Biên hoang truyền thuyết - tập 1

Hồi 39

Yến Phi xông ra khỏi rừng cây rậm rạp, chạy như điên về đồng cỏ phía Biên Hoang, chẳng những chàng không có mục tiêu phương hướng, mà căn bản còn không biết mình đang làm cái gì, cũng không biết là mình đang chạy trên đường nữa.

Linh giác tựa hồ rời bỏ thân thể đã trở thành chốn chiến trường để cho hỏa nhiệt và băng hàn tranh chấp kịch liệt, tâm thần chàng hoàn toàn bị tầng tầng lớp lớp những chuyện đâu đâu ùn ùn kéo tới chiếm cứ, không hiểu được những chuyện dính dáng với thân thể, linh hồn và nhục thể chẳng còn liên hệ gì với nhau.

Tất cả đều biến thành tản mạn vô mục đích.

Lúc bắt đầu, chàng phải chịu đựng hết nóng tới lạnh giày vò hành hạ.

Đến lúc hỏa nhiệt từ Đan kiếp chiếm thượng phong, hàn khí do Nhậm Dao và Thanh Thị trút vào hoàn toàn nhượng bộ, do bị nhiệt khí thiêu đốt, miệng mũi phì ra toàn hơi nóng khét lẹt, toàn thân như phải bỏng, mọi thứ xung quanh biến đổi như chớp nhoáng, hít vào trong phổi không phải là không khí mát mẻ buổi sơ đông nữa mà là từng ngụm khói lửa, mồ hôi rịn ra từ những lỗ chân lông mau chóng bốc hơi bay đi hết. Chàng cảm thấy rõ uy lực vô biên của Đan kiếp đang làm cho sức sống của chàng dần tàn lụi, sắp sửa tiêu vong, ước muốn duy nhất là đến với dòng nước sông mát lạnh, vì vậy mới không ngừng chạy đôn chạy đáo, chỉ mong sao được trầm mình xuống nước.

Tuy nhiên trong phút chốc hàn khí lại không biết từ chỗ nào tràn ra, nếu như liệt hỏa bị băng tuyết thay thế, mạch đập chậm lại, huyết dịch sợ lại bị lạnh cứng lại. Khi đó chàng chỉ nghĩ đến việc tiếp tục chạy đi, để tránh khỏi bị huyết dịch đóng băng, đợi đến lúc hỏa nhiệt quay trở lại.

Sau không biết bao nhiêu lượt hết nóng lại đến lạnh, thân thể biến thành tê cứng, không còn chút cảm giác nào.

Một câu chuyện cũ thời thơ ấu bỗng hiện lên trong đầu.

Năm ấy chàng và Thác Bạt Khuê mới chừng mười một mười hai tuổi, Thác Bạt Khuê không biết từ đâu kiếm được một hũ rượu mạnh “Thiêu Đao Tử” của người Hán đưa về.

Hai người trốn vào một nơi vắng vẻ vụng trộm thưởng thức, mấy ngụm đầu tiên như đốt cháy cổ họng, rồi tiếp tục uống thì thấy cảm giác càng nóng càng phấn khích, cuối cùng đã uống đến say mèm, nằm lăn trên đỉnh núi, ngủ qua một đêm. Trưa hôm sau mẫu thân với mọi người trong tộc mới tìm đến được.

Yến Phi theo mẫu thân trở về lều, nghĩ rằng sẽ bị đánh đòn, không ngờ mẫu thân chỉ khư khư ôm chặt chàng trong lòng, yên lặng chảy nước mắt, không trách mắng chàng nửa câu.

Câu chuyện này hiện tại lại hiện lên trong đầu, khiến Yến Phi chỉ muốn khóc to lên. Bỗng dưng linh hồn tựa như từ bầu trời đêm chợt trở về thân thể, không còn thấy nóng lạnh gì nữa, toàn thân bồng bồng bềnh bềnh.

Lúc này chàng mới biết mình đang chạy như gió cuốn trên đồng hoang, còn nhanh hơn so với trước kia chạy hết tốc lực, mặt đất như bay vùn vụt về phía sau, tinh tú trên trời tựa như ùn ùn kéo tới trên đỉnh đầu.

Một cơn mệt mỏi đến cùng cực xâm chiếm toàn thân, đầu óc có tiếng vang dội như sét đánh, rồi ngã sập xuống phía trước, lăn lộn liên tiếp tới hàng chục lần. Cuối cùng nằm ngửa, hôn mê trên mặt đất.

o0o

Trên trời, một bóng đen lướt qua dưới ánh trăng đêm.

