Cây Thập Tự Ven Đường

Chương 39

Màn sương dày đặc quánh bồng bềnh lơ lửng trên đầu trong lúc Dance rời khỏi xa lộ và bắt đầu lái xe theo tuyến đường Harrison lộng gió. Khu vực này nằm ở phía nam nội đô Carmel - trên đường tới Point Lobos và xa hơn nữa là Big Sur - rất vắng vẻ, hầu như chỉ toàn những quả đồi phủ kín rừng; trong vùng chỉ còn lại một diện tích nhỏ đất trang trại.

Thật trùng hợp, nơi này khá gần lãnh địa cũ của người da đỏ Ohlone, cạnh địa điểm Arnold Brubaker hy vọng xây nhà máy khử mặn nước biển của ông ta.

Ngửi thấy mùi thông và bạch đàn, Dance từ tốn lái xe dọc theo con đường với ánh đèn pha - cô dùng đèn chiếu gần vì lớp sương mù. Thỉnh thoảng lại có những lối rẽ sâu hun hút vào bóng tối đen kịt chỉ bị phá vỡ bởi vài chấm sáng lác đác. Cô đi ngang qua vài chiếc xe, cũng chạy từ tốn giống cô, đi theo hướng ngược lại, và thầm tự hỏi liệu có phải một người lái xe đã thực hiện cuộc gọi nặc danh khiến cô tìm đến đây, hay người gọi là một cư dân sở tại.

Thứ gì đó...

Đó hiển nhiên là một khả năng, nhưng đường Harrison cũng là một lối tắt từ Xa lộ 1 tới đường Carmel Valley. Cuộc gọi có thể đến từ bất cứ ai.

Không lâu sau, cô tới đường Pine Grove và dừng xe lại.

Công trường xây dựng mà người gọi điện nặc danh đã nhắc tới là một tổ hợp khách sạn mới hoàn thiện nửa chừng - và chắc chắn sẽ không bao giờ được hoàn thành nữa, sau khi tòa nhà chính bị cháy trong những hoàn cảnh đáng ngờ. Ban đầu, người ta nghi đây là một vụ cố ý gây hỏa hoạn để lừa tiền bảo hiểm, song hóa ra thủ phạm lại là những người bảo vệ môi trường không muốn phong cảnh bị phá hỏng bởi việc phát triển xây dựng. (Thật mỉa mai, các vị khủng bố vì môi trường đã tính toán sai lầm; đám cháy lan rộng và phá hủy hàng trăm mẫu rừng thông nguyên sinh.)

Phần lớn rừng đã phục hồi trở lại, song vì nhiều lý do khác nhau, dự án khách sạn đã chẳng bao giờ được tái khởi động, và khu tổ hợp vẫn giữ nguyên tình trạng như hiện tại: Vài héc ta công trường với những tòa nhà hoang phế và những hố móng đào sâu xuống nền đất sét. Cả khu vực được bao quanh bằng hàng rào dây xích đã xiêu vẹo gắn kèm các biển báo Nguy hiểm và Cấm vào, nhưng cứ mỗi năm vài bận nhà chức trách lại tiến hành các ca cứu hộ một hai cô cậu vị thành niên bị rơi xuống hố hay mắc kẹt giữa đống đổ nát khi mò vào trong để hút thuốc, uống rượu, hay từng có một trường hợp, để làm tình tại một địa điểm kém thoải mái và ít lãng mạn nhất có thể hình dung ra được.

Nơi này cũng ma quái như địa ngục vậy.

Dance lấy đèn pin để trong ngăn đựng găng tay, chui ra khỏi chiếc Crown Vic.

Luồng gió ẩm ướt phả vào cô, và Dance chợt rùng mình khi cảm giác lo sợ bùng lên.

Thả lỏng nào.

Cô bật cười châm chọc chính mình, ấn công tắc đèn pin lên, lia luồng sáng của cây đèn Magna-Lite lướt qua lướt lại trên mặt đất đầy cây bụi và bắt đầu tiến bước.

