Nhấc chân lên vẫn còn nhức nhối, song được tháo còng, Kunta sướng rơn đến nỗi hầu như không cảm thấy đau nữa. Và đêm hôm ấy, sau khi những người khác đã đi ngủ và mọi vật trở nên yên tĩnh, Kunta lò cò ra ngoài và lẻn trốn một lần nữa. Tắt ngay một cánh đồng ngược chiều với hướng chạy trốn lần trước, anh tiến về một khu rừng mé bên kia mà anh biết là rộng hơn, sâu hơn. Anh tới một khe suối cạn và đang trườn bụng nhoai lên bờ bên kia thì chợt nghe thấy âm thanh đầu tiên của một sự rộn rịch chuyển động đằng xa. Anh nằm im, tim đập rộn, tai nghe thấy tiếng chân nặng nề tiến lại gần và cuối cùng là cái giọng khàn của Xamxơn nguyền rủa, hét lác: “Tôby! Tôby!” Nắm chặt một cây gậy to mà anh đã vót nhọn thành một ngọn giáo thô sơ, Kunta cảm thấy bình tĩnh lạ lùng, gần như tê cứng, trong khi đôi mắt lạnh lùng dõi theo cái bóng người vạm vỡ đang thoăn thoắt sục sạo các bụi rậm trên bờ khe. Một cái gì khiến anh cảm thấy rằng Xamxơn sợ cho bản thân gã nếu Kunta trốn thoát được. Mỗi lúc gã một bước tới gần – Kunta vặn mình co người lại, im sững như hòn đá - thế rồi giây phút quyết định đã tới. Dồn hết sức lực phóng mũi lao ra, anh khẽ hộc lên vì đau và Xamxơn nghe thấy thế, lập tức nhảy né sang một bên, mũi giáo chỉ trượt có một sợi tóc.
Kunta toan chạy, song hai cổ chân yếu quá, thậm chí khó lòng đứng thẳng được và khi anh xoay người lại để nghênh chiến thì Xamxơn đã lao bổ tới, trọng lượng áp đảo của gã trút vào mỗi cú đánh, cho đến khi Kunta bị quật ngã xuống đất. Lôi thốc anh trở dậy, Xamxơn tiếp tục giã, chỉ nhằm vào ngực và bụng còn Kunta thì ráng vặn mình, vừa cào cấu, vừa cắn xé. Rồi một đòn búa tạ lại quật anh ngã xuống, lần này thì nằm liệt hẳn. Thậm chí anh không còn cử động được để tự vệ thêm tí nào nữa.
Thở hồng hộc Xamxơn lấy thừng trói nghiến hai cổ tay Kunta lại, rồi cầm đầu thừng rời bắt đầu lôi xềnh xệch Kunta đi về trại, phũ phàng đá thúc mạnh mỗi khi anh vấp hay chần chừ và suốt dọc đường luôn miệng chửi rủa.
Kunta chỉ còn đủ sức để lảo đảo và chệnh choạng lê bước theo sau Xamxơn. Đầu váng mắt hoa vì đau và kiệt sức – vì tự ghê tởm mình nữa – anh hằm hằm dự kiến trước những trận đòn sẽ phải chịu khi tới lều. Nhưng cuối cùng, khi về đến nơi – trước lúc rạng đông một tí – Xamxơn chỉ đá thêm anh một, hai cái, rồi bỏ mặc anh nằm mẹp một mình phủ phục đó.
Kunta kiệt sức đến run lên. Nhưng anh vẫn dùng răng nhay nghiến, cố cắn đứt những thớ dây thừng trói hai cổ tay, cho đến khi răng đau xói lên như xòe lửa. Song cuối cùng, thừng đứt thì cũng đúng vào lúc tù và thổi. Kunta nằm lăn và khóc. Anh lại thất bại và anh cầu Chúa Ala.
Suốt những ngày tiếp theo, anh và Xamxơn cứ y như là đã bí mật kí kết một hiệp ước thù hận. Kunta biết rõ mình bị theo dõi sát như thế nào; anh biết Xamxơn đang chờ đợi bất cứ cớ gì để đánh anh cho bọn tubốp vừa lòng. Kunta đáp lại bằng cách làm đến nơi đến chốn bất cứ việc gì được giao, như không có chuyện gì xảy ra mà còn làm nhanh hơn, hiệu quả hơn trước kia nữa. Anh đã nhận xét thấy “xú-ba-dăng” ít chú mục đến những ai làm hăng nhất hoặc nhăn nhở cười nịnh nhiều nhất. Kunta không thể buộc mình nhăn nhở cười được, nhưng anh hành động với một niềm thỏa mãn hung dữ rằng anh càng đổ mồ hôi, roi đòn càng ít quật xuống lưng.