Lưu Dụ hưng phấn nói: “Chính là Thiên Nhãn của Khất Phục Quốc Nhân, Phù Kiên chắc cũng ở không xa”.

Tạ Huyền dẫn thủ hạ phóng lên một gò đất cao, sau đó hạ lệnh bố trận.

Lưu Dụ hết sức nghi ngờ, thầm nghĩ mục đích chuyến đi này là truy sát Phù Kiên, cớ sao lại dừng ở đây bày trận chờ đợi, vậy là cả ngày trời đuổi theo hết tốc lực thành ra công cốc.

Phía trước là một khu rừng cây thưa thớt, yên lặng như tờ, không có một tiếng động, xem ra ít khả năng có phục binh bên trong.

Tạ Huyền điềm đạm nói: “Tiểu Dụ tới chỗ ta”.

Lưu Dụ y lời thúc ngựa đến đằng sau ông.

Tạ Huyền ngước nhìn bầu trời trong veo sau khi Thiên Nhãn bay mất về phía bắc, nói: “Ánh trăng đêm nay thật đẹp!”.

Lưu Dụ lấy làm ngạc nhiên, gã vốn cho rằng Tạ Huyền sắp giải thích vì sao dừng lại, nào ngờ ông lại hân hoan thưởng thức vẻ đẹp ban đêm, thầm nghĩ bản sắc danh tướng, cuối cùng vẫn là danh sĩ.

Tạ Huyền chợt nhẹ thở dài, nói: “Đêm nay hành động truy sát Phù Kiên của chúng ta kết thúc ở đây”.

Lưu Dụ càng ngạc nhiên, ngước mắt nhìn khoảnh trời Biên Hoang Tập khói đen cuồn cuộn, sau đó quan sát kỹ phương hướng Thiên Nhãn bay đi, ngơ ngác hỏi: “Phù Kiên bỏ Biên Hoang Tập, trốn về phương bắc”.

Tạ Huyền khen: “Ngươi rốt cuộc cũng phát giác có biến hóa, nói nghe, Phù Kiên vì sao bỗng nhiên thay đổi hướng đi? Trước đó y thẳng tới Biên Hoang Tập, một lòng một dạ biểu hiện rõ tâm ý muốn chuyển bại thành thắng”.

Lưu Dụ trầm ngâm một lát để tìm lời giải thích, nói: “Hoặc giả gặp tướng sĩ chạy trốn khỏi Biên Hoang Tập, biết Diêu Trường phản bội, biết việc không ổn, liền bỏ rơi Biên Hoang Tập chạy về phương bắc”.

Tạ Huyền mỉm cười phân tích: “Diêu Trường là người chủ sự Biên Hoang Tập, hắn đương nhiên không ngốc đến mức nói mình phản lại Phù Kiên, mà sẽ giả truyền thánh chỉ của Phù Kiên trước khi triệt thoái đốt cháy Biên Hoang Tập, lại thêm tin bại trận nhận được qua tín hiệu lửa khói cùng bại quân truyền về, lòng người hoang mang, người người vội vã trốn qua bờ bắc Tứ Thủy, còn ai hứng chí quay lại tìm Phù Kiên sống chết không rõ, lại còn làm sao biết được Phù Kiên chọn lộ tuyến nào đào tẩu?”.

Rốt cuộc Lưu Dụ cũng minh bạch, giật mình: “Là Mộ Dung Thùy?”.

Tạ Huyền lộ vẻ hài lòng trẻ con dễ dạy, gật đầu nói: “Chỉ có Mộ Dung Thùy mới có khả năng làm cho Phù Kiên chuyển bại thành thắng, hiện tại hy vọng hão huyền xoay chuyển tình thế đã tan như bọt nước, hai đại tướng xuất sắc nhất đã bỏ y mà đi, hai nhánh bộ đội kỵ binh còn lại duy nhất không bị tổn hại trong chiến dịch này làm một cú bỏ đi choáng váng, Phù Kiên không cách nào ngóc đầu trở lại nữa, chỉ còn cách vội vàng chạy trốn”.

Ngừng một chút lại nói: “Từ lúc lên đường đến giờ, ta luôn để ý đến bộ đội của Mộ Dung Thùy. Người này hùng tài đại lược, túc trí đa mưu, sớm đoán chúng ta sẽ thừa cơ Phù Kiên tình thế chưa ổn, làm một cú quyết định tốc chiến tốc quyết, vì vậy tất ẩn phục xung quanh, coi tình hình biến hóa mà có hành động thích hợp, nếu hắn có thể thừa cơ phục kích giết được ta, danh vọng của hắn sẽ được bổ sung rất nhiều, lại còn có thể làm tê liệt công cuộc bắc phạt của đại Tấn ta. Theo tính cách của hắn, chắc chắn không đời nào bỏ qua cơ hội tốt nhất cử lưỡng tiện này”.

