúc nhà vàng cho ở còn chưa xứng nữa là! Ngay giây phút sơ ngộ đã làm ngài choáng váng hỗn loạn cả tâm trí. Ngài lặng nhìn hoàng hậu Pha Luông và lúc này ngài lại cảm thấy thương hại cái vẻ ngờ nghệch của bà này quá...

 Sau khi hoàng hậu Pha Luông về cung, vua Chey ngồi trầm ngâm một mình khá lâu. "Ta chưa biết nàng công nữ Đại Việt hiền dữ ra sao nhưng về sắc thì rõ ràng vượt hẳn hoàng hậu Pha Luông. Qua cuộc gặp gỡ vừa rồi, ta đã rõ hoàng hậu Pha Luông không phải là người rộng lượng, mà xem ra nàng công nữ Đại Việt cũng không phải tay vừa. Nếu ta không khéo cư xử thì những rắc rối bất ngờ sẽ không tránh khỏi xảy ra. Cũng may hoàng hậu Pha Luông đã có một hoàng tử làm chỗ dựa, ta cứ lập công nữ này làm thứ phi là tốt nhất. Hậu, phi trên dưới phân định rạch ròi thì chắc không đến nỗi nào! Ta phải lập nghiêm trước, không nên vội vã, không nên tỏ ra sủng ái "tân nhân" quá. Ta nhất định phải cho tân nhân sốt ruột chờ đợi năm ba ngày mới được! Như vậy vừa giảm được sự ghen hờn của bên này mà cũng vừa giảm được sự hợm mình của bên kia!

 Nghĩ đến đó vua Chey cười một mình, lấy làm đắc sách lắm. "Thiên hạ có thể cho là ta vô tình, càng tốt!" Sau bữa ăn tối, ngài quyết định lên long sàng nghỉ sớm.

 Nhưng vua Chey trằn trọc tới khuya vẫn không thể nào chợp mắt. Hình bóng kiều diễm đầy sức hấp dẫn của nàng công nữ nước Việt cứ lởn vởn trong đầu óc làm cho ngài không còn kiên nhẫn được nữa. Những tưởng tượng về cái vẻ tân, vẻ lạ, vẻ bí ẩn ở nàng công nữ cứ mỗi lúc mỗi lớn, nó kích thích làm cho ngài càng rạo rực nôn nóng. Người trần sao mà đẹp đến thế nhỉ! Tại sao đã tới cửa động đào nguyên rồi ta lại phải dừng chân? Thế rồi ngài truyền gọi mấy thị vệ theo ngài đi thăm công nữ Ngọc Vạn.

 Một viên thái giám lật đật chạy trước đến tòa cung thất dành riêng cho nàng công nữ Đại Việt mới được xây cất gọi là Tân cung. Ông ta không hô lớn "Hoàng thượng giá lâm" như thường lệ mà chỉ nói vừa phải đủ cho đám lính gác nghe:

 - Các ngươi canh gác cẩn thận, hoàng thượng ngự đến đây bây giờ!

 Rồi viên thái giám lẳng lặng đến gõ cửa cung thất. Một bà già người Việt và hai cô hầu trẻ bước ra chào hỏi:

 - Quí vị là ai?

 - Tôi là thái giám theo hầu hoàng thượng.

 - Trời đã khuya quá rồi, ngài thái giám đến đây có chuyện gì không?

 - Xin bà thưa lại với công nương chuẩn bị để đón tiếp thánh thượng!

 Bà già người Việt nói:

 - Thưa ngài thái giám, công nữ chúng tôi vẫn không quen thức dậy buổi khuya, khi cần phải đánh thức công nữ dậy cũng khó lắm! Vừa trải qua một cuộc hành trình dài mệt mỏi, giờ này công nữ đang say ngủ. Xin ngài tâu với thánh thượng hãy cho ngày mai vậy!

 Có lẽ viên thái giám cho rằng bà già chưa hiểu được quyền lực của một vị vua đối với mọi thần dân, ông kiên nhẫn nói lại:

 - Bà nên biết lệnh của vua không ai có thể không thi hành!