Một buổi tối, làm việc xong, Kunta đang đi qua gần chỗ chuồng ngựa thì chợt phát hiện ra một cái nêm dầy bằng sắt nằm lấp một nửa trong những khúc cây đã cưa, nơi “xú-ba-dăng” cắt hai người chẻ ra làm củi. Đưa mắt vội vã nhìn quanh khắp phía không thấy ai theo dõi, Kunta vớ lấy chiếc nêm và giấu vào trong áo, hối hả đi về lều. Dùng chiếc nêm đào một lỗ trong nền đất rắn, anh bỏ luôn nó vào đó, đổ đất vụn lên, rồi lấy một hòn đá nện cẩn thận cho đến khi nền nhà nom như chưa hề bị xới lộn.
Anh qua một đêm không ngủ, lo rằng nếu chúng biết mất cái nêm, có thể tất cả các lều sẽ bị khám xét. Hôm sau, thấy không có chuyện gì ầm ĩ, anh cảm thấy yên tâm hơn song vẫn chưa chắc mình có thể dùng cái nêm như thế nào để tự cứu khi cơ hội chạy trốn lại đến một lần nữa.
Cái mà anh thực sự muốn nắm trong tay là một trong những con dao dài mà mỗi sáng “xú-ba-dăng” thường phát cho một số người. Nhưng cứ tối đến, anh lại thấy “xú-ba-dăng” đòi dao lại và đếm rất cẩn thận. Với một con dao như vậy, anh có thể phát cây bụi để tiến nhanh hơn trong rừng, và nếu cần, có thể hạ một con chó – hoặc một người.
Gần một tuần trăng sau, vào một buổi chiều giá lạnh, bầu trời heo hút và xám xịt, Kunta đang đi ngang qua một cánh đồng để giúp một người chữa lại một hàng rào thì bỗng kinh ngạc thấy có cái gì như muối từ trên trời rơi xuống, mới đầu còn nhẹ nhàng, sau rồi nhanh hơn, dày hơn. Khi thứ muối ấy trở thành từng mảng trắng, anh nghe thấy những người da đen ở gần đấy kêu lên: “Tuyết” và đoán rằng họ gọi nó là thế. Khi cúi xuống nhặt lên một ít, anh thấy nó lạnh giá cả tay – và càng lạnh hơn khi anh thè lưỡi liếm thử. Nó buốt như kim châm và chẳng có vị gì cả. Anh thử ngửi xem, nhưng chẳng những nó không có mùi gì mà còn tan biến thành nước. Và nhìn xuống mặt đất, chỗ nào anh cũng thấy một màng mỏng trăng trắng.
Nhưng khi anh tới mé bên kia cánh đồng, “tuyết” đã ngừng rơi và thậm chí còn bắt đầu tan ra nữa. Cố giấu vẻ ngạc nhiên, Kunta làm bộ điềm tĩnh và lặng lẽ gật đầu với người cộng sự da đen đang chờ bên cạnh hàng rào bị gẫy. Họ bắt tay vào việc. Kunta giúp người kia căng một thứ dây bện bằng kim khí mà gã này gọi là “dây thép”. Một lúc sau, họ tới một chỗ gần như lấp kín sau lớp cỏ cao và trong khi người kia phạt bớt một ít bằng con dao dài anh ta mang theo, Kunta đưa mắt ước lượng khoảng cách giữa chỗ mình đứng với khu rừng gần nhất. Anh biết hôm ấy Xamxơn không có mặt ở chỗ nào gần đấy và “xú-ba-dăng” thì đang trông coi ở một cánh đồng khác. Kunta tất bật làm việc để người kia khỏi nghi ngờ gì về những điều anh đang suy tính trong óc. Song anh thở hổn hển trong khi đứng cầm căng sợi dây thép và nhìn xuống đầu người kia đang cắm cúi làm việc. Con dao được để lại đằng sau họ vài bước, chỗ người kia dừng tay phạt cỏ.