Lưu Dụ quét mắt nhìn khu rừng trước mặt, cách nhìn đã thay đổi hẳn, liền có ngay cảm giác thảo mộc giai binh, không kềm được lén chùi mồ hôi.

Quá cầu thắng thực sự là đại kỵ của binh gia, nếu đổi mình là Tạ Huyền, chắc hẳn vì lo Phù Kiên chạy mất, càng tăng tốc đuổi theo, hóa ra chuyển thắng thành bại, toàn quân tiêu diệt.

Tạ Huyền ghìm cương trước bờ vực thẳm, cho dù tương lai chứng minh ông sai, cùng lắm là để tẩu thoát mất một kẻ không còn khả năng làm chuyện gì lớn là Phù Kiên. Chàng ngấm ngầm ghi nhớ chuyện này, để tránh tương lai không phạm phải sai lầm giống thế.

Thắng bại chỉ cách nhau một ly.

Tạ Huyền thần thái nhàn nhã, tựa hồ chờ đợi nói: “Phù Kiên chạy về phương bắc, tự nhiên phát giác lực bất tòng tâm, vấn đề chỉ còn là có thể còn thoi thóp đến khi nào. Người mà y e ngại nhất không phải là Diêu Trường mà là Mộ Dung Thùy. Nếu Mộ Dung Thùy phản hồi căn cứ địa, y tất phải chia binh phòng thủ Lạc Dương và các thành trấn quanh đó để bảo đảm an toàn cho Quan Trung, quân lực Đê binh còn lại chẳng được mấy, tiến thêm một bước cũng khó”.

Lưu Dụ không hiểu: “Theo ý Huyền soái, Mộ Dung Thùy không giết Phù Kiên, còn thả hổ về rừng, đối với hắn có lợi gì?”.

Tạ Huyền mỉm cười nói: “Thế mới đúng với bản chất hùng tài đại lược của Mộ Dung Thùy, nhân vì hắn chí tại thiên hạ, chứ không vì được mất nhất thời. Nếu hắn thừa lúc người ta nguy khốn mà giết hại Phù Kiên, sẽ mang tiếng xấu bất trung bất nghĩa, lại còn bị Diêu Trường mượn danh vì Phù Kiên phục cừu, phất cờ chiêu binh thảo phạt. Nhưng hắn chịu trở về căn cứ địa, trước hết hẳn ổn định cơ sở, đẩy vấn đề khó khăn vào tay huynh đệ Mộ Dung Xung, Mộ Dung Vĩnh vì Phù Kiên trấn giữ Trường An, hoặc với Diêu Trường, bọn họ ai nấy đều muốn thay thế vị trí của Phù Kiên, nhưng ai là người xuất thủ trước đây? Trong tình thế này, Mộ Dung Thùy có thể ngồi yên nắm giữ trọng binh, chơi trò cách sông xem hỏa hoạn, đợi đến sau khi Phù Kiên bại vong, mới hiệu triệu bắc phương vì Phù Kiên phục cừu, đó mới là thượng thượng sách!”.

Lưu Dụ hoàn toàn bái phục, ngầm kinh sợ Mộ Dung Thùy đại trí đại dũng, nhìn xa trông rộng, bất giác thấy lo lắng cho Thác Bạt Khuê, có điều mâu thuẫn là hiện tại, đối với gã, Thác Bạt Khuê là địch chứ không phải là bạn.

Tạ Huyền tiếp tục nói: “Bốn đạo quân Đê Tần tinh nhuệ là kêu là 'Tứ soái tử đệ' đều đã huy động vào chiến dịch Phì Thủy, rồi lại chia đi Lạc Dương, Sơn Đông. Phù Kiên về Trường An chỉ có thể trông cậy vào binh mã của huynh đệ Tiên Ti Mộ Dung Xung, nếu hai người này sinh biến bên cạnh, lúc ấy chỉ có quân Khương của Diêu Trường còn có thể dùng được, đương nhiên Diêu Trường chẳng phải là thiện nam tín nữ gì. Do vậy có thể thấy bại vong của Phù Kiên là vì trong chiến dịch nam phạt đã phạm sai lầm lớn khi phân phối điều động lực lượng, Tiên Ti, Khương nhân hoàn toàn không tổn hại, binh mã bản bộ của mình thì tiêu tán thất lạc. Hơn mười năm huy hoàng của người Đê, đã một đi không trở lại”.