Một chiếc xe vụt qua trên xa lộ, lốp rin rít trên mặt nhựa đường ẩm ướt, rẽ vào khúc ngoặt rồi lập tức im bặt, như thể nó đã biến mất sang một không gian khác.

Trong lúc nhìn quanh mình, Dance đoán ‘thứ gì đó’ người gọi điện nặc danh nhắc đến là cây thập tự ven đường cuối cùng, được dự định dùng để thông báo về cái chết của James Chilton.

Tuy nhiên, cô không hề thấy cây thập tự nào ở khu vực lân cận. Liệu người gọi điện đó còn có thể có ý gì? Không lẽ họ đã nhìn thấy hay nghe thấy Travis?

Đây quả là một nơi lý tưởng để giấu cậu thiếu niên.

Cô dừng lại, lắng nghe xem có tiếng kêu cứu nào hay không.

Không có gì ngoài tiếng gió thổi qua giữa những cây sồi và cây thông.

Những cây sồi... Dance chợt hình dung ra một cây thập tự cắm ven đường. Hình ảnh cây thập tự ở sân sau nhà cô từ đó cũng ùa về.

Liệu có nên gọi về yêu cầu lùng soát không? Chưa phải lúc. Tìm kiếm đi đã.

Cô ước gì có được người gọi điện nặc danh ở đây. Thậm chí cả một nhân chứng bất đắc dĩ nhất cũng có thể là nguồn cung cấp mọi thông tin cô cần; như Tammy Foster chẳng hạn, việc thiếu hợp tác của cô bé chẳng hề làm cuộc điều tra bị chậm lại.

Máy tính của Tammy. Nó có lời giải đáp. À, có thể chưa phải tất cả các câu trả lời. Nhưng một câu trả lời...

Nhưng bên cạnh cô không có gì ngoài cây đèn pin trong tay tại công trường xây dựng bỏ hoang quái gở này.

Tìm kiếm ‘thứ gì đó’.

Dance lách qua một trong những cánh cổng kim loại nằm dọc theo hàng rào, đã bị không biết bao nhiêu kẻ xâm nhập từ nhiều năm qua bẻ cong, hạ thấp người xuống, từ tốn bước đi. Tòa nhà chính đã sụp đổ hoàn toàn trong vụ cháy. Các khu khác như nhà kho, ga ra và các khu phòng khách sạn - đều bị bịt lại. Có sáu hố móng vẫn nằm phơi ra đó. Chúng được đánh dấu bằng những biển báo nguy hiểm màu cam, nhưng làn sương mù rất dày và phản chiếu phần lớn luồng sáng đèn pin trở lại mắt Dance; cô bước đi rất cẩn thận vì sợ hụt chân xuống một trong những cái hố móng đó.

Cô từ tốn dò dẫm trong khu công trường, cứ sau mỗi bước lại dừng và tìm kiếm các dấu chân.

Người gọi điện đã nhìn thấy thứ quái quỷ gì mới được chứ?

Thế rồi Dance nghe thấy tiếng động ở phía xa, song cũng không xa lắm. Một tiếng gãy răng rắc thật to. Rồi một tiếng khác.

Dance chết lặng.

Hươu, cô đoán thầm. Chúng có rất nhiều ở khu vực này. Nhưng cũng có cả các loài vật khác sống tại đây. Năm ngoái, một con sư tử núi đã giết chết một du khách chạy bộ cách nơi này không xa. Con dã thú đã xé toang người phụ nữ xấu số ra rồi biến mất. Dance cởi khuy áo khoác, đưa bàn tay áp lên báng khẩu Glock của mình để lấy lại bình tĩnh.

Thêm một tiếng gãy nữa, rồi đến tiếng cọt kẹt.

Giống như bản lề của một cánh cửa cũ đang mở.

Dance gai người vì sợ, chợt nghĩ cho dù “Tên sát nhân với cây thập tự ven đường” chẳng còn là mối đe dọa, điều đó không có nghĩa là đám nghiện ma túy hay những băng đảng tội phạm sẽ vắng mặt quanh đây.