Miệng khấn thầm Chúa Ala, Kunta nắm chặt hai bàn tay lại với nhau giơ lên cao và giáng xuống gáy người kia với tất cả sức mạnh mà thân hình còm cõi của anh có thể huy động. Người kia rụn xuống không kêu được tiếng nào, như bị hạ thủ bằng rìu. Trong một lúc, Kunta đã trói cổ chân, cổ tay anh ta lại bằng sợi dây thép. Vớ lấy con dao dài,, Kunta dẹp cơn bồng bột muốn đâm anh ta – đấy không phải là tên Xamxơn mà anh căm thù – và, gần như gập đôi người, chạy về phía rừng. Anh cảm thấy nhẹ lâng, tựa hồ anh đang chạy trong một giấc mơ, tựa hồ như chuyện này không xảy ra thực sự.
Tâm trạng này biến mất mấy phút sau – khi anh nghe thấy gã đàn ông anh đã để cho sống gào lên đến vỡ phổi. Đáng ra mình phải giết béng hắn đi, Kunta nghĩ vậy, giận dữ với mình, trong khi cố chạy nhanh hơn. Đáng lẽ rẽ lối lao sâu vào rừng rậm, lần này anh lại men theo rìa ngoài. Anh biết rằng trước hết cần tăng thêm khoảng cách đã, rồi sau hẵng ẩn trốn. Nếu anh mau chóng chạy được khá xa, anh sẽ có thì giờ tìm ra một chỗ tốt để nấp và nghỉ ngơi trước khi tiếp tục tiến thêm dưới sự che chở của màn đêm.
Kunta sẵn sàng sống trong rừng như loài thú. Đến nay, anh đã biết nhiều điều về cái đất tubốp này, cộng thêm với những gì anh đã học từ bên Châu Phi. Anh sẽ dùng bẫy bắt thỏ cùng những loài gặm nhấm khác và nấu nướng chúng trên một bếp lửa không tỏa khói. Anh lựa chiều chạy theo một rẻo có bụi cây che khuất nhưng không rậm đến mức làm anh phải giảm tốc độ.
Đến lúc sẩm tối, Kunta biết mình đã chạy được một quãng xa. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đi, vượt rãnh vượt khe và lội xuôi một quãng dài theo lòng một con suối nông. Mãi đến khi tối mịt, anh mới tự cho phép mình dừng lại, nấp ở một chỗ có bụi cây rậm nhưng khi cần có thể chui ra dễ dàng để chạy. Nằm đó trong bóng tối, anh thận trọng lắng nghe tiếng chó. Song chẳng có gì ngoài tịch lặng bao quanh: Liệu có thể như thế được chăng? Phải chăng lần này anh sẽ thành công thực sự?
Đúng lúc ấy, anh cảm thấy một cái gì lạnh giá vật vờ trên mặt và anh đưa tay lên rờ rẫm. “Tuyết” lại rơi! Chẳng mấy chốc màng trắng đã phủ kín anh và bao quanh đến tận cuối tầm mắt, nó lặng lẽ rơi, mỗi lúc một sâu, cho đến khi Kunta đâm sợ rằng mình sẽ bị vùi lấp trong đó mất; anh đã lạnh cóng. Cuối cùng, không thể đừng được nữa, anh chồm dậy, chạy đi tìm chỗ trú tốt hơn.
Chạy được một quãng dài thì anh vấp ngã; anh không đau, nhưng khi ngoái nhìn lại, anh kinh hoàng thấy chân mình đã hằn vết rất sâu trong tuyết đến nỗi ngay cả một người mù cũng có thể lần theo được. Anh biết không có cách nào xóa được dấu tích và anh biết giờ đây trời cũng đã sắp sang. Giải pháp duy nhất là tăng thêm khoảng cách. Anh cố gắng tăng tốc độ, song anh đã chạy gần hết đêm và hơi thở anh hổn hển đứt quãng. Con dao dài đã bắt đầu thấy nặng, nó có thể phát bụi rậm nhưng không làm cho “tuyết” tan được. Bầu trời đang bắt đầu sáng dần ra ở đằng đông thì anh nghe thấy xa xa trước mặt thoảng tiếng tù và. Anh liền chuyển hướng ngay bước sau. Song anh có cảm giác nặng trĩu rằng anh sẽ không tìm đâu ra chỗ trú an toàn giữa cái màu trắng bao trùm khắp này.
Khi nghe tiếng chó sủa xa xa, một cơn cuồng nộ chưa từng thấy trào lên trong anh. Anh chạy như một con báo bị săn đuổi, song tiếng sủa một lúc một to và cuối cùng, khi ngoái lại nhìn qua vai có dễ đến lần thứ mười, anh thấy lũ chó đã gần đuổi kịp. Chắc đám người cũng chẳng còn bao xa đằng sau. Thế rồi anh nghe thấy một phát súng nổ và, cách nào đó, nó thúc anh chạy nhanh hơn trước. Song dù sao mặc lòng, lũ chó vẫn rượt kịp anh. Khi chúng chỉ còn cách mấy bước, Kunta quay người lại và phục xuống, gừ lại chúng. Trong khi chúng nhe nanh xồ tới, anh cũng xồ lại, lia chéo một nhát dao phanh bụng con chó thứ nhất ra; quai tay một nhát nữa, anh bổ lưỡi dao vào chỗ giữa hai con mắt của con thứ hai.
