Con gái thầy lang

Mệnh vận

Trại mồ côi là một tu viện nhỏ bỏ hoang gần đồi Xương rồng, một cái dốc rất gấp lên một con đường ngoằn ngoèo chạy từ ga xe lửa. Để tiết kiệm sức lừa, ông Vệ bắt tôi đi bộ cây số cuối cùng. Khi ông chào tạm biệt và để tôi ở lại là lúc tôi bắt đầu một cuộc sống mới.

Đó là vào mùa thu, những thân cây gầy guộc trơ trụi trông giống như đội lính xương khô canh giữ quả đồi có khu nhà trên đó. Khi tôi đi qua cổng, chẳng ai chào hỏi tôi. Trước mặt tôi là một cái đền thờ bằng gỗ mà lớp sơn đã tróc lở hết, ở ngoài sân có một bọn con gái áo trắng quần xanh đứng thành hàng ngay ngắn như những người lính. Chúng cúi xuống ngang thắt lưng – về phía trước, quay sang phải, về phía sau, quay sang trái – cứ như là tuân lệnh theo một ngọn gió. Còn có một cảnh tượng khác lạ hơn, hai người đàn ông, một người ngoại quốc, một người Hoa. Đấy là lần thứ hai tôi nhìn thấy một người ngoại quốc ở cự ly gần. Họ đi ngang qua sân, tay cầm bản đồ theo sau là một đội quân với những cây gậy dài. Tôi sợ rằng tôi rơi vào đội quân bí mật của đảng Cộng sản. Khi tôi bước qua ngưỡng cửa, tôi suýt nhảy lên vì sợ. Xác người trong những tấm vải liệm, hai mươi hoặc ba mươi cái xác cả thảy, đứng giữa phòng dọc theo hai bức tường, một số cái xác cao, một số  cái thấp. Ngay lập tức tôi nghĩ đó là những cái chết trở về. Một lần, dì Báu kể cho tôi nghe là hồi dì còn bé có một số gia đình thuê pháp sư đến làm bùa phép trên người chết buộc hồn ma quay trở lại vào nhà thờ tổ. Thầy pháp chỉ dẫn họ đi vào ban đêm, dì nói, để người chết không thể gặp một người sống nào mà ám. Ban ngày, người chết ở lại trong đền. Dì không tin vào chuyện này, cho đến khi dì nghe tiếng một pháp sư gõ mõ vào ban đêm. Thay vì ù té chạy như những dân làng khác, dì lại trốn sau một bức tường để xem rõ mọi chuyện. Cốc, cốc, và rồi dì nhìn thấy họ, sáu người tất cả, giống như những con  bọ khổng lồ, nhảy lên mấy mét vào không trung. Dì không thể tin chắc vào điều mình trông thấy, dì Báu bảo tôi. Tất cả những điều mà dì biết là trong một thời gian dài, dì không còn là mình nữa. Tôi đang định co cẳng chạy thì tôi thấy một ánh sáng loé lên ở những ngón chân vàng. Tôi nhìn chăm chú hơn. Ồ, đó là tượng các vị thánh thần chứ không phải người chết. Tôi đi về phía một bức tượng kéo mảnh vải che. Thần Văn Xương với cái đầu  có sừng, một tay cầm bút lông, tay cầm một cái mũ cánh chuồn sừng sững hiện ra. "Tại sao chị làm thế?" một giọng nói cất lên, tôi quay lại và thấy một cô gái nhỏ hơn tôi. "Sao lại trùm ông ấy lại?"

"Thầy giáo nói rằng ông ta không có ảnh hưởng tốt với chúng ta, không nên tin vào những vị thần cũ, chỉ tin vào các thánh của đạo Thiên Chúa thôi".

"Thầy giáo của bạn đâu?"

"Chị đến để gặp ai?"

"Bất cứ ai nhận Lưu Linh này là một đứa trẻ bị bỏ rơi." Cô gái chạy đi, một lát sau có hai phụ nữ nước ngoài đứng trước mặt tôi.

Những người truyền giáo người Mỹ này không trông đợi được gặp tôi, mà tôi cũng không ngờ họ là người Mỹ. Và bởi tôi chưa bao giờ nói chuyện với người nước ngoài, tôi không thể nói gì chỉ nhìn họ chằm chằm. Cả hai đều để tóc ngắn, một người tóc bạch kim, người kia tóc đỏ dợn sóng, cả hai đều mang kính, chúng làm cho tôi nghĩ họ bằng tuổi nhau.

"Rất tiếc là chẳng có thoả thuận nào về việc này" bà tóc trắng bảo tôi bằng tiếng Hoa.

"Thật uổng là" người kia chen thêm, "hầu hết trẻ mồ côi ở đây đều ít tuổi hơn em".

Khi họ hỏi tuổi tôi, tôi vẫn chưa thể mở miệng được, tôi dùng ngón tay vẽ mấy chữ trong không khí. Họ trao đổi với nhau bằng tiếng Anh.

"Em có biết đọc không?" một người hỏi, chỉ vào những hàng chữ tiếng Hoa.

"Ăn cho no đừng để dành" tôi đọc.

Một bà đưa cho tôi một cái bút chì và một tờ giấy. "Em có thể viết những chữ kia ra giấy không?" Tôi làm theo, cả hai cùng reo lên. "Cô bé thậm chí còn không buồn nhìn lại mặt chữ một lần nào." Nhiều câu hỏi nữa được đặt ra. Tôi có thể dùng bút lông không? Tôi đã đọc những sách nào? Cuối cùng họ lại nói chuyện với nhau bằng tiếng của họ rồi tuyên bố là tôi có thể ở lại.

Sau đó tôi được biết rằng tôi được đón nhận vừa với tư cách một học sinh với với tư cách một giáo viên phụ giảng. Chỉ có bốn giáo viên là những học sinh cũ, bây giờ sống ở một trong 36 phòng trong cả cái tu viện bỏ hoang này. Thầy giáo Phan dạy những đứa trẻ lớn. Tôi là người phụ giảng của ông. Khi ông còn là một học trò, năm mươi năm về trước, thì trường học chỉ có nam sinh. Cô giáo Hoàng dạy những bé gái ít tuổi hơn, và người chị goá của bà – chúng tôi gọi là Má Hoàng – chăm sóc những đứa bé nhất trong nhà trẻ. Có những bé gái lớn hơn giúp bà chăm sóc chúng. Cuối cùng là chị Dư, một người đàn bà thấp bé có cái lưng hơi bị gù, bàn tay thô ráp và cái giọng gay gắt. Chị ta chịu trách nhiệm về vệ sinh, trật tự và chấn chỉnh hành vi của bọn học trò trong trại mồ côi. Ngoài việc lên lịch phân công nhiệm vụ và việc tắm táp của từng người trong một tuần thì chị Dư thích lãnh đạo người nấu bếp và bà vợ của ông ta.

Hai người phụ nữ truyên giáo, về sau tôi phát hiên ra là không bằng tuổi nhau. Cô Grutoff, người tóc quăn mới 32 tuổi bằng một nửa tuổi của bà kia. Cô là y tá  và là hiệu trưởng. Cô Towler là giám đốc trại mồ côi, cô có trách nhiệm đi xin tiền tài trợ ở những người dành cho chúng tôi một chút tình thương. Cô cũng tổ chức những buổi cầu nguyện ngày chủ nhật, kể về sự tích các Thánh trong lịch sử Thiên Chúa giáo, chơi đàn piano trong khi dạy chúng tôi hát "giống như các thiên thần". Ngày ấy, tôi không biết một thiên thần là  gì. Và tôi cũng gk biết hát hò gì.

Còn về những người đàn ông ngoại quốc, họ không phải là người của Đảng Cộng sản mà là những nhà khoa học làm việc ở những cái mỏ nơi xương người Bắc Kinh được tìm thấy. Hai người ngoại quốc và mười nhà khoa học Trung Hoa sống ở dãy phía bắc cuối tu viện. Họ ăn sáng và tối ở trong đền thờ với chúng tôi. Mỏ cũng ở gần đấy, chỉ 45 phít đi lên xuống trên những con đường quanh co.

Tất cả có khoảng 70 đứa  trẻ, 30 đứa con gái lớn, 30 đứa con gái nhỏ và 10 em  bé, hay ít hơn thì còn tuỳ thuộc vào bao nhiêu trẻ trưởng thành ra trường và bao nhiêu đứa chết đi. Phần lớn bọn con gái ở đây có hoàn cảnh như tôi, kết quả tình yêu của những người tự vận, của những cô ca nữ, của những thiếu nữ đồng trinh không chồng mà chửa. Một số đứa là những trẻ mua vui mà Cao Linh và tôi đã gặp ở khu phố ăn mày – những đứa con gái không tay không chân, những đứa bé khổng lồ, hoặc những người lùn. Còn một vài đứa trẻ lại có cha là người nước ngoài, một người Anh, một người Đức và một người Mỹ. Tôi nghĩ chúng nó đẹp lạ lùng nhưng chị Dư bao giờ cũng trêu chọc, móc máy chúng. Chị bảo những đứa con gái này thừa hưởng từ cái dòng máu phương Tây của cha chúng sự ngạo mạn vậy phải làm cho nó loãng bớt đi bằng những lời sỉ nhục. "Em có thể tự hào về những việc em làm hàng ngày" chị Dư lên lớp "chứ không phải vênh vang với những gì em được sinh ra". Chị cũng thường nhắc nhở chúng tôi sự thương thân là không được phép. Đó là sự nuông chiều bản thân.

Nếu một cô gái xị mặt ra chị Dư sẽ nói "Nhìn bé Định kia kìa. Chẳng có chân, nhưng vẫn vui cười cả ngày".

Và đôi má mũm mĩm của bé Định nhô lên gần như nuốt mất mắt nó. Nó vui sướng là chỉ có hai miếng thịt nhô ra thay cho hai cái chân. Theo chị Dư, chúng ta sẽ thấy vui hơn khi nghĩ đến một người khác có hoàn cảnh khốn khổ hơn chúng ta.

Tôi cư xử như là người chị của bé Định không có chân, và bé này lại như là chị của một đứa bé hơn tên là Dung chỉ còn có một tay. Ai cũng có một mối quan hệ tương thân, tương ái như thế, có trách nhiệm với một người khác như là trong gia đình. Bọn con gái lớn và nhỏ sinh hoạt chung trong phòng khách, có ba phòng ngủ, mỗi phòng có hai mươi đứa, ba dãy giường ở mỗi phòng. Dãy đầu tiên dành cho trẻ bé nhất, dãy thứ hai cho trẻ nhỏ và dãy thứ ba cho trẻ lớn nhất. Theo cách này giường của Định ở cạnh giường của tôi và giường của Dung thì ở kề giường của Định, vị trí của mỗi người được xác dịnh bởi trách nhiệm và sự quý mến của người khác dành cho họ.

Đối với những người truyền giáo, chúng tôi là những bé gái của một vận hội mới. Mỗi một phòng có một áp phích màu đỏ với hàng chữ màu vàng tuyên bố điều đó. Vào mỗi buổi chiều trong lúc tập thể dục chúng tôi cất cao lời ca về vận mệnh mới của chúng tôi trong một bài hát do cô Towler soạn cả lời tiếng Anh lẫn tiếng Hoa.

Chúng ta có thể học hành hiểu biết

Chúng ta có thể lấy người mà chúng ta chọn lựa

Chúng ta có thể làm việc, kiếm tiền

Và một số phận chẳng ra gì là tất cả những gì chúng ta bỏ lại.

Mỗi khi có một người khách đặc biệt đến thăm trường mồ côi, cô hiệu trưởng cho chúng tôi biểu diễn thơm tiểu phẩm trong khi cô Towler đệm đàn piano, một khúc nhạc đầy kịch tính, giống như một đoạn phim câm. Một nhóm con gái đưa ra những dấu hiệu liên hệ tới số phận đau khổ, thuốc phiện, nô lệ và nạn mê tín dị đoan. Chúng vấp ngã bởi những đôi chân bị trói và ngã gục không hy vọng. Sau đó là những cô gái của một vận hội mới xuất hiện như những bác sĩ. Họ chữa cho những người hút thuốc phiện, họ cởi trói cho những đôi chân bị xiềng xích bởi số phận đen tối, và họ dùng chổi để quét đi bùa chú của lối sống lạc hậu. Sau cùng họ tạ ơn Chúa và cúi chào những vị khách đặc biệt, những vị khách ngoại quốc tới thăm đất nước Trung Hoa, cũng như cảm ơn họ đã giúp đỡ nhiều cô gái  vượt lên trên nghịch cảnh tiến bước với số phận mới của họ. Với tiểu phẩm này chúng tôi kiếm được khá nhiều tiền, đặc biệt là những khi chúng tôi làm cho khách rớt nước mắt.