Nhưng cô không hề nghĩ tới chuyện thoái lui. Travis có thể đang ở đây. Tiếp tục tiến lên.

Đi thêm chừng bốn mươi foot nữa vào trong khu công trường, lúc này Dance đang tìm kiếm những công trình có thể dùng làm chỗ giấu một nạn nhân bị bắt cóc, tìm kiếm những tòa nhà bị khóa cửa, tìm kiếm các vết chân.

Cô nghĩ mình vừa nghe thấy một âm thanh nữa - gần như một tiếng rên. Dance đã định gọi to tên cậu thiếu niên. Nhưng bản năng nhắc nhở cô không nên làm thế.

Và rồi cô dừng phắt lại.

Một bóng người hiện ra trong màn sương mù chỉ cách chỗ cô chừng mười yard. Nằm xuống, cô thầm nghĩ.

Dance thở hổn hển, tắt đèn pin và rút súng ra.

Rồi nhìn lại lần nữa. Cho dù đó là ai - hay là thứ gì, cái bóng đã biến mất.

Nhưng hình ảnh đó không phải là tưởng tượng. Cô chắc chắn đã nhìn thấy ai đó, đàn ông, cô tin là vậy từ ngôn ngữ cơ thể.

Lúc này, tiếng bước chân vang lên thật rõ ràng. Tiếng cành cây gãy, tiếng lá bị giẫm lạo xạo. Kẻ kia đang đi bên sườn cô, từ bên phải. Hắn di chuyển, rồi lại dừng lại.

Dance đưa tay sờ vào chiếc điện thoại di động trong túi. Nhưng nếu thực hiện một cuộc gọi, giọng nói sẽ để lộ vị trí của cô. Và cô cần giả thiết rằng bất cứ kẻ nào có mặt tại đây trong bóng tối của buổi đêm ẩm thấp, mù sương này không thể hiện diện vì những mục đích vô hại.

Lần ngược lại những bước chân đi cô bạn, Dance tự nhủ. Quay trở lại chiếc xe. Ngay bây giờ. Dance nghĩ tới khẩu súng trường để trong cốp của mình, món vũ khí cô từng bắn thử một lần, trong khi luyện tập.

Dance quay trở lại và di chuyển thật nhanh, mỗi bước chân đều làm vang lên tiếng lào xào thật to từ lớp lá cây rụng tựa như đang kêu lên: Tôi ở đây, tôi ở đây.

Cô dừng lại. Kẻ xâm nhập thì không. Tiếng bước chân y đang di chuyển trên nền lá rụng và qua các lùm cây bụi, trong màn sương tối đen, đâu đó bên phải cô.

Rồi chúng chợt im bặt.

Có phải y cũng đã dừng lại? Hay đã di chuyển tới chỗ không có lá rụng, chuẩn bị tiếp cận để tấn công?

Hãy quay lại xe, ẩn vào nơi an toàn, lấy bộ đàm ra và gọi tăng viện.

Từ đây tới chỗ hàng rào vẫn còn năm mươi hay sáu mươi foot nữa. Trong thứ ánh sáng trăng lờ mờ - bị khuếch tán qua màn sương mù - cô quan sát xung quanh. Một số nơi có vẻ ít lá khô hơn các chỗ khác, song khó cho phép di chuyển mà không gây ra tiếng động. Dance tự nhủ cô không thể đợi lâu hơn nữa.

Nhưng kẻ bám đuôi kia vẫn im lặng.

Liệu có phải y đang ẩn nấp?

Hay y đã bỏ đi rồi?

Hoặc kẻ đó đang tiếp cận dưới sự che chở của những tán lá dày?

Gần phát hoảng, Dance quay ngoắt lại song không nhìn thấy gì ngoài bóng ma của các tòa nhà, những thân cây và vài bồn chứa lớn đã rỉ sét bị vùi lấp một phần.