Tiếng vó ngựa dồn dập, từ trong rừng cây tối đen vô số kỵ binh đối phương lao ra, mau lẹ bày trận bên bìa rừng, trong chốc lát nhân mã đôi bên thành thế đối địch, khoảng cách chỉ chừng ngàn bước.

Không khí lập tức trở nên khẩn trương.

Bỗng nhiên một người vỗ ngựa xông ra, uy vũ tựa ma thần, hình tướng phi phàm, không phải bắc phương đệ nhất nhân Mộ Dung Thùy thì còn là ai.

Người có tên, cây có bóng.

Mộ Dung Thùy chẳng những là bắc phương chư Hồ đệ nhất nhân, mà Bắc Bá Thương trong tay xưa nay không địch thủ, võ công trấn nhiếp nam bắc võ lâm Hán nhân, đó là đánh giá của Hán nhân Đại Hoạt Di Lặc Trúc Pháp Khánh, Đan vương An thế Thanh, Tiêu Dao đế quân Nhậm Dao, Thái Ất giáo giáo chủ Giang Lăng Hư, đều là bá chủ nhất phương. Tại bắc phương, đơn đả độc đấu, không ai dám đụng vào mũi giáo của hắn.

Tạ Huyền phân phó tả hữu: “Không có lệnh ta, không được động thủ”. Tiếp đó hạ giọng nói với Lưu Dụ: “Nếu ta bại trận mà chết, ngươi phải lập tức dẫn mọi người chạy xa, không cần lo cho thi thể của ta”.

Vỗ ngựa xông ra, nghênh đón Mộ Dung Thùy.

Lưu Dụ nghe lời dặn dò giật mình kinh hãi, toàn thân sởn gai ốc, không ngờ cục diện lại diễn biến như thế.

Nhìn theo hình dáng hùng vĩ sau lưng Tạ Huyền, lưng đeo Cửu Thiều Định Âm kiếm, trong lòng dâng lên sự sùng kính ngưỡng mộ vô hạn đối với Tạ Huyền.

Đó mới thực sự là anh hùng chân chính, chợt lại nhớ tới Yến Phi, hắn cũng là hảo hán chân chính.

Mộ Dung Thùy gò cương ngựa dừng lại, khóe mắt lộ nét cười lạnh lẽo, bình tĩnh nhìn đối thủ từ từ đi tới gần, ngửa nhìn trời cười nói: “Hay cho một Tạ Huyền, quả nhiên không để bổn nhân thất vọng, tuy nhiên giao tình của chúng ta đến đây là hết, Mộ Dung Thùy nguyện lĩnh giáo Cửu Thiều Định Âm kiếm tuyệt thế kiếm pháp của Cửu phẩm cao thủ hạng nhất”.

Tạ Huyền dừng ngựa cách đối phương ba trượng, tiếp đó nghiêng người xuống ngựa, cùng lúc đó Mộ Dung Thùy cũng từ trên lưng ngựa bắn vọt lên, Bắc Bá Thương danh chấn thiên hạ không biết từ lúc nào đã nắm trong tay, lộn một vòng rất đẹp trên không rồi hạ xuống cách Tạ Huyền chừng hai trượng.

“Rẻng”.

Tạ Huyền rút Cửu Thiều Định Âm kiếm chĩa vào địch thủ.

Kiếm dài bốn thước hai tấc, trên sống kiếm ở một bên men theo mũi kiếm có chín cái lỗ nhỏ bằng cỡ đầu ngón tay út, ánh xanh lấp lánh xuyên qua hai bên, sắc bén đến mực khó tin.

Tạ Huyền mỉm cười nói: “Được lĩnh giáo tuyệt nghệ của đệ nhất đại gia phương bắc là vinh hạnh của Tạ Huyền này. Mộ Dung đại gia, xin mời!”.

Mộ Dung Thùy rung Bắc Bá Thương trên tay, một luồng sát khí lạnh lẽo như băng tuyết lập tức trùm lấy Tạ Huyền, lại còn lan tỏa xung quanh, dù đứng xa như Lưu Dụ cũng cảm giác rợn người vì cái lạnh thấu tim gan.

Võ công đáng sợ như thế so với cao thủ mang mặt nạ quỷ từng đột kích gã và Yến Phi e rằng còn cao hơn một hai phần.