 - Nhưng lệnh của công nữ, không ai được đánh thức cô khi cô đang ngủ ngoại trừ lúc cần kíp như hỏa hoạn xảy ra hay giặc giã nguy biến!

 Viên thái giám lộ vẻ bất bình:

 - Lệnh của công nữ có quan trọng bằng cái mạng của bà không? Nếu...

 Trong khi hai bên đang cãi cọ nhau thì vua Chey và đoàn thị vệ đến. Viên thái giám trình lại những lời bà già người Việt đã nói với nhà vua. Vua Chey gọi bà già lại nói:

 - Khanh cứ vào thưa với công nữ rằng hoàng đế Chân Lạp đang đợi nàng trước cửa!

 Bà già và hai cô hầu tuân lệnh trở vào cung. Nhà vua và đoàn thị vệ phải đợi một hồi đến sốt ruột. Chốc sau mới có một nàng thị nữ bước ra tâu:

 - Khải bẩm thánh thượng, công nữ vừa mới thức dậy, dám xin thánh thượng chờ một chốc để công nữ trang điểm xong sẽ ra đón tiếp thánh thượng!

 Nếu gặp trường hợp một người nào khác, có lẽ vua Chey đã ra một lệnh trừng phạt dữ tợn. Có thể là một án tử hình! Nhưng đây lại là một vị công nữ của Đại Việt, một quốc gia mà ngài đang cần liên kết, ngài đành im lặng không nói gì. Nhưng lòng tự ái của một đấng quyền uy bị xúc phạm đã làm cho nhà vua tan biến hết những nỗi rạo rực, háo hức khi mới đến. Trong thoáng chốc ngài đã giận dữ, hối hận, muốn bỏ về ngay tức khắc. Nhưng rồi ngài cũng dằn lòng mà ở lại. Ngài thấy cần phải dạy cho nàng công nữ kiêu kỳ này một bài học thật xứng đáng! Trong khi nhà vua đang hậm hực thì chợt ánh đèn bên trong cung thất sáng rực lên. Rồi bốn nàng thị nữ hai trước, hai sau tay xách lồng đèn hộ tống nàng công nữ Đại Việt xiêm y cực kỳ lộng lẫy, mềm mại tha thướt tiến ra...

 - Thần thiếp là Ngọc Vạn xin kính chúc thánh thượng muôn tuổi, muôn muôn tuổi!

 Giọng nói trong trẻo dịu hiền pha thêm chút âm lơ lớ ngồ ngộ của một người mới học nói tiếng nước ngoài phát ra từ miệng cô gái tươi trẻ, thanh thoát đã tạo nên một một sự cuốn hút lạ thường. Vua Chey liền quên hết cả những nỗi bực bội vừa qua, ngài sung sướng khoát tay:

 - Trẫm miễn lễ, cho phép các khanh lui ra. Trẫm cần nói chuyện với công nữ!

 Những người theo hầu nhà vua cũng như các thị nữ tản ra ai lo phận nấy. Vua Chey bèn dìu công nữ Ngọc Vạn vào phòng riêng của nàng...

 Đêm đó vua Chey ngủ luôn ở Tân cung.

 Hôm sau, vua Chey chính thức phong tước hiệu thứ phi cho công nữ Ngọc Vạn. Đêm tới, vua Chey lại tiếp tục đến nghỉ ở Tân cung. Đêm thứ ba, đêm thứ tư cũng thế... Hoàng hậu Pha Luông cho người dò biết việc đó lấy làm bất bình lắm.

 Sang ngày thứ năm, hoàng hậu Pha Luông xin vào yết kiến nhà vua. Thấy mặt hoàng hậu, vua Chey có vẻ mất tự nhiên, ngài hỏi:

 - Hậu đến gặp trẫm có việc gì không?

 Hoàng hậu Pha Luông nói:

 - Thiếp đã đoán trước việc này không sai mảy may mà! Bệ hạ quả thật đã chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn rồi! Thiếp chẳng biết số phận mẹ con thiếp rồi sẽ ra sao đây?