Dance phủ phục xuống, nhăn mặt vì cảm giác đau ở các khớp xương - từ cuộc đuổi bắt và cú ngã ở nhà Travis hôm trước. Sau đó, cô di chuyển về phía hàng rào nhanh hết mức có thể. Cưỡng lại sự thôi thúc gấp gáp muốn vùng chạy băng qua địa hình mấp mô dày đặc đủ thứ cạm bẫy đặc trưng của một công trường xây dựng.

Còn hai mươi lăm foot nữa là đến hàng rào.

Một tiếng gãy răng rắc gần đó.

Nữ đặc vụ dừng phắt lại, quỳ một bên gối xuống, giơ súng ngang tầm mắt tìm kiếm mục tiêu. Cô đang cầm đèn pin trong bàn tay trái và thiếu chút nữa đã bật nó lên. Nhưng một lần nữa, bản năng lại nhắc nhở cô không được làm thế. Trong màn sương mù, tia sáng gần như sẽ khiến cô bị lòa và cung cấp cho kẻ xâm nhập kia một đích ngắm hoàn hảo.

Cách đó không xa, một con gấu trúc Bắc Mỹ tuột xuống khỏi nơi ẩn náu của nó và quả quyết rời đi, điệu bộ rõ ràng tỏ vẻ bực bội khi bị quấy rầy.

Dance nhổm dậy, quay trở ra phía hàng rào và di chuyển thật nhanh trên lớp lá rụng, thường xuyên ngoái nhìn lại phía sau. Cô không thể trông thấy ai đang bám theo mình. Cuối cùng, Dance đẩy cánh cổng lách qua và bắt đầu rảo bước về phía chiếc xe, điện thoại di động mở ra cầm trên tay trái trong lúc cô tìm qua danh sách các số đã gọi.

Đúng lúc ấy, một giọng nói vang lên rất gần sau lưng cô, âm thanh vang vọng ra trong màn đêm. “Không được động đậy,” người đàn ông nói. “Tôi có súng.”

Tim đập thình thịch, Dance thấy cả người lạnh toát. Hắn đã ở bên sườn của cô, lách qua một cổng khác hay im lặng leo qua hàng rào.

Cô cân nhắc: Nếu y thực sự có súng và muốn giết cô, lúc này chắc cô đã chết. Với màn sương mù và bóng tối, rất có thể y chưa phát hiện ra khẩu súng trên tay cô.

“Tôi muốn cô quỳ xuống đất. Lập tức.”

Dance bắt đầu quay người.

“Không! Quỳ xuống!”

Nhưng cô tiếp tục quay người lại cho tới khi đối diện với kẻ xâm nhập và cánh tay đang giơ thẳng ra của y.

Chết tiệt. Y có súng, và khẩu súng đang chĩa thẳng vào cô.

Nhưng rồi sau đó cô nhìn vào khuôn mặt người đàn ông và chớp mắt. Anh ta mặc bộ cảnh phục của Sở Cảnh sát hạt Monterey. Cô đã nhận ra. Đó là anh chàng điều tra viên trẻ tuổi mắt xanh trước đây đã giúp đỡ cô vài lần. David Reinhold.

“Kathryn?”

“Cậu làm gì ở đây vậy?”

Reinhold lắc đầu, một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt. Anh ta không trả lời, chỉ đưa mắt nhìn quanh. Người cảnh sát hạ súng xuống, nhưng vẫn chưa nhét trở lại vào bao đựng. “Người ở trong kia có phải cô không?” cuối cùng anh ta hỏi, đưa mắt về phía công trường xây dựng.

Cô gật đầu.

Reinhold tiếp tục nhìn quanh, căng thẳng, ngôn ngữ cơ thể của người cảnh sát trẻ phát đi tín hiệu cho thấy anh ta vẫn sẵn sàng để chiến đấu.

Sau đó một giọng hơi rè vang lên từ bên sườn, “Sếp, có phải cô đấy không? Sếp gọi tôi à?”

Reinhold chớp mắt khi âm thanh vang lên.

Dance cầm điện thoại của cô lên và nói, “TJ, cậu vẫn ở đó chứ?” Khi Dance nghe thấy kẻ xâm nhập tiến lại sau lưng mình, cô đã bấm nút quay số.

“Vâng, sếp. Có chuyện gì vậy?”

“Tôi đang ở chỗ công trường xây dựng gần đường Harrison. Tôi đang có mặt cùng điều tra viên Reinhold từ Sở Cảnh sát.”

“Sếp có tìm thấy gì không?” người đặc vụ hỏi.

Dance cảm thấy hai chân cô đang thả lỏng dần, tim đập thình thịch, khi cơn hoảng loạn ban đầu giờ đây dần tan biến. “Chưa có gì. Tôi sẽ gọi lại cho cậu.”

“Hiểu rồi, sếp.”

Hai người ngắt liên lạc.

Cuối cùng Reinhold cũng cho súng vào bao. Người cảnh sát trẻ hít vào thật chậm và phồng hai gò má nhẵn nhụi thở không khí ra. “Thiếu chút nữa chuyện này làm tôi sợ đến mất cả... thứ cô biết đấy...”

Dance hỏi anh ta, “Cậu đang làm gì ở đây vậy?”

Anh ta giải thích rằng cách đây chừng một giờ MCSO đã nhận được một cuộc điện thoại về ‘thứ gì đó’ có liên quan tới cuộc điều tra ở gần giao lộ giữa Pine Grove và Harrison.

Chính cuộc gọi đã thôi thúc Dance tới đây.

Vì Reinhold từng tham gia vào cuộc điều tra, anh ta giải thích, chàng cảnh sát trẻ đã tình nguyện tới tìm hiểu. Anh đang tìm kiếm trong khu công trường xây dựng thì nhìn thấy ánh đèn pin nên lại gần xem xét. Reinhold không nhận ra Dance trong màn sương mù và nghĩ cô có thể là một con nghiện hay một tay buôn bán ma túy.

“Cậu có tìm thấy gì cho thấy rằng Travis đang ở đây không?”

“Travis ư?” anh ta chậm rãi hỏi lại. “Không. Sao vậy, Kathryn?”

“Vì dường như nơi này là một địa điểm rất phù hợp để giấu nạn nhân bị bắt cóc.”

“À, tôi đã tìm rất cẩn thận,” người cảnh sát trẻ cho cô hay. “Không thấy gì cả.”

“Dẫu vậy,” Dance nói, “tôi vẫn muốn đảm bảo chắc chắn.”

Và cô gọi lại cho TJ để điều động một đội rà soát.

~*~

Cuối cùng họ cũng khám phá ra thứ người gọi điện nặc danh đã nhìn thấy. Phát hiện này không nhờ vào Dance hay Reinhold, mà do Rey Carraneo, người đã đến nơi cùng sáu nhân viên khác từ CHP, MCSO và CBI.

‘Thứ gì đó’ là một cây thập tự ven đường. Nó được cắm phía bên lộ giới Pine Grove chứ không phải Harrison, cách điểm giao nhau chừng một trăm foot.

Song vật kỷ niệm này chẳng có gì liên quan tới Greg Schaeffer, Travis Brigham hay các bài bình luận trên blog.

Dance thở dài phẫn nộ.

Cây thập tự này trông bắt mắt hơn những cái khác, được làm cẩn thận, và những bông hoa đặt dưới chân nó là cúc và tuy líp chứ không phải hoa hồng.

Một điểm khác biệt nữa là cây thập tự này mang trên nó một cái tên. Thực ra là hai.

Juan Millar, hãy bình an yên nghỉ

Bị sát hại bởi Edie Dance

Được ai đó trong nhóm Ưu tiên sự sống để lại - người gọi điện nặc danh, đương nhiên rồi.

Phẫn nộ, cô nhổ bật cây thập tự lên khỏi mặt đất và ném nó vào mớ hỗn độn.

Chẳng còn gì để tìm kiếm, không còn bằng chứng để xem xét, không có nhân chứng nào để thẩm vấn, Kathryn Dance quay trở lại xe và lái về nhà, thầm tự hỏi liệu giấc ngủ của cô sẽ trằn trọc đến mức nào.

Nếu quả thực cô có thể ngờ được.