Bài Học Thành Công Của Singapore

Phần Mở Đầu

THÀNH CÔNG SINGAPORE CÓ THỂ CHUYỂN GIAO ĐẾN CÁC NƠI KHÁC?

Thành công của Singapore, như một số chuyên gia nhận định, là không thể mô phỏng. Quốc gia này có những lợi thế riêng biệt. Sự tập trung 4,3 triệu dân trên một quần đảo có diện tích chưa đến 800 km2 đã tạo thuận lợi cho việc tiết giảm chi phí khi phân bố các phúc lợi xã hội, cơ sở hạ tầng và công tác điều hành quản lý, theo một cách thức mà các quốc gia lục địa rộng lớn như Ấn Độ hay Brazil đều không thể có được. Không giống thủ phủ ở các quốc gia khác, chính quyền thủ đô được luật pháp tối cao nhà nước Singapore trao quyền kiểm soát việc nhập cư từ các vùng nội địa. Hải cảng với mực nước sâu tự nhiên và vị thế chiến lược có nhiều ưu điểm, đã mang đến cho Singapore một sự khởi đầu đầy thuận lợi trong thương mại và giao dịch quốc tế mà những quốc gia nằm sâu trong lục địa như Nepal chỉ có thể mơ tới. Và liệu các quốc gia khác, điển hình là Campuchia, nơi nền nông nghiệp cổ truyền vẫn còn chiếm ưu thế, sẽ học hỏi được những gì khi xuất phát từ một nền kinh tế đất nước mà khu vực hạ tầng chỉ khoanh lại trong việc trồng hoa lan và nuôi cá, làm thu hẹp đi bức tranh kinh tế tổng thể?

Tuy nhiên vẫn còn những quốc gia khác phải học hỏi Singapore. Quyết định hết sức quan trọng của Trung Quốc vào năm 1978 nhằm thay đổi năm thế kỷ cô lập về kinh tế đã chịu ảnh hưởng phần nào từ chuyến viếng thăm Singapore của ông Đặng Tiểu Bình vào năm đó. Giấc mơ "xây dựng một ngàn Singapore tại Trung Quốc" của ông Đặng đã thúc đẩy nhiều phái đoàn đại diện Trung Quốc đến đảo quốc này với mục đích tham quan nghiên cứu. Hàn Quốc cũng hết sức ấn tượng trước thành tích đẩy lùi nạn tham nhũng của Singapore. Việc điều hành chặt chẽ lưu lương xe cộ giao thông nội thị của đất nước này đã làm ngẩn ngơ các viên chức chính phủ đến từ nhiều quốc gia khác nhau, và chương trình nhà ở của Singapore cũng đang được nhiều chuyên gia kế hoạch từ khắp thế giới nghiên cứu. Dubai liên tục dõi mắt theo Singapore. Việc nghênh đón các tập đoàn đa quốc gia của Singapore, với những chính sách ưu đãi cùng nhiều khích lệ và chính sách một cửa – vào thời điểm mà các quốc gia khác còn đang né tránh – đã được rất nhiều nước noi theo. Những chính sách về nền công nghiệp định hướng ưu tiên xuất khẩu giờ đây không còn gây ngạc nhiên nữa. Năm 1970, trong cuộc viếng thăm Istana – Dinh Tổng thống Singapore – nguyên Thủ tướng Malaysia, ngài Mahathir Mohamad, đã tỏ ý ngạc nhiên, quan tâm hỏi han đến việc làm cách nào mà những khu vườn rộng mênh mông trong dinh lại xanh tốt đến như vậy. Phép lịch sự ngoại giao có thể đã làm cho các viên chức cao cấp khi đi tham quan thường hay bày tỏ những nhận xét tỉ mỉ, nhưng ở trường hợp này không hề là sự xã giao tâng bốc.