Nhảy vọt ra xa, Kunta lại bắt đầu chạy. Nhưng chẳng bao lâu, anh nghe thấy những người cưỡi ngựa băng qua bụi rậm đằng sau và anh gần như đâm đầu vào đám bụi cây rậm hơn mà ngựa không qua được. Rồi có một tiếng súng nữa, và một tiếng nữa – và anh cảm thấy đau nhói ở cẳng chân. Bị quật ngã phủ phục, anh lại lảo đảo đứng thẳng lên; vừa lúc đó bọn tubốp vừa quát tháo và nổ súng, anh nghe thấy đạn xuyên ngập vào thân cây ngay cạnh đầu. Cứ để cho chúng giết mình đi, Kunta nghĩ, mình sẽ chết như một người đàn ông. Rồi một phát đạn nữa lại trúng vẫn cẳng chân ấy, quật anh xuống như một quả đấm khổng lồ. Đang gầm gừ trên mặt đất, anh trông thấy tên “xú-ba-dăng” và một tubốp khác chĩa súng bước về phía anh và anh định chồm lên, buộc chúng phải bắn anh nữa để kết liễu cuộc đời, song những vết thương ở cẳng chân khiến anh không vùng dậy nổi.
Tên tubốp kia chĩa súng vào đầu Kunta trong khi tên “xú-ba-dăng” giựt xé quần áo anh cho đến khi anh trần truồng trong tuyết, máu ở cẳng ròng ròng chảy xuống làm hoen thảm tuyết trắng dưới chân. Tên “xú-ba-dăng” luôn mồm chửi rủa, thụi Kunta gần chết ngất, rồi cả hai trói anh xấp mặt vào một gốc cây to, cổ tay buộc chằng sang mé bên kia.
Ngọn roi bắt đầu cứa thịt khắp vai và lưng Kunta, tên “xú-ba-dăng” hầm hè, còn Kunta thì run bần bật dưới sức mạnh dữ dội của mỗi nhát đòn. Sau một lúc Kunta không thể nén mình khỏi kêu thét vì đau đớn, nhưng trận đòn vẫn tiếp tục cho đến khi thân hình anh rũ xuống dán chặt vào thân cây. Hai vai và lưng anh đầy những vết toác dài rỉ máu, ở đôi chỗ lòi cả bắp thịt ra. Sau đó, Kunta có cảm giác mình đang ngã xuống, nhưng anh không dám chắc lắm. Rồi anh cảm thấy cái giá lạnh của tuyết áp vào người và tất cả tối sầm lại.
Anh hồi tỉnh trong căn lều của mình, và cùng với ý thức, cái đau cũng trở lại – buốt nhói và bao trùm khắp. Cử động nhỏ nhất cũng khiến anh kêu lên đau đớn. Và anh lại bị xiềng. Nhưng tệ hơn nữa, mũi anh cho biết là toàn thân anh từ chân đến cằm bị bao bọc trong một tấm vải rộng tẩm đẫm mỡ của con ủn ỉn. Khi bà già nấu bếp mang thức ăn đến, anh định nhổ vào bà, song chỉ mửa ra mà thôi. Anh như thấy vẻ thương hại trong mắt bà.
Hai ngày sau, những âm thanh tưng bừng hội hè đánh thức anh dậy từ sáng sớm. Anh nghe thấy đám người đen hò la bên ngoài ngoài ngôi nhà lớn. “Quà giáng sinh, me-xừ!” và anh ngạc nhiên không biết họ còn có thể có gì mà vui vẻ đình đám thế. Anh thì chỉ muốn chết để linh hồn có thể về chầu tổ tiên, anh muốn vĩnh viễn dứt khoát với nỗi thống khổ bất tận trên đất tubốp này, nó quá ngột ngạt và hôi thối đến nỗi anh không thể hít lấy một hơi thở trong lành nào. Anh giận sôi lên vì nỗi đáng lẽ đánh anh như một người đàn ông, thì bọn tubốp lại lột anh trần truồng. Khi nào khỏe lại, anh sẽ báo thù – và sẽ lại chạy trốn. Hoặc là chết.