Trong những buổi giảng đạo, cô Towler bao giờ cũng nói với chúng tôi rằng chúng tôi có thể lựa chọn trở thành một tín đồ Thiên Chúa hay không. Không có ai bắt buộc chúng tôi phải tin vào Chúa Jesus, bà nói. Niềm tin của chúng tôi là phải hết sức chân thực và thành thật. Nhưng chị Dư người đã đến trại mồ côi vào lúc bảy tuổi thường nhắc nhở chúng tôi về số phận bi thảm của chị. Chị buộc phải gõ cửa ăn xin từng nhà và nếu chị không xin được đủ tiền thì chị chẳng có gì để ăn ngoài những lời chửi rủa. Một hôm khi chị phản đối vì bị bỏ đói, ông anh rể đã ném chị ra ngoài đường như một miếng giẻ rách. Dưới mái trường này, chúng tôi có thể ăn như chúng tôi muốn, chị nhấn mạnh. Chúng tôi sẽ không bao giờ phải lo lắng việc bị tống cổ ra ngoài đường. Chúng tôi có thể lựa chọn niềm tin cho mình. Tuy vậy, chị nói thêm, bất cứ đứa trẻ nào không đặt trọn niềm tin vào Chúa Jesus chỉ là một con dòi ăn thịt xác chết, và khi cái kẻ thiếu lòng tin này chết nó sẽ bị đày xuống địa ngục, thân xác nó sẽ bị lưỡi lê bằm vằm thành trăm mảnh, cho vào lò nướng chín như một con vịt quay, nó bị bắt buộc phải chịu đựng tất cả các loại tra tấn còn ghê rợn hơn cả những gì xảy ra ở vùng Mãn Châu nữa.

Thỉnh thoảng tôi băn khoăn về những cô gái không chọn cho mình một niềm tin vào Chúa. Họ sẽ đi đâu sau khi họ chết? Tôi nhớ đến một đứa trẻ mà ngay cả những người truyền giáo cũng không nghĩ là nó có một số phận mới. Nó được ông nội nuôi một thời gian. Tôi thấy nó ở nhà  trẻ, nơi tôi phụ việc vào mỗi sáng. Không có ai đặt tên cho nó. Má Hoàng bảo tôi đừng bồng nó lên kể cả khi nó khóc vì có một cái gì đó không ổn ở đầu và cổ nó. Nó không bao giờ kêu lên một tiếng. Nó có khuôn mặt tròn và dẹt như một cái đĩa lớn, đôi mắt thô lố, cái mũi bé tẹo và cái miệng gắn ở giữa mặt. Da nó xanh lướt như hồ dán bằng gạo, còn thân hình nó quá bé so với cái đầu bất động như một bông hoa bằng sáp. Chỉ có đôi mắt nó lắc qua lắc lại như thể quan sát một con muỗi bay qua treần nhà. Rồi một ngày, cái cũi nó thường nằm trống trơn. Má Hoàng nói bây giờ nó đã là một đứa con của Chúa, thế là tôi biết nó đã về chầu Trời. Trong suốt những năm tôi sống ở trại mồ côi tôi đã thấy sáu đứa trẻ có số phận như vậy, bao giờ cũng được nuôi bởi một người ông, sinh r a với "một khuôn mặt chung" như má Hoàng nói. Cứ như thể đó là một người quay lại cõi thế nhiều lần với cùng một thân xác vì lỗi lầm của một người khác. Mỗi lần nó đến tôi lại đón chào đứa trẻ ấy trở về như một người bạn cũ. Mồi lần nó rời bỏ thời gian này lần nữa tôi lại khóc.

Bởi vì tôi xuất thân từ một gia đình làm mực, tôi là đứa trẻ viết chữ đẹp nhất từ trước đến nay trong trường. Thầy Phan nói thế. Ông thường kể lại cho học sinh nghe lịch sử triều nhà Thanh, mọi việc đã trở nên thối nát như thế nào, kể cả hệ thống khoa cự Tuy vậy ông cũng nói về quá khứ xa xưa với một tình cảm luyến tiếc nhẹ nhàng. Ông thường bảo tôi "Lưu Linh, nếu con sinh làm phận trai thời đó thế nào con cũng trở thành một bậc đại nho đấy". Đó chính là những điều ông đã nói ra, ông còn nói thêm là chữ tôi còn đẹp hơn cả chữ Khải Tĩnh con trai ông do chính ông dạy dỗ.

Khải Tĩnh là một nhà địa chất, một người có nét chữ rất đẹp, đặc biệt khi đó lại là một người có nửa thân bên phải bị di chứng của bệnh bại liệt khi anh còn bé. May cho anh, khi anh bị sốt bại liệt, cả nhà đã dốc hết tiền bạc dành dụm cả đời thuê những thầy thuốc tây y và đông y tốt nhất để chữa chạy cho anh. Kết quả là anh đã qua khỏi, chỉ hơi bị thọt và một bên vai bị lệch nhẹ. Sau đó những người truyền  giáo đã giúp anh được vào học ở một trường đại học nổi tiếng ở Bắc Kinh để trở thành một nhà địa chất. Sau khi mẹ mất anh trở về nhà để chăm sóc cha già và làm việc tại mỏ.

Hàng ngày anh đạp xe đạp từ trại mồ côi ra mỏ và trở về, đạp xe thẳng đến cửa lớp học của cha anh. Thầy Phan sẽ nhảy lên yên sau xe rồi con trai ông đạp ra khỏi lớp đến dãy cuối tu viện, bọn học sinh và các giáo viên sẽ nói với theo.

"Cẩn thận kẻo ngã!"

Chị Dư hết lòng ngưỡng mộ anh Tĩnh. Một lần chị đưa anh ra làm gương và nói "Nhìn coi đấy! Các em thấy các em có thể đặt cho mình một mục tiêu giúp đỡ người chung quanh còn hơn là trở thành một gánh nặng cho người khác". Một lần khác tôi nghe chị nói "Thật là một chuyện đau lòng khi một chàng trai anh tuấn như vậy chân hơi bị thọt!" có lẽ chị nói vậy để an ủi học trò nhưng trong suy nghĩ của tôi chị quan tâm đến nỗi đau của mình nhiều hơn những chuyện khác đơn giản chỉ bởi vì anh sinh ra rất đẹp trai. Sao chị Dư cũng như những người khác có thể nghĩ thế được? Giả sử một người giàu có mất của thì điều đó có đáng sợ hơn một người nghèo mất của sao?

Tôi hỏi một cô gái lớn hơn về điều này, cô ta đáp "Một câu hỏi ngớ ngẩn. Tất nhiên rồi! một người đẹp trai và giàu có sẽ mất nhiều hơn chứ." Tuy vậy điều đó hình như không ổn đối với tôi. Tôi nghĩ đến dì Báu. Cũng giống như Khải Tĩnh, dì sinh ra với một vẻ đẹp ngời ngời và sau đó cả khuôn mặt của dì bị huỷ hoại. Tôi nghe mọi người nói đi nói lại một điều. "Thật là kinh khủng khi mang một khuôn mặt như thế. Chẳng thà cô ấy chết quách còn hơn!". Tôi có cảm thấy như thế nếu tôi không yêu thương dì không? Tôi nghĩ đến cô gái ăn mày mù loà. Ai là người sẽ nhớ thương cô ấy?

Bất thình lình tôi muốn đi tìm cô gái mù ấy. Cô có thể nói chuyện với dì Báu hộ tôi. Dì có thể cho tôi biết dì đang ở đâu. Dì đang lang thang nơi Tận cùng thế giới hay dì bị nhốt trong lọ dấm? Còn lời nguyền nữa? Nó có mau chóng đi tìm tôi không? Nếu tôi chết vào lúc này, ai là người sẽ nhớ thưong tôi trên đời này? Ai là người đón chào tôi ở thế giới bên kia?

Khi đẹp trời, thầy Phan dẫn chúng tôi – những học sinh lớn đi xuống mỏ ở đồi Xương rồng. Mỏ cũng có một cái hang ở ngoài giống như cái từng thuộc về dòng họ của thầy lang, nhưng khi chui vào tôi mới thấy nó là một cái hầm khổng lồ sâu khoảng 50m.

Thầy Phan rất tự hào về vùng mỏ này vì con trai thầy là một trong những nhà địa chất làm việc tại đây. Từ trên trần xuống dưới đáy, từ vách hầm này sang vách hầm kia, tất cả mọi nơi đều được quét vôi trắng vì thế trông hầm mỏ giống như có một cái lưới đánh cá khổng lồ đặt bên trong. "Nếu một người thợ đào mỏ tìm thấy một mảnh xương động vật, xương người hay dụng cụ đi săn" Khải Tĩnh giải thích cho chúng tôi rõ "anh có thể vạch đúng vị trí của nó, ở khu vực này chứ không nhầm với các khu vực khác. Bọn anh sẽ tính tuổi của hiện vật đó dựa vào nơi nó được tìm thấy, tầng thứ tám có niên đại lâu nhất. Rồi sau đó các nhà khoa học có thể quay lại chỗ đó và đào sâu xuống hơn nữa."

Bọn con gái chúng tôi bao giờ cũng mang theo những phích đựng nước trà và các loại bánh ngọt cho các nhà khoa học. Khi trông thấy chúng tôi, họ nhanh nhẹn trèo lên, rửa mặt mũi, nói với những tiếng thở dài sung sướng  "Cám ơn. Cám ơn. Tôi khát đến nỗi tôi nghĩ mình sẽ hoá thành một trong những bộ xương khô kia mất". Thỉnh thoảng có một chiếc xe đi lên con đường dốc, một người ngoại quốc với một cái tẩu thuốc và cặp kính dày bước ra hỏi xem có gì mới không. Thường thì các nhà khoa học chỉ trỏ cái này cái kia và người đàn ông mang cặp kính dày gật đầu nhưng không có vẻ gì là hài lòng cả. Tuy vậy, lâu lâu ông ta tỏ vẻ phấn khích, rít cái tẩu thuốc liên tục khi ông ta nói chuyện. Rồi ông ta lại ngồi vào xe đi xuống dốc nơi có một chiếc xe hơi đen bóng lộn đang chờ để đưa ông ta trở về Bắc Kinh. Nếu chúng tôi chạy ra ngoài nhìn xuống chân đồi chúng tôi có thể thấy tận cuối một cái lũng bằng phẳng có đậu chiếc xe màu đen, nó chạy xuôi theo con đường hẹp làm một đám bụi bốc lên.

Mùa đông đến gần, các nhà khoa học trở nên vội vã hơn trước khi đất cát trở nên quá cứng và mùa đào bới đi đến chỗ kết thúc. Họ để cho một vài cô gái trèo xuống phụ giúp bỏ đất đá đã đào lên vào những cái hộp hoặc tổ lại những đường vôi trắng, hoặc cẩn thận sàng lọc lại những gì đã được sàng lọc đến mười lần rồi. Chúng tôi không được phép đi vào bất cứ chỗ nào có chăng giây thừng, đó là chỗ xương người đã được tìm thấy. Đối với một đôi mắt chưa từng trải rất dễ nhầm xương người với một cục đá hay một mảnh gốm, nhưng tôi phân biệt được sự khác nhau ấy nhờ những lần tôi đi kiếm xương với dì Báu. Tôi cũng biết được rằng xương người Bắc Kinh là xương không phải của một người mà là nhiều người – đàn ông, đàn bà, trẻ con, trẻ sơ sinh. Những mảnh xương rất bé, thậm chí không đủ để ghép thành một người. Tôi không nói điều này với bạn bè, tôi không muốn khoe khoang. Cũng như các cô gái khác, tôi sẽ giúp một tay khi nào các nhà khoa học yêu cầu, ở những chỗ chỉ có xương động vật, sừng hươu hoặc là mai rùa.

Tôi nhớ một lần con trai thầy Phan tặng tôi một lời khen đặc biệt "Em là một người thợ cẩn thận", Khải Tĩnh nói. Sau cùng sàng đất tỉ mỉ là việc làm ưa thích của tôi. Nhưng khi thời tiết trở nên lạnh cóng, những ngón tay và đôi má của chúng tôi không còn cảm giác nữa. Thế là kết thúc cả công việc cùng những lời ngợi khen.

Công việc thích thú tiếp theo của tôi là dạy dỗ các em nhỏ. Đôi khi tôi dạy chúng học vẽ. Tôi chỉ cho những học trò nhỏ dùng cây cọ để  vẽ một cái tai, đuôi hoặc ria mèo. Tôi vẽ những con ngựa, sếu, khỉ, thậm chí cả loài hà mã. Tôi cũng giúp các em học sinh rèn luyện chữ viết và đầu óc. Tôi nói với chúng những điều mà dì Báu đã dạy dỗ tôi về việc qua nét chữ người ta có thể thấy được chí hướng của người cầm cọ, cái chí của người ấy truyền từ cơ thể qua cánh tay qua cây cọ và thể hiện ở từng nét chữ. Mỗi một đường nét lại có nhiều ý nghĩa, bởi vì mỗi một chữ có nhiều đường nét nên chữ có nhiều ý nghĩa.

Công việc ưa thích cuối cùng của tôi là công việc mà chị Dư giao cho tôi làm: quét nhà, cọ rửa thau chậu, sắp đặt ghế cho những buổi nghe giảng đạo và lại dọn ghế ra trong những bữa ăn trưa. Những công việc này cũng chẳng đến nỗi dở lắm nếu như chị Dư không xé ra to những việc làm chưa tốt của tôi. Một tuần để thay đổi, chị giao cho tôi nhiệm vụ giết sâu bọ, chị kêu carg những ông sư đã không chịu giết những loài côn trùng, họ nghĩ rằng chúng có thể là thần linh hoặc con người hóa kiếp thành. "Những  con bọ này chắc là những tên địa chủ ở kiếp trước", chị làu bàu và ra lệnh cho tôi. "Hãy đạp lên chúng, giết chúng và công việc của em là giữ không để cho chúng xâm phạm vào đây". Cửa của tất cả các gian phòng, kể cả phòng của những người ngoại quốc, không bao giờ đóng, trừ những ngày đông giá, vì thế mà kiến và gián tha hồ mà vào phòng. Chúng  cũng có thể đột nhập qua bất cứ cái lỗ nào trên tường cũng như là những cái cửa  mắt cáo bằng gỗ, cho phép gió và ánh sáng thoải mái lọt vào. Nhưng tôi biết phải làm gì. Dì Báu đã dạy tôi. Tôi lấy giấy bịt những ô mắt cáo. Tôi lấy phấn ở lớp học vạch quanh ngưỡng cửa và những khe hở trên tường, kiến ngửi thấy mùi phấn đâm bối rối  sẽ quay sang hướng khác. Bọn gián thì can đảm hơn, chúng bò qua đường vạch phấn và bụi phấn chui lọt qua các khớp xương vào dưới lớp cánh, ngày hôm sau chúng nằm lộn ngược đầu, chân ngỏng lên, chết ngắc. Tuần ấy chị Dư không chỉ trích tôi nữa. Trái lại tôi nhận được một phần thưởng về thành tích giữ vệ sinh là hai giờ tự do muốn làm gì cũng được, nhưng trong chừng mực nó không phải là một tội ác. Trong một căn phòng đông đúc, chẳng có một chỗ nào dành cho riêng mình. Thế là tôi nghĩ ra việc để làm với phần thưởng cho tôi. Đã lâu tôi không đọc lại những gì dì Báu viết cho tôi trước khi dì chết. Tôi đã cố cưỡng lại bởi vì tôi biết tôi sẽ khóc khi đọc lại những trang giấy này lần nữa, chị Dư sẽ lại la mắng tôi vì tỏ ra uỷ mị trước mặt Định và các em gái nhỏ khác. Vào buổi chiều chủ nhật, tôi tìm thấy một nhà kho bỏ hoang đầy mùi ẩm mốc và những pho tượng nhỏ. Tôi ngồi bệt xuống sàn, tựa lưng vào tường gần một cái cửa sổ. Tôi mở miếng vải xanh gói những tờ giấy ấy ra và lần đầu tiên tôi phát hiện ra dì Báu khâu một cái túi nhỏ bên trong miếng vải.

Trong túi đựng hai vật kỷ niệm. Vật thứ nhất là một miếng xương ghi lời sấm truyền mà dì đã chỉ cho tôi xem khi tôi còn bé, bảo rằng tôi  có thể giữ nó khi tôi đã học được cách ghi nhớ. Dì  đã được quyền giữ nó, cũng như là chuyện xảy ra với cha dì trước đó. Tôi áp mảnh xương vào gần sát ngực. Sau đó tôi lấy ra cái vật thứ hai. Đó là một tấm ảnh nhỏ chụp một thiếu nữ đội một tấm khăn phủ đầu thêu hoa văn và mặc một chiếc áo khoác mùa đông có cái cổ cao chạm đến cả má cô. Tôi đưa tấm hình ra chỗ sáng. Cái gì thế này? Người mà tgđang ngắm nhìn đúng là dì Báu trước khi dì để cho khuôn mặt mình bị cháy. Dì có đôi mắt mơ mộng, đôi lông mày quyết đoán vút lên ở phía đuôi và miệng dì – đôi môi mọng đầy đặn, nước da mịn màng như cánh hoa. Dì rất đẹp, nhưng không đúng như tôi nhớ về dì, tôi tiếc rằng đo không phải là khuôn mặt đã bị đốt cháy của dì. Tuy vậy tôi càng ngắm tấm ảnh lâu hơn thì người con gái trong hình càng trở nên thân quen hơn. Và rồi tôi nhận ra khuôn mặt dì, niềm hy vọng của dì, kiến thức của dì, nỗi buồn sâu xa của dì, thảy đều là của tôi. Tôi khóc, khóc mãi, dâng lên trong lòng mình niềm vui và nỗi thương thân.

Tuần một lần cô Grutoff và vợ ông đầu bếp đi ra ga xe lửa nhận hàng hoá và thư từ. Đôi khi cũng có thư từ bạn bè ở các trường truyền giáo khác ở Trung Hoa hoặc là từ những nhà khoa học ở trường đại học Y khoa Bắc Kinh gửi đến. Những lần khác có thể có thư kèm với tiền đến từ rất xa: San Francisco ở California, Milwaukke ở Wisconsin, Elyria ở Ohio. Cô Grutoff sẽ đọc những lá thư phương xa ấy ở lớp học ngày Chủ nhật. Cô sẽ cho chúng tôi xem quả địa cầu "Đây chúng ta đang ở đây. Còn họ thì ở chỗ này. Họ gửi đến cho chúng ta tình yêu thương của họ và rất nhiều tiền". Rồi cô xoay quả địa cầu thế là chúng tôi lại trở nên bối rối  với những ý tưởng mới.

Tôi thường tự hỏi, tại sao một người xa lạ lại có thể yêu một người mà họ không hề quen biết? Mẹ và cha  bao giờ cũng kể như là người xa lạ đối với tôi. Nhưng họ không yêu thương tôi. Với họ tôi không còn hiện hữu nữa. Còn lời hứa của Cao Linh sẽ đến tìm tôi? Nó có cố tìm tôi không? Tôi không dám chắc đâu.

Một buổi chiều, sau khi tôi đã ở trại được hai năm, cô Grutoff đưa cho tôi một lá thư. Tôi nhận ra tuồng chữ của ai ngay lập tức. Đó là giờ trưa và phòng sinh hoạt chung rất ồn ào, vậy mà tôi trở nên điếc đặc. Các cô gái chung quanh tò mò muốn biết thư viết gì và ai viết. Tôi chạy trốn khỏi bọn chúng, giữ gìn kho báu của tôi như một con chó đói. Tôi vẫn còn giữ nó và đây là nội dung:

"Chị thân yêu nhất trên đời, tha thứ cho em vì đã không viết thư sớm hơn, tuy không ngày nào trôi qua mà em không nghĩ đến chị. Nhưng em không thể viết cho chị. Ông Vệ không bảo cho em biết ông đưa chị đi đâu. Cả mẹ cũng vậy. Cuối cùng tuần trước em nghe được ở ngoài chợ là các hầm mỏ ở đồi Xương rồng lại tấp nập trở lại, rằng các nhà khoa học người Mỹ và người Hoa sống ở một tu viện cũ cùng với bọn trẻ trong trường mồ côi. Lần kế tiếp gặp chị dâu cả, em hỏi "Em không biết Lưu Linh có gặp những người làm khoa học không, vì chị ấy sống cạnh họ mà". Thế là chị dâu đáp "Chị cũng tự hỏi như thế". Như vậy em biết được chị ở đâu.

Mẹ vẫn khoẻ nhưng bà than vãn là lúc nào cũng bận rộn và ngón tay của bà bao giờ cũng đen thui. Mọi người vẫn đang làm việc hết sức mình để gầy dựng lại hiệu mực đã làm mồi cho ngọn lửa. Cha và các chú đã xây lại cửa hàng ở Bắc Kinh. Họ vay tiền và gỗ lạt của ông Trương chủ trại hòm, người bây giờ làm chủ hầu hết công việc của nhà ta. Họ nhận được một phần công việc làm ăn khi em lấy Trương Phú Nam, người con trai thứ tư mà chị đã đính hôn.

"Mẹ nói rằng chúng ta may mắn vì gia đình họ Trương muốn cưới bất cứ cô gái nào họ Lưu. Nhưng em không nghĩ là em gặp may. Em nghĩ chị mới là người may mắn vì không phải làm dâu gia đình này. Hàng ngày, mỗi lần nuốt một miếng cơm, em lại được nhắc nhở về địa vị cao quý của nhà Trương và địa vị thấp kém của gia đình ta. Chúng ta nợ nần họ tiền gỗ, tiền vốn để phát triển kinh doanh. Trong vòng một trăm năm, nhà họ Lưu vẫn phải làm công cho họ để trả nợ. Mực không còn bán chạy cũng như kiếm được nhiều tiền nữa. Thành thật mà nói, chất lượng của mực không còn được như xưa, bây giờ vật liệu kém phẩm chất hơn và không còn dì Báu để tạc chữ lên thỏi mực nữa. Như là một sự nhắc nhở về món nợ của gia đình ta, em không có được một đồng để tiêu pha cho riêng mình. Để có được một con tem em phải đổi một chiếc trâm cài đầu.

"Chị cũng nên biết rằng họ Trương không giàu có như chúng ta tưởng hồi còn bé. Phần lớn gia tài của họ tan tành theo thuốc phiện. Một chị em bạn dâu của em nói rằng vấn đề này nảy sinh từ khi Phú Nam còn là một đứa bé bị một miếng gỗ rơi vào vai. Bà mẹ bắt đầu cho nó nếm thuốc phiện. Sau này bà mẹ chết, bị đánh cho đến khi chết, nhiều người nói thế dù ông Trương tuyên bố rằng bà ta bị trượt khỏi mái nhà trong một tai nạn. Rồi ông Trương lấy một người vợ khác, bà này là con gái một địa chủ buôn lậu thuốc phiện trong những cỗ quan tài]. Người vợ thứ hai cũng ghiền nha phiến. Ông bố vợ cảnh cáo nếu Trương đụng đến con gái ông ta, ông sẽ lập tức biến con rể thành hoạn quan. Chà, ông Trương biết điều đó dám xảy ra lắm vì ông đã thấy nhiều người đàn ông mất đi chính cái phần ấy vì không trả nợ đầy đủ cho cái khoản mua thuốc phiện.

"Sống ở nhà người đối với em là một nỗi đau hàng ngày chỉ có tiếng la hét và sự điên loạn, một sự đói tiền triền miên cho thuốc phiện. Nếu Phú Nam có thể xẻo thịt em mang bán lấy tiền được thi hắn cũng không từ. Hắn căn vặn em có biết chỗ nào tìm thêm được xương rồng  không. Hắn thuyết phục em nói cho hắn biết để bọn em có thể trở nên giàu có. Giá như mà em biết, em sẽ bỏ đi để trốn thoát gia đình này. Thậm chí em có thể bán mình. Nhưng em biết đi đâu bây giờ?

"Chị ơi em rất tiếc là lá thư này chỉ mang đến cho chị những buồn phiền lo lắng. Em viết ra những điều này để chị biết t s em không thể đến tìm chị và rằng chị thật may măn là đã ở chốn ấy. Làm ơn đừng viết thư cho em. Nó chỉ gây cho em thêm những rắc rối. Giờ đây em đã biết chị ở đâu, em sẽ cố liên hệ với chị. Còn bây giờ em chỉ biết hy vọng là chị khoẻ mạnh và sung sướng. Em gái chị, Lưu Cao Linh".

Đọc xong rồi mà lá thư vẫn còn run rẩy trong tay tôi. Tôi nhớ rằng tôi đã từng ghen tị với Cao Linh. Bây giờ số phận của nó còn kinh khủng hơn số phân tôi nhiều. Chị Dư nói rằng chúng tôi nên tìm niềm vui trong hoàn cảnh của mình khi chúng tôi nghĩ về những người có cuộc sống còn kém may mắn hơn. Nhưng mà tôi không sao vui được.

Tuy vậy vào thời điểm ấy tôi đã không còn cảm thấy bất hạnh như trước. Tôi chấp nhận cuộc sống mới. Có thể do trí nhớ không tốt của mình tôi cảm thấy ít đau đớn hơn. Có thể là tôi buộc phải trở nên mạnh mẽ hơn. Tất cả những gì mà tôi biết rõ là tôi đã trở thành một người khác từ cái ngày đến cầu cứu ở trại mồ côI.

Tất nhiên vào thời ấy, cả đến các vị thánh thần cũng thay đổi đầu óc của họ ở trong tu viện này. Thời gian trôi qua, cô Towler đã phải dùng đến những miếng vải dùng để trìm lên các bức tượng để may áo và chăn mền, từng miếng từng miếng một. Cuối cùng thì tất cả các bức tượng đều lộ ra trước mắt mọi người, chọc giận cô Towler với những khuôn mặt đỏ gay đỏ gắt, với ba con mắt và những cái bụng để trần. Ở đây có rất, rất nhiều pho tượng của cả đạo Phật lẫn Đạo giáo bởi cái trang viên này được tu sĩ của cả hai đạo chiêm giữ trong những thời kỳ khác nhau tuỳ thuộc vào ai là người chủ đất và thời điểm đó. Một hôm vào trước lễ Giáng sinh, cô Grutoff quyết định cùng chúng tôi sẽ cải đạo cho các vị thánh thần ấy thành người của đạo Thiên Chúa. Chúng tôi  sẽ rửa tội cho họ bằng một nước sơn mới. Những cô gái lớn lên ở trại mồ côi từ lúc còn ẵm ngửa lấy thế làm vui lắm. Nhưng một số các cô gái mới đến trại sau này thì không muốn thay đổi diện mạo của các vị thánh thần này vì sợ hứng chịu cơn thịnh nộ của thần thánh. Họ sợ muốn chết khi bị lôi đến bên các pho tượng, họ kêu ré lên sùi cả bọt mép ra ngoài rồi ngã xuống đất như thể bị thánh phạt. Tôi không sợ. Tôi tin rằng nếu tôi kính trọng cả những vị thánh thâ`nó của người Hoa lẫn của người Thiên Chúa thì chẳng bên nào nỡ làm hại tôi. Tôi biết rằng người Hoa rất lịch thiệp và cũng có quan điểm thực tiễn nữa. Các vị thánh thần của người Hoa phải hiểu rằng chúng tôi đang sống theo cung cách phương Tây trong một cái trại được điều hành bởi người Mỹ. Nếu các vị thánh thần có thể cất lên tiếng nói thì các vị hẳn cũng biết rằng các vị thánh của đạo Thiên Chúa có địa vị cao hơn. Người Hoa, khác với người ngoại quốc, không cố áp đặt tư tưởng của mình cho người khác. Cứ để cho những người ngoại bang ấy đi theo con đường của họ mặc cho họ kì cục như thế nào, mặc kệ những điều họ nghĩ. Khi cây cọ của tôi lướt trên những khuôn mặt nửa vàng nửa đỏ của họ, tôi khấn thầm "Tha thứ cho con, Ngọc Hoàng Thượng Đế, tha cho con, Người đứng đầu của Bát tiên, con chỉ cải trang cho người phòng khi những người Cộng sản hoặc quân Nhật kéo đến đốt tượng các Ngài ra tro". Tôi là một nghệ sĩ có tài. Với một vài tượng Phật, tôi gắn lông cừu cho bộ râu, mì sợi cho những mái tóc quăn, lông chim cho đôi cánh. Thế là Phật Thích ca trở thành Chúa Jesus phương phi, Phật Bà Quan Âm thành Đức Mẹ Mary trong máng cỏ và Tam Thanh những vị thần tối cao của Đạo giáo trở thành Ba người khôn ngoan, 18 vị thánh La Hán của Phật Thích Ca được cải đạo thành 12 vị thánh tông đồ với sáu người con trai của họ. Bất cứ một hình nhân nhỏ bé nào nơi địa ngục của người Hoa cũng được thăng tiến thành các vị thiên sứ của đạo Thiên Chúa. Năm kế đó, cô Grutoff quyết định chúng tôi cũng sơn lại tất cả các bức tượng Phật, lớn nhỏ trong toàn toà nhà. Có đến hàng trăm vị như thế.

Năm sau nữa cô Grutoff tìm thấy căn phòng bụi bặm mà tôi đã đến để đọc những điều dì Báu viết cho tôi. Chị Dư nói những bức tượng ở đây diễn tẢ địa ngục của Đạo giáo, những điều sẽ xảy ra khi một con người lại trở vào lòng đất. Có hàng chục hình nhân sống động như thật diễn tả những hình phạt ghê rợn nơi âm ti địa ngục. Có một người đàn ông đang quỳ xuống, và những con vật có sừng đang ăn lòng ruột ông ta. Ba người khác bị treo tòng teng trên một cái sào trông như ba con heo trên một cái xiên. Bốn người ngồi trong một vạc dầu sôi. Và đây là những con quỷ khổng lồ mặt đỏ với những cái đâu lâu nhọn hoắt, lệnh cho người chết lao vào một trân chiến. khi chúng tôi kết thúc việc sơn lại những cảnh tượng này thì chúng tôi cũng hoàn thành sự tích ra đời của chúa Jesus, Chúa Hài đồng, Đức mẹ Mary, cha Joseph, tất cả mọi người, kể cả ông già Noel. Dù cố gắng như thế nào thì miệng của các vị thánh này vẫn mở to với vẻ kinh hoàng. Cho dù cô Grutoff nói thuyết phục thế nào thì hầu hết bọn con gái cũng không thể nghĩ cảnh tượng ra đời của Chúa là "tràn ngập niềm vui trên đời" như một bài chúng tôi vẫn hát.

Sau khi chúng tôi hoàn thành công việc cải đạo cho các pho tượng thì không còn gì nữa để chúng tôi chuyển thành các vị thiên thần. Nhưng vào lúc ấy tôi đã có sự chuyển đổi từ một người trợ giảng sang thành một giáo viên, từ một cô gái cô đơn thành một người yêu say đắm con trai thầy Phan.

Cuộc tình của chúng tôi bắt đầu như thế này.

Mỗi năm vào dịp năm mới, bọn học trò chúng tôi viết những câu đối Tết cho lễ hội trong vùng Chu Khẩu và thế là một hôm, tôi, thầy Phan và học sinh trong lớp lớn viết những câu đôi dài lên những tấm vải màu đỏ đang phủ lên bàn và sàn nhà.

Như thường lệ Khải Tĩnh đi đến trên chiếc xe đạp để chở cha anh về phòng. Đất đai ở vùng đồi Xương Rồng này đang đóng băng vì thế phần lớn thời gian của anh là dành cho việc vẽ biểu đồ, viết báo cáo và vẽ sơ đồ những điểm có thể tìm thêm xương người. Vào một ngày đặc biệt, anh đến hơi sớm mà cha anh lại chưa muốn về. Thế là  Khải Tĩnh đề nghị giúp đỡ chúng tôi viết câu đối. Anh đứng cạnh tôi bên bàn làm việc của tôi – Tôi rất mừng vì có thêm một tay viết câu đối rất đẹp.

Nhưng rồi tôi nhận ra việc anh đang làm. Bất cứ chữ nào hay nét nào tôi viết anh đều làm theo. Nếu tôi viết "may mắn" thì anh cũng viết "may mắn", nếu tôi viết "bội phần" thì anh cũng viết "bội phần". Rồi khi tôi hạ bút "cát tường như ý" anh cũng viết theo, từng nét một như thế. Anh cũng  viết theo một nhịp điệu y như tôi, thành thử trông chúng tôi như hai người đang biểu diễn một điệu múa. Đó là sự bắt đầu của mối tình giữa chúng tôi, cũng một nét uốn, cũng một dấu chấm, cũng một đường cất lên của cây viết lông như hoi thở của chúng tôi là một.

Vài ngày sau, tôi cùng học trò mang những câu đối này đến hội chợ. Khải Tĩnh đi với tôi, ngay bên cạnh, nói chuyện một cách lặng lẽ. Anh cầm trên tay một cuốn sách nhỏ có những bức tranh vẽ bằng cọ trên giấy dâu tằm ở ngoài bìa có dòng chữ Bốn biểu hiện của cái đẹp. "Em có muốn xem ở bên trong không?" anh ướm lời. Tôi gật đầu. bất cứ ai nghe lỏm chúng tôi nói chuyện cũng sẽ nghĩ là chúng tôi đang nói chuyện bài  vở ở trường. Nhưng thực ra anh đang nói về tình yêu. Anh lật một trang "Với bất cứ biểu hiện nào thì cái đẹp cũng có bốn cấp độ. Điều đó đúng với hội hoạ, thư pháp, văn học, âm nhạc và múa. Cấp độ thứ nhất là Năng lực". Chúng tôi nhìn vào trang sách có in hai bức vẽ giống nhau về một khóm trúc, một bức hoạ kinh điển, vẽ rất đẹp, rất thật, thú vị trong từng chi tiết.

Những nép đúp thể hiện ý tưởng về sức mạnh và sự trường thọ. "Năng lực" anh đọc tiếp "là khả năng vẽ cùng một nhân vật nhiều lần với cùng một đường nét, cùng một sự thật được thể hiện. Cái mức độ của vẻ đẹp này, tuy nhiên rất phổ biến".

"Mức độ thứ hai" anh đọc tiếp "là sự Hoành tráng". Chúng tôi chụm đầu nhìn vào một bức hoạ khác vẽ mấy thân cây trúc. "Bức tranh này vượt khỏi tài khoé tay" anh nói. "Vẻ đẹp của nó thật độc đáo. Tuy vậy nó đơn giản hơn với ít đường nét hơn ở thân cây và nhiều đường nét hơn ở lá. Nó biểu hiện sức mạnh và sự cô liêu. Người vẽ non tay hơn sẽ có khả năng nắm được lượng nhưng không bắt được chất".

Anh lật một trang nữa. Bức tranh này chỉ vẽ một cây trúc. "Mức độ thứ ba là sự Siêu phàm" anh nói. "Lá cây  bây giờ là những cái bóng lung lay bởi một ngọn gió vô hình, và thân trúc ở đây chủ yếu gợi lên một cái gì đã mất. Tuy vậy những cái bóng ở đây sống động hơn là những chiếc lá trúc làm mẫu bị che khuất bởi ánh sáng. Nhìn bức tranh này người ta không thể miêu tả thành lời về những gì đã được thực hiên. Ngay cả khi cố gắng vẽ lại thì chính tác giả cũng không thể nắm bắt được vẻ của bức tranh này, chỉ là cái bóng của cái bóng". "Vẻ đẹp có thể là gì hơn sự Siêu phàm?" tôi thì thầm, biết rằng tôi sẽ có ngay câu trả lời.

"Mức độ cuối cùng" anh đáp, "còn cao hơn thế nhiều, và nó nằm trong bản chất của mỗi người trong việc tìm ra nó. Chúng ta chỉ có thể cảm được nó nếu chúng ta không cố làm ra điều đó. Nó xuất hiện không có động cơ, không có ham muốn cũng không biết được cái gì kéo theo sau. Nó là sự tinh khiết. Nó là sự ngây thơ của trẻ em. Nó là một cái gì những bậc thầy siêu phàm lại có được một khi họ đánh mất những toan tính của mình trở lại làm nhi đồng một lần nữa".

Anh lật một trang nữa. Trên đó là một cái hình trái xoan. "Bức tranh này gọi  là Bên trong một cây trúc. Hình xoan này là cái em nhìn thấy nếu em ở bên trong nhìn lên, nhìn xuống. Đó là sự đơn giản từ bên trong, không lý do, không một lời giải thích. Đó là một sự ngạc nhiên tự nhiên rằng bất cứ cái gì cũng tồn tại trong mối quan hệ với những cái khác, một cái hình xoan vẽ bằng mực tàu, một người bên trong cây trúc, một cái nhìn về hội hoạ."

Khải Tĩnh im lặng một lúc lâu. "Cái cấp độ thứ tư này gọi là Đạo" cuối cùng anh nói. Anh cho cuốn sách nhỏ vào trong túi áo rồi nhìn tôi ân cần. "Gần đây anh cảm thấy cái đẹp của Đạo trong tất cả mọi vật, còn em thì sao?"

"Em cũng thế" tôi nói và bắt đầu khóc.

Bởi vì cả hai chúng tôi đều biết chúng tôi đang nói về Đạo với cái nghĩa là người này yêu người kia mà không hề có toan tính có dự định, cứ như thể chúng tôi là hai cây trúc dựa vào nhau bởi một ngọn gió. Thế là chúng tôi hướng về nhau, hôn nhau, mất đi trong cõi vô biên để thuộc về nhau.