 Vua Chey nhỏ nhẹ:

 - Hoàng hậu khỏi cần lo chuyện đó. Sở dĩ mấy hôm nay trẫm liên tục đến nghỉ ở Tân cung không phải vì quá say đắm thứ phi Ngọc Vạn như hoàng hậu tưởng mà chỉ vì trẫm tò mò muốn tìm hiểu một sự lạ thôi.

 - Vậy chớ thánh thượng muốn tìm hiểu sự lạ gì?

 - Quả thật là một sự lạ, dù trẫm đã ăn ngủ với thứ phi nhiều lần nhưng không hiểu sao tuyệt nhiên trẫm chưa thấy thứ phi cười một lần nào cả!

 - Thật vậy sao? Sao thánh thượng không hỏi thẳng thứ phi xem sao?

 - Trẫm có hỏi nhưng thứ phi chỉ lắc đầu không đáp.

 Hoàng hậu Pha Luông cười chua chát:

 - Thế thì chắc bệ hạ còn phải tiếp tục tìm hiểu cho ra vấn đề? Bao nhiêu năm nữa đây? Hay là người ta ỷ sắc người ta coi thường bệ hạ?

 Vua Chey không hài lòng mấy vì lối nói khúc mắc của hoàng hậu nhưng ngài làm như không để ý:

 - Dĩ nhiên trẫm phải tìm cho ra lẽ!

 Vua Chey nói không xa sự thật lắm. Mỗi đêm đến ân ái với thứ phi Ngọc Vạn, ngài đều được nàng đáp ứng khá nồng nhiệt nhưng tuyệt nhiên nàng không có một nụ cười. Vua hỏi điều thắc mắc, nàng lại chỉ lặng im lắc đầu. Sự thiếu vắng nụ cười trên môi người ngọc không làm cho nhà vua bực mình mà càng làm tăng vẻ thu hút, càng kích thích tính tò mò của ngài. Nếu thứ phi luôn tươi cười thì tuyệt vời biết mấy? Phải chăng nàng mắc một chứng bệnh lạ? Hay nàng đang có vấn đề gì khác nữa? Sau cùng ngài đã nghĩ ra được một cách là hỏi thăm bà vú của nàng.

 Khi chuẩn bị lên đường sang đất Chân Lạp, công nữ Ngọc Vạn tỏ ý muốn đem vú Minh Nguyệt theo mình để bầu bạn sớm hôm. Chính vú Minh Nguyệt cũng muốn theo nàng vì vú rất thương yêu nàng, vú luôn muốn chăm lo mọi thứ cho nàng. Đối với vú Minh Nguyệt, Ngọc Vạn lúc nào vẫn chỉ là một cô bé còn ngây thơ cần được săn sóc.

 Tối đó vua Chey lại đến Tân cung như mọi hôm. Nhưng thay vì vào phòng với thứ phi, nhà vua bảo nàng cho vú Minh Nguyệt đến gặp ngài với cớ để ngài khen thưởng, khích lệ về việc bà đã tận tình hầu hạ chăm sóc thứ phi.

 Vua chọn một chỗ ngồi thoải mái rồi gọi vú Minh Nguyệt đến. Sau khi nói những lời khích lệ và tặng bà vú một món quà giá trị, nhà vua nhỏ nhẹ tâm tình:

 - Khanh ăn ở với công nữ như bát nước đầy đã bao nhiêu năm chắc hẳn khanh biết rõ tánh tình cũng như sở ái, sở ố của nàng chứ?

 - Tâu bệ hạ, dĩ nhiên thần thiếp biết được về công nữ khá nhiều.

 - Ngày còn ở Đại Việt, công nữ có hay cười không?

 - Muôn tâu, công nữ vẫn quen tánh ít cười, ít nói, nhưng nếu gặp điều hài lòng nàng sẽ cười, gặp chuyện lợi ích nàng sẽ nói mà nàng đã nói thì bao giờ cũng đúng lý đúng tình.

 - Bao giờ cũng đúng lý đúng tình? Khanh căn cứ vào đâu mà nói như vậy?

 - Tâu bệ hạ, thiếp nghe Sãi vương vẫn khen nàng biết nhiều hiểu rộng, nói mười điều không sai một. Khi gặp những vấn đề rắc rối, Sãi vương vẫn hay hỏi ý kiến công nữ đấy!

 - Việc đó trẫm còn coi lại đã. Còn muốn cho nàng hài lòng, khanh có biết nàng không hài lòng về điều gì không?

 - Thiếp không biết chắc lắm, chỉ đoán chừng thôi, nếu bệ hạ không bắt tội thiếp mới dám tâu.

 - Cho phép khanh nghe thấy gì cứ thẳng thắn trình bày, trẫm không bắt tội đâu!

 Vú Minh Nguyệt khúm núm thưa:

 - Vậy thì thiếp mới dám nói. Sau khi thánh thượng phong tước hiệu thứ phi cho công nữ, thiếp lấy làm sung sướng thưa với nàng: "Chúc mừng công nữ được phong thứ phi!". Thiếp ngỡ công nữ sẽ hài lòng lắm, không ngờ công nữ lại xịu mặt mà nói: "Chúc mừng ư? Trước khi ra đi, phụ vương nói với ta sang đây sẽ được phong làm hoàng hậu, bây giờ ta chỉ làm một kẻ tì thiếp dưới quyền một người đàn bà Lào thì còn vui sướng cái nỗi gì? Dù sao ta cũng là con vua một cường quốc mạnh hơn hẳn nước Lào mà! Nếu ta biết trước bị bạc đãi như thế này thì ta đâu có chịu sang đây làm gì! Không sớm thì muộn ta cũng phải liệu cách để trở về nước". Như thế đủ rõ là công nữ bất mãn lắm. Thiếp chỉ nghe sao nói vậy, xin bệ hạ cao minh xét đoán.

 Vua Chey giật mình. Quả thật nước Lào đã nhiều đời vẫn phải triều cống nước Việt. Nếu công nữ Ngọc Vạn bất mãn đương nhiên việc giao hảo giữa ngài với Đại Việt cũng khó mà thông suốt. Không khéo lại gây ra thêm một kẻ thù. Ta không nên chuốc thêm oán - ngài tự nhủ. Sắc đẹp của nàng còn ai hơn nữa, nàng xứng đáng làm hoàng hậu lắm chứ, sao ta không phong cho nàng?

 Khi nghe vú Minh Nguyệt kể lại cuộc nói chuyện giữa vua Chey với bà, công nữ Ngọc Vạn khen:

 - Vú thật là sáng ý đáo để! Con cũng không ngờ vú nghĩ ra được những lời đối đáp hay đến thế! Con cám ơn vú nhiều lắm!

 Mấy hôm sau vua Chey thiết triều tấn phong thứ phi Ngọc Vạn lên làm Tả cung hoàng hậu. Hoàng hậu Pha Luông thì được cải danh thành Hữu cung hoàng hậu. Để trấn an bà này, vua Chey cũng tấn phong cho con bà là Chan, dù ông hoàng này còn rất nhỏ, lên làm thái tử.

 Việc vua Chey phong tước hiệu hoàng hậu cho công nữ Ngọc Vạn làm hoàng hậu Pha Luông rất bất bình. Bà nghĩ rằng đây là một sự phản bội trắng trợn của nhà vua. Nhà vua cũng biết điều đó, cho nên sau buổi tấn phong, ngài định đến nghỉ đêm ở Hữu cung để dung hòa bầu không khí nội bộ. Nhưng khi vừa gặp mặt nhà vua, hoàng hậu Pha Luông phần vì ỷ vào thế thượng phong của mình là mẹ của thái tử Chan, phần vì không kềm nổi sự bực tức trong lòng, bà nói:

 - May quá, bệ hạ vẫn còn nhớ chỗ này, thế mà thiếp cứ tưởng bệ hạ đã coi thiếp như một cái áo rách cần vứt bỏ!

 Tuy cảm thấy khó nghe những lời như thế, nhưng vua Chey vẫn dịu giọng:

 - Hoàng hậu nên rộng lượng một tí. Trẫm đã nói việc làm này chẳng qua là vì quyền lợi của đất nước.

 - Vì quyền lợi của đất nước? Ở chỗ nào xin bệ hạ nói cho thiếp nghe thử?

 - Chân Lạp đang cần liên kết với Đại Việt để chống lại người Xiêm!

 Có lẽ vì bị giới hạn tầm nhìn thế cuộc, vì tự ái dân tộc, vì lòng ghen tuông đang dâng lên cao độ, hoàng hậu Pha Luông nói:

 - Chỉ cần người Đại Việt! Người Lào chúng tôi là đồ bỏ mà!

 Vua Chey vốn rất ghét lối nói teo tắt ấy nên ngài càng cảm thấy chán ghét bà hoàng hậu này. Ngài không nói gì nữa, lặng lẽ khoát tay ra lệnh hồi cung.

 Từ đó nhà vua rất ít khi lui tới Hữu cung.

 Trong khi đó, bà Ngọc Vạn biết lấy lòng vua Chey, không hề nói một lời nào đụng chạm đến vị hoàng hậu người Lào. Bà chỉ suy nghĩ và đưa ra nhiều sáng kiến để cải cách công việc triều chính. Nhiều vụ cải cách đã đạt thành công rực rỡ khiến vua Chey càng thương yêu, tín nhiệm bà.

 Qua một thời gian khá lâu, người Xiêm ngưng hẳn mọi sự cướp bóc, gây hấn ở biên giới. Dân chúng Chân Lạp bớt được nỗi lo sợ giặc giã, yên tâm làm ăn hơn trước. Bởi thế, từ các quan viên ở triều đình đến dân chúng đều có vẻ tin tưởng, nể phục Tả cung hoàng hậu. Những thành quả thiết thực do sự hiện hữu của Tả cung hoàng hậu Ngọc Vạn đã làm cho bà ngày càng sáng giá. Ngược lại, vai trò của Hữu cung hoàng hậu Pha Luông càng trở nên lu mờ. Dần dần, khi nhắc đến tiếng hoàng hậu người ta nghĩ ngay là nói đến bà Ngọc Vạn chứ không ai để ý đến bà Pha Luông nữa.

 Thế nhưng vị hoàng hậu diễm lệ tuyệt trần ấy vẫn hiếm khi có một nụ cười. Vua Chey luôn ân cần chiều chuộng cố tìm mọi cách làm cho Tả cung hoàng hậu vui nhưng đều vô hiệu. Một hôm, vua Chey hỏi:

 - Từ khi hậu tới đây, trẫm thấy cái gì cũng được thay đổi tốt đẹp. Bên trong, cung đình có vẻ uy nghiêm, trở nên khuôn phép nề nếp hơn. Bên ngoài, thần dân có vẻ kính nể, tin tưởng vào sự che chở của triều đình thêm. Nhưng không hiểu sao hậu lúc nào cũng có vẻ suy tư buồn bã như thế?

 Hoàng hậu Ngọc Vạn tâu:

 - Muôn tâu, nhờ ân đức cao dày của bệ hạ, thiếp được dự phần vinh sang, được thần dân nể trọng, thiếp hãnh diện lắm chứ! Bệ hạ là con cưng của trời, là vị chủ tể của một đất nước được trời dành riêng quá nhiều đặc ân, thiếp được núp bóng hầu hạ ngài thì đâu còn vinh dự nào hơn!

 Vua Chey tuy rất sung sướng vì những lời Tả cung hoàng hậu tán dương. Nhưng vẻ nghiêm nghị đến lạnh lùng của hoàng hậu cũng làm ngài khó nở một nụ cười thoải mái. Ngài lại hỏi:

 - Thế thì vì lẽ gì mà hậu hay buồn, tại sao hậu không cho trẫm những nụ cười thật tươi? Hay có kẻ nào khác làm gì khiến hậu không hài lòng?

 Tả cung hoàng hậu lại tâu:

 - Không, bệ hạ đối xử với thiếp như thế là quá tốt, quá toàn vẹn. Những người khác ở đây cũng không ai làm gì phiền đến thiếp. Thiếp chỉ hơi suy nghĩ mà buồn cho dân tộc thiếp một chút thôi.

 - Hậu buồn cho dân tộc của hậu? Vì sao?

 - Thiếp nghĩ, ông trời hơi bạc đãi dân tộc của thiếp...

 Vua Chey cố nở tròn một nụ cười:

 - Khi nãy hậu nói trời dành riêng đặc ân cho dân tộc Chân Lạp, bây giờ thì hậu nói trời bạc đãi dân tộc Đại Việt, trẫm muốn nghe rõ những ưu đãi và những bạc đãi mà hậu nói đó như thế nào?

 - Muôn tâu bệ hạ, đất đai Chân Lạp rất mầu mỡ, rộng mênh mông, hầu hết là đồng bằng. Rừng núi thì toàn gỗ quí, thú rừng người có thể ăn thịt đầy dẫy săn tìm lúc nào, nhu cầu bao nhiêu cũng có. Sông ngòi, đầm hồ thì chứa đầy tôm cá... Trời lại luôn cho mưa thuận gió hòa. Người dân có thể trồng trọt chăm bón  một tháng ăn cả một năm. Đó là chưa kể ruộng đất lại còn dư bỏ hoang không biết bao nhiêu mà kể, dẫu người có sinh thêm mấy cũng không khai thác hết được! Như vậy có phải là đặc ân của trời dành cho Chân Lạp không? Ngược lại, nước Đại Việt thiếp núi đồi chiếm gần hết lãnh thổ, đồng ruộng không bao nhiêu. Dân thì đông mà phải cuốc cày trên sỏi đá. Trời lại hay gieo lụt lội hoặc nắng hạn, mùa hè nóng như thiêu, mùa đông lạnh như cắt da. Người nào làm lụng thật siêng suốt năm không nghỉ mới mong khỏi đói. Như vậy có phải trời bạc đãi dân tộc thiếp không? Nếu dân của thiếp được làm ăn trên đất Chân Lạp, chắc rằng họ sung sướng lắm!

 Vua Chey cười rộng lượng:

 - Tưởng gì, hậu lo chi điều nhỏ nhặt đó! Đất đai Chân Lạp còn hoang dã quá nhiều để làm gì! Trẫm sẽ hạ chiếu cho phép dân Đại Việt ai muốn đến khai thác làm ăn cứ việc đến. Như vậy hậu có bằng lòng không?

 Hoàng hậu Ngọc Vạn vội quì xuống lạy nhà vua với một vẻ cười vẫn còn đọng nét nghiêm nghị:

 - Đa tạ hoàng thượng đã ra ơn trời biển. Như vậy thần thiếp tin chắc có nhiều dân nghèo Đại Việt sẽ được đến sống dưới ơn mưa móc của hoàng thượng. Hoàng thượng vạn tuế vạn vạn tuế!

 Ngày hôm sau, vua Chey cho ban hành chiếu chỉ cho phép người Đại Việt tự do đến đất Chân Lạp làm ăn.

°

 Nhận được bản văn của triều đình Chân Lạp nói về việc cho phép dân Việt sang đất Chân Lạp khai khẩn làm ăn, chúa Sãi vô cùng mừng rỡ. Ngài lập tức cho thông báo với toàn dân Đàng Trong nước Đại Việt: Những người muốn thỏa chí giang hồ mạo hiểm, những người nghèo không có ruộng đất làm ăn, những người bất mãn với bà con xóm giềng muốn đi xa lập nghiệp, những người từ Đàng Ngoài mới vào Nam chưa có cuộc sống ổn định, những người nước ngoài đến đất Việt mưu sinh mà chưa có cư sở vững chắc, tất cả đều được quyền tình nguyện sang Chân Lạp làm ăn dưới sự bảo trợ của triều đình Thuận Hóa và triều đình Chân Lạp.

 Đặc biệt, những người đang bị giam cầm, ngoại trừ án cố sát, cũng được xét châm chước cho đi lập công chuộc tội, gây dựng lại cuộc đời.

 Toàn bộ số người tình nguyện ra đi sẽ được triều đình đài thọ tiền bạc và lương thực ước tính đủ chi dụng trong vòng nửa năm. Sau đó họ sẽ phải sống tự túc.

 Số người ghi tên tình nguyện đi Chân Lạp đợt đầu tiên lên đến năm trăm, cả nam lẫn nữ. Đặc biệt trong số người tình nguyện đó có cả chàng học trò Trần Đình Huy.