Mỗi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều có thể học hỏi lẫn nhau. Vào thế kỷ thứ 19, nước Đức đã học hỏi kinh nghiệm cuộc cách mạng công nghiệp Anh Quốc; nước Nhật sau Công cuộc khôi phục Meiji (Minh Trị) giai đoạn 1867-1868 cũng đã nhận thức rõ sự vực dậy của nền kinh tế Đức; Singapore cũng chịu tác động thành công của Nhật; và Đảng Lao Động Anh mới đây đã thực hiện một chuyến tham quan nghiên cứu mạng lưới chăm sóc sức khỏe của Singapore, kết thúc một chu trình học hỏi lẫn nhau. Việc học hỏi không nhất thiết là phải cấy ghép một cách mù quáng những sách lược dù đã thành công ở đâu đó lên một mảnh đất lạ. Việc mô phỏng chính xác khuôn mẫu của một quốc gia khác sẽ gặp nhiều tác dụng hạn chế, thậm chí còn có thể gây nhiều tác hại. Tuy nhiên, ở mức thấp nhất, mỗi quốc gia hay từng doanh nghiệp của quốc gia đó, đều có thể tiếp thu ý tưởng sáng tạo từ các quốc gia khác. Nội dung sách nhằm nêu lên sự khác biệt giữa những nguyên tắc chung đã được ứng dụng rộng khắp và việc thực hiện cụ thể những nguyên tắc đó trong bối cảnh Singapore. Làm thế nào mà Singapore, với những hoàn cảnh đặc thù của đất nước mình, lại có thể thực hiện được những nguyện tắc căn bản đó? Thêm nữa, nếu kinh nghiệm của Singapore có thể chứng tỏ sự hợp lý của những nguyên tắc căn bản này, thì đến lượt các quốc gia khác, dù tiên tiến hay đang phát triển, đều có thể rút ra nhiều ích lợi khi nghiên cứu xem làm cách nào có thể ứng dụng những yếu tố căn bản này vào từng hoàn cảnh cụ thể của đất nước mình. Có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm mà không nhất thiết phải nâng Singapore lên thành một "kiểu mẫu" để mô phỏng.

CHIẾN LƯỢC CỦA SINGAPORE LIỆU CÓ QUÁ KHẢ NĂNG?

Ngay cả những người thán phục thành tựu kinh tế của Singapore cũng chỉ ra được những điều chưa thật hoàn hảo. Dù có ấn tượng mạnh đến thế nào, thì những chính sách phát triển của đất nước này cũng đã bộc lộ những khiếm khuyết mà các quốc gia khác đều mong muốn tránh khỏi. Singapore là một trong số rất ít các quốc gia rất khó thuyết phục, nơi mà các viên chức Quỹ tiến tệ quốc tế đã từng đặt vấn đề rằng liệu mức tiết kiệm quốc gia không đạt ở mức cao, có phải là do sự ưa thích tiêu thụ của các thế hệ trẻ đã làm hao hụt đi mức dự trữ hiện tại[1]. Thành tích phát triển kinh tế của Singapore thường được nôm na so sánh như hình ảnh một chiếc cốc lớn chỉ chứa đầy 85% dung tích, nhưng các nhà phê bình thường có khuynh hướng chú trọng đến cái phần 15% còn thiếu. Nhiều viện nghiên cứu danh tiếng từng bày tỏ mối quan ngại về chủ trương của Quỹ dự phòng quốc gia Singapore, theo đó, một kế hoạch lập quỹ tiết kiệm bắt buộc của mỗi cá nhân khởi điểm chính là thu nhập về hưu của cá nhân đó. Theo nhận xét của họ, việc định hướng lại sau này đối với các kế hoạch tài trợ trên diện rộng cho quyền sở hữu nhà ở có thể dẫn đến hậu quả lượng tiền mặt dự trữ không đủ và nguồn tiền dự trữ dành chi trả cho những người về hưu có khả năng thiếu hụt. Một số người khác còn nhấn mạnh rằng vai trò thống lĩnh của các doanh nghiệp nhà nước cùng sự chỉ đạo của nhà cầm quyền trong nền kinh tế có thể gây cản trở cho các doanh nghiệp cá thể địa phương đang có nhiều đổi mới, mà yếu tố này lại chính là động lực then chốt tạo nên đà tăng trưởng trong các nền kinh tế đã phát triển như Singapore. Nhiều quan sát viên cũng phàn nàn và cho rằng việc quá xem trọng các bài thi viết dựa theo truyền thống phong kiến cổ xưa, rất có thể làm thui chột đi tính sáng tạo trong giáo dục.
Những thiếu sót về mặt chính sách trong bối cảnh Singapore có thể xem như là những thách thức mới không thể không nảy sinh khi hoàn cảnh phát triển tự nhiên. Các khuyết điểm bộc lộ phát đi tín hiệu cho thấy cần phải xác định lại các sách lược một cách lâu dài. Chính phủ không thể tập trung nỗ lực vào tất cả mọi vấn đề cùng một lúc, mà cần phải tuần tự tiếp cận từng vấn đề một. Thật ra, chính quyền Singapore, hầu như luôn bị ám ảnh với chính vị thế tranh đua của mình khi tìm cách điều chỉnh các sách lược phát triển đã đưa ra nhằm đối phó với những thách thức mới đang bắt đầu ló dạng. Thành tựu của quá khứ có thể trở thành chướng ngại của tương lai là như vậy. Cho nên, những thay đổi về mặt chính sách mang tính thực tiễn sẽ giải quyết được mọi vấn đề, trừ phi thời gian tiên quyết cần phải có lại quá dài lâu – giống như một con tàu chở nặng dầu, cần phải chạy hàng hải lý để lấy đà đổi hướng lộ trình. Thêm một liên tưởng nữa, liệu vị giáo sư có thể nào ngủ ngon giấc khi đứng trước thực trạng là một câu hỏi do ông đặt ra sẽ không chỉ có một câu trả lời hay mà là nhiều câu trả lời cũng hay như thế?

Trong sách, chúng tôi xem xét yếu tố thời gian, tiến trình thưc hiện và quá trình phát triển các chính sách của nhà nước Singapore theo từng thời kỳ. Hình ảnh chiếc cốc Singapore chỉ chứa đầy 85% dung tích, như được liên tưởng, có thể mang lại cho các quốc gia khác một sự chiêm nghiệm thú vị.

THÀNH TỰU KINH TẾ SINGAPORE - CÁI GIÁ PHẢI TRẢ QUÁ CAO?

Theo quan điểm của những người không tán thành, kỳ tích tăng trưởng của Singapore không nên vượt lên quá sức, chỉ do một nguyên nhân hết sức khác biệt: các nguyên tắc đạo đức xã hội từng góp sức định hình nên sách lược phát triển của đất nước nay đang dần trở nên đối lập với khuynh hướng nghiêng về các hình thái đạo đức xã hội khác, đồng thời cũng là khuynh hướng của nhiều người dân Singapore hiện nay. Nhiều người không thuộc quốc gia này thường phản ứng trước các bản án tử hình đối với những tội danh như buôn bán ma túy hay sát nhân. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với chính sách gia trưởng hà khắc trong các chiến dịch giáo dục cộng đồng và cho rằng chính phủ đang vượt quá quyền hạn hoạt động chính trị. Nhiều người cho rằng, chính quyền – chứ không phải một cá nhân nào khác hay gia đình của họ – phải thực thi trách nhiệm hỗ trợ tài chính cho người thất nghiệp và người có tuổi. Mọi sự câu thúc đối với tự do báo chí đều bị phản đối. Các nghiệp đoàn lao động phải được vòng tay chính quyền nâng đỡ. Nhiều người tỏ ra không hài lòng trước các phương cách mà chính quyền đang sử dụng nhằm đạt tới một chính thể, mà theo họ, trên thực tế chỉ là nền dân chủ một đảng. Những sự phẫn nộ vì bất đồng ý kiến được bày tỏ công khai đã làm phát sinh một nền văn hóa từng được mô tả là "cằn cỗi" cho dù Singapore đang ngày càng cởi mở và đầy sức sống hơn.

Tuy nhiên, khi bàn đến yếu tố thành tích đạt đến đỉnh cao – vấn đề mà các hình thái xã hội dân chủ thường mong đạt được – thì Singapore đang ghi điểm rất cao. Quyền sở hữu tài sản được đảm bảo. Mọi cá nhân đều được chính quyền, nhân viên công quyền, và cộng đồng xã hội che chở không để bị bóc lột. Tỷ lệ tội phạm thấp trong khi tính trung thực trong lĩnh vực cộng đồng lại cao. Những biểu hiện đặc quyền đặc lợi dựa dẫm vào sự ưu đãi hay vị thế xã hội giờ đây ít bộc lộ. Mọi cá nhân đều được tạo nhiều cơ hội vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Bình đẳng giới tính đạt mức trung bình so với tiêu chuẩn chung. Việc trọng dụng nhân tài được chú trọng trong tuyển dụng và đề bạt. Mức thuế thấp nếu so với các quốc gia có mức thu nhập tương tự. Sự phân biệt chủng tộc, sắc tộc hay tôn giáo, trên thực tế đều bị lên án về mặt luật pháp và bị hạn chế, mặc dù có thể không hoàn toàn bị loại trừ. Chính quyền luôn tuân theo các điều luật đã được ban hành rộng rãi – do chính quyền soạn thảo lúc đầu, sau đó các thành viên nội các bổ sung – và các điều luật này được đưa ra đệ trình vào các cuộc bầu cử theo định kỳ mà chính quyền luôn biết là sẽ chiếm ưu thế đắc cử, cho dù không biết tỷ lệ chính xác là bao nhiêu, và cũng thừa biết là những người theo chủ nghĩa thực tế sẽ chống đối.

Nhược điểm là ở chỗ đó. Sách lược phát triển của Singapore từng được sự ổn định chính trị làm hậu thuẫn. Trật tự chính trị đã thành hình trong khuôn khổ một nền dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng chính trị duy nhất – Đảng Nhân dân Hành động (PAP), lên cầm quyền từ năm 1959. Các cuộc bầu cử đa đảng theo định kỳ đã diễn ra, quyền tự do ngôn luận và tự do chống đối đều được thông qua, dù chỉ trong khuôn khổ giới hạn, đã cho thấy việc củng cố một chính quyền mạnh mẽ, có khả năng dẫn dắt dân chúng đi đến một sự đồng thuận đối với các chính sách đúng đắn. Đối với những người phương tây, những người đã từng dấn mình vào một quá trình phản kháng nhằm chống lại quyền lực của một chế độ độc tài, thì quyền tự quyết và phát ngôn bằng cách công khai tập hợp thành nhiều nhóm trong xã hội là những giá trị rất được yêu chuộng. Theo truyền thống đất nước Trung Quốc – nơi 78% dân chúng Singapore có mối liên hệ huyết thống – nơi chính phủ về mặt lịch sử đã định hình một đường lối chính trị, áp dụng quyền kiểm soát, và trông đợi vào sự tuân phục của dân chúng thay vì ra lệnh, thì mặt được (hay nói cách khác là những lợi ích) và mặt chưa được (hay nói cách khác là cái giá phải trả) của sự thống trị một đảng tỏ ra hết sức chênh lệch, không chỉ do những người cầm quyền, mà cũng còn do đại bộ phận dân chúng, nếu nhìn vào các biểu hiện xã hội đang diễn ra.

Liệu có chăng mối tương quan giữa thành tựu kinh tế và một nền dân chủ tự do? Tầng lớp chóp bu cầm quyền tin rằng điều này là có thể. Theo quan điểm của họ, "chủ nghĩa độc đoán mềm dẻo" và kỷ luật tự giác tập thể đã góp phần tạo nên một thành tựu kinh tế lớn mạnh cùng sự tăng tốc nhanh chóng để đuổi kịp các nước phương Tây, và cho rằng điều này không hề gây cản trở cho nền tự do dân chủ, nhưng thực tế này khó có khả năng diễn ra trong bối cảnh lịch sử đặc thù của Singapore. Nội dung sách cho thấy các yếu tố đặc thù của Singapore như thành quả kinh tế, các chính sách, cơ cấu chính trị và kinh tế, mọi quan điểm, mọi nguyên tắc đạo đức xã hội cùng sự lãnh đạo của chính quyền, tất cả là một sự hòa quyện hết sức chặt chẽ. Đoàn kết nội bộ vô cùng mạnh mẽ và sự củng cố mang tính bổ sung lẫn nhau, trải qua một thời gian dài, đã giải thích cho những thành quả đầy ấn tượng mà đất nước này gặt hái được. Một số người bị ám ảnh bởi thành tựu trên và cho rằng đó cũng chính là sách lược chặt chẽ mà Đảng Nhân dân Hành động (PAP) đã và đang ra sức bảo vệ.

Mỗi hình thái xã hội khác nhau sẽ tạo ra thế cân bằng xã hội một cách khác nhau. Thế hệ trẻ tuổi hơn ở Singapore có lẽ cũng phải làm như vậy. Khi Singapore bắt kịp với mức thu nhập của các quốc gia tiên tiến, thì đất nước này càng lúc càng phải đối mặt với mức độ công khai dân chủ đang phổ biến ở các quốc gia đó. Một điều chắc chắn, mọi người dân Singapore đều cảm thấy được quyền tự do quyết định tốc độ và phương hướng phát triển nào mà họ cảm nhận là phù hợp với xã hội của mình. Nhưng các giá trị đạo đức xã hội và mọi khát vọng của người dân Singapore, đặc biệt là ở thế hệ trẻ tuổi hơn, cùng sự giàu có sung túc và nền tảng giáo dục đất nước, tất cả dường như đang có chiều hướng thay đổi. Thành tựu kinh tế rực rỡ đối lập với nghịch cảnh nghèo khó diễn ra trong thời kỳ nhiều biến động của thế hệ cha ông, giờ đây đang chìm dần vào quá khứ xưa cũ, theo cách nhìn của lớp người trẻ hiện nay. Đối với họ, một xã hội văn minh ít cấm đoán và một trật tự xã hội bền vững đều có thể cùng tồn tại ở đất nước Singapore vào thế kỷ thứ 21. Bên cạnh đó, tính chất cấp bách đòi hỏi sự đổi mới và tính sáng tạo – mà nhờ đó nền kinh tế phát triển kéo theo tăng trưởng kinh tế liên tục – sẽ đặt ra những yêu cầu cụ thể đòi hỏi phải có nhiều sự công khai hơn nữa.

Càng có nhiều cuộc tranh luận xã hội bày tỏ bất đồng ý kiến diễn ra công khai hơn thì lại càng làm gia tăng nội lực cho đất nước Singapore hơn. Chính quyền đã từng hoài nghi rằng sự tiết lộ quá nhiều về khả năng tài chính quốc gia, hay nói khác đi, chính chủ nghĩa cơ hội của tầng lớp báo giới thích gây khó khăn, dường như đang làm xói mòn đi sự nghiệp dài lâu của chính quyền trong việc huấn thị cho quần chúng biết hướng đến những nguyên tắc chấp hành kỷ luật và các chính sách chỉ đạo. Tuy nhiên, kỳ tích phát triển kinh tế vô cùng ngoạn mục của Singapore, trong bối cảnh vừa phải gìn giữ các mối dung hòa xã hội vừa phải xây dựng chính sách thuế và chi tiêu để có thể dễ dàng đối đầu với các thách thức tài chính luôn chực chờ đe dọa – một đường lối tỏ ra ưu việt so với bối cảnh những xã hội khác nơi mà lớp người có tuổi gia tăng nhanh chóng và đất nước thì không có sẵn nguồn lợi xuất khẩu dầu hỏa – đã chứng tỏ sự sáng suốt của các nhà lãnh đạo quốc gia. Người dân Singapore, ngay cả những công dân trẻ tuổi, đều nhận thức được thế yếu về mặt kinh tế của nước nhà trong cuộc cạnh tranh toàn cầu hết sức gay gắt và cũng hiểu rằng đất nước cần phải có những sách lược tài chính đúng đắn. Giống như nhiều bậc cha mẹ của những người đang độ tuổi trưởng thành, chính quyền Singapore có thể sẽ ngạc nhiên về việc dân chúng cứ yêu sách về việc được biết thêm những thông tin về khả năng tài chính của quốc gia và muốn sự công khai được nhiều hơn.

ĐỊNH HƯỚNG VÀ KIẾN TẠO CHO SỰ THỊNH VƯỢNG

Một sự thịnh vượng có định hướng là vấn đề tâm huyết của Singapore. Đây là một nhận định mạnh mẽ của cá nhân tôi. Chúng ta không thể lãng quên bao khát vọng của dân tộc Malaysia, dân tộc Ấn Độ, và cộng đồng người dân Trung Hoa đã góp phần tạo nên một đất nước Singapore, cũng không thể quên đi bề dày văn hóa và di sản đầy tính đặc thù của các dân tộc này, cũng như bản thân tôi không thể gièm pha mọi giá trị tinh thần, văn hóa, hay những giá trị đạo đức đầy tính nhân văn của các gia tộc người Singapore. Tuy nhiên, sự phát triển mang tính sáng tạo bền bỉ chính là tính cách tiêu biểu mà một xã hội như Singapore luôn phản ánh ra với thế giới bên ngoài.

Hãy cùng điểm qua lĩnh vực kinh tế. Một mục tiêu chung nhằm đạt tới sự phồn thịnh đã thôi thúc mọi nỗ lực của dân chúng Singapore nhiều hơn so với trường hợp các quốc gia khác. Một số người dân Singapore có thể không hài lòng về việc tôi hay nhấn mạnh đến động lực làm giàu của đất nước họ. Nhưng cuối cùng, thành công rất đáng ghi nhận là mọi nỗ lực lớn lao của người dân đều tập trung vào việc vun đắp nên một mối liên kết xã hội chặt chẽ mà ở đó mỗi cá nhân đều luôn thấm nhuần tinh thần trách nhiệm cùng ý thức về bổn phận công dân. Phát triển trong lĩnh vực sân khấu, âm nhạc và nghệ thuật của đất nước này cũng gây được nhiều ấn tượng. Nội dung sách không chủ ý đánh đồng và quy mọi giá trị thành tựu mà Singapore đang có là do bị yếu tố tiền bạc chi phối. Thay vào đó, tôi đưa ra một cách nhìn là chính sự chú trọng quá mức vào việc phải đạt cho bằng được sự thịnh vượng bền vững đã tự nó hàm chứa một sức mạnh duy lý trí trong công cuộc xây dựng quốc gia và các mục tiêu phát triển khác của đất nước này. Nhà cầm quyền Singapore luôn ra sức huấn thị cho mọi người dân một lòng tin sùng bái hết sức thế tục trong việc đua nhau chạy theo sự giàu có thịnh vượng. Lộ trình đi đến thiên đường được vạch ra với một nền công nghiệp ưu tiên cho xuất khẩu bằng việc đón mời các tập đoàn đa quốc gia đến hoạt động tại Singapore. Và bây giờ, đến lượt sự ổn định cần thiết về mặt xã hội và chính trị đòi hỏi sự hỗ trợ ngược lại của sự hòa hợp tôn giáo và sắc tộc, cùng sự phân chia đồng đều các phúc lợi xã hội thông qua việc tạo ra những cơ hội bình đẳng. Các chính sách đúng đắn đã mang đến nhiều sự động viên khích lệ và tạo cơ hội cho việc đạt tới thành tựu ở một mức cao hơn, cho phép tầng lớp cao cấp và đại bộ phận người dân Singapore cùng tồn tại và phát triển.

Ngành kỹ thuật là trọng tâm của Singapore. Không chỉ vì đây là một trong những quốc gia công nghiệp điện tử kỹ thuật cao hàng đầu có mối liên kết hợp tác với phần lớn các nước trên thế giới, mà đây còn là nơi các sách lược kinh tế được áp dụng theo một khuôn mẫu luôn ổn định[2]. Lòng đam mê theo đuổi mục tiêu thịnh vượng chung của tầng lớp có thế lực chính trị đòi hỏi phải có một sự liên kết chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành mang đầy tính đặc thù: yếu tố chính sách và cơ cấu quản lý đi cùng với yếu tố quan điểm và hiểu biết chính trị, nhằm thiết lập một cơ chế hoạt động tinh vi đạt hiệu quả cao, và thêm nữa lại luôn đòi hỏi sự hoàn thiện không ngừng. Ý thức kỷ luật sẵn có trong đạo đức nghề nghiệp đi kèm sự vui lòng tự nguyện hạn chế mức tiêu dùng của người dân, sự đột phá cạnh tranh thị trường, việc trọng dụng nhân tài trong khoa cử và các ngành dân sự, tính trung thực trong cộng đồng, một nền luật pháp và các điều luật ban hành, tất cả mọi yếu tố này đều là những tác nhân bôi trơn cần thiết. Đây chính là một sách lược sáng suốt: học thuyết và cách ngôn cùng song hành trong các chính sách phát triển, trong cơ cấu quản lý; và việc thực thi một nền kinh tế chính trị cùng các giá trị hiện hữu của nó đã được xem xét một cách thấu đáo, được tiếp nhận, được điều chỉnh theo đúng thực tiễn, và được theo dõi nhằm đúc kết ra một qui trình phát triển hợp lý, căn cứ vào những hoàn cảnh đặc thù của Singapore và những thành quả thật sự có được.

THÀNH CÔNG CỦA SINGAPORE LÀ ĐỘC NHẤT?

Nhiều người có thể cho rằng thành công của Singapore không phải là duy nhất. Một số không nhiều các nền kinh tế quốc gia khác, như Nhật Bản và các nước thuộc địa trước đây của nước Nhật là Đài Loan và Hàn Quốc, cũng từng đạt được nhiều thành quả kinh tế không kém rực rỡ. Thành quả phát triển của Malaysia, của Chile, hay Boswana, và các quốc gia khác, không kể Trung Quốc và Ấn Độ, cũng xứng đáng được đưa ra nghiên cứu cặn kẽ. Cách nhìn nhận này không gây phản cảm. Trên thực tế, một nghiên cứu mở đường của Ngân hàng Thế giới vào năm 1993 đăng tải trong tập "Phép mầu Đông Nam Á", đã ghi nhận rất nhiều trường hợp các quốc gia thành công vì đã biết tìm ra cách thức để có thể đưa vào ứng dụng một số nguyên tắc căn bản, cho dù nhũng nguyên tắc này đôi khi hoàn toàn khác biệt về mặt hình thái. Các quốc gia đạt mức tăng trưởng cao và bền vững thường áp dụng các biện pháp khác nhau. Tương đồng về mức thu nhập không có nghĩa là các chính sách và cơ cấu quản lý mang tính đặc trưng của mỗi nước cũng đòi hỏi phải giống nhau. Nghệ thuật sáng tạo nên những sách lược tăng trưởng hiệu quả, như Ngân hàng Thế giới từng nhấn mạnh, nằm ở chính sự cân nhắc hết sức cẩn trọng các yếu tố đặc thù của quốc gia mình, mọi vận hội, và cả sự phản kháng, nhất là trong phạm vi chính trị. Không có con đường nào duy nhất dẫn đến thành công[3]. Singapore chỉ là một trường hợp duy nhất làm nên lịch sử.

NỘI DUNG SÁCH

Chương 1 phác họa sơ nét thành tích phát triển của Singapore, đồng thời dựa trên phương pháp phân tích mức tăng trưởng, để phân tích tỷ lệ tăng trưởng đạt mức bình quân 8% hàng năm trong suốt bốn thập niên vừa qua, theo năm nguyên nhân có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất: tầm quan trọng của việc hình thành nguồn vốn vật chất lúc ban đầu nhưng về sau vai trò này càng giảm dần cùng với sự gia tăng năng suất, sẽ được đề cập trong chương này. Thứ hai: tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán ghi nhận khoản ngân sách thiếu hụt trong suốt hai thập niên đầu sau khi giành độc lập vẫn duy trì ở mức ổn định. Thứ ba: mức dự trữ quốc gia không ngừng gia tăng theo những mức độ phi thường. Thứ tư: nguồn tài sản tích lũy từ nước ngoài gia tăng một cách mau chóng trong hai thập niên cuối đã mang đến cho Singapore nguồn thu nhập bổ sung đáng kể từ nước ngoài. Thứ năm: nền kinh tế quốc nội trong thời gian này vẫn tiếp tục có những bước chuyển biến mới.

Chương 2 đưa ra phân tích những hoàn cảnh tự nhiên mà Singapore phải đối mặt vào thời điểm năm 1965 khi đất nước giành được độc lập. Điều kiện tự nhiên về mặt địa lý và hoàn cảnh lịch sử đã mang lại cho đất nước này những thế mạnh và trở ngại gì? Có phải Singapore đã khởi đầu ở một vị thế tương đối thuận lợi? Hoặc đất nước này đã chơi rất hay một ván bài được chia thông qua các sách lược kinh tế nhạy bén và một cơ cấu quản lý hoạt động hiệu quả?

Chương 3 nghiên cứu các chính sách làm hậu thuẫn cho nguồn lực tăng trưởng kinh tế gần đây của Singapore, đồng thời trình bày bốn nguyên tắc căn bản trong việc thiết lập nên các chính sách tăng trưởng kinh tế đúng đắn, phần nào giúp cho các quốc gia khác có thể liên hệ vận dụng trong nền kinh tế riêng của đất nước mình. Chương này cũng cho thấy các chính sách đa dạng ở Singapore (về thuế quan, mức dự trữ bắt buộc, về tiền tệ và tỷ giả hối đoái, về lương bổng, giáo dục, y tế và giao thông) có thể góp phần làm sáng tỏ vai trò quan trọng của bốn nguyên tắc căn bản này như thế nào. Các chính sách được thi hành đã cho thấy một điều hết sức cần thiết là phải kịp thời ra tay trấn áp mọi biểu hiện chống đối một khi chúng manh nha xuất hiện. Sự quản lý khắt khe của chính quyền về mặt kinh tế, như một tính cách đặc thù của Singapore, sẽ được đề cập ở một chương riêng.

Chương 4 đặt vấn đề tìm hiểu xem các chính sách đúng đắn đã được thực thi như thế nào ở đất nước Singapore. Rất nhiều quốc gia đã từng vạch ra các chính sách hết sức tốt đẹp, đôi khi được sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng lại gặp nhiều thất bại khi đưa ra thực hiện. Các chính sách ở Singapore đã có một cơ cấu quản lý thích hợp đứng làm hậu thuẫn: một bộ máy điều hành đạt hiệu quả, những điều luật ban hành nghiêm ngặt, và một guồng máy xã hội vận hành đúng chức năng, tất cả đã góp phần mang lại một nền tảng chính trị hết sức ổn định. Và rồi đến lượt các cơ cấu tổ chức chính quyền này quay lại tiếp nhận những giá trị đạo đức xã hội hết sức quý giá, cũng chính là vấn đề mà chính phủ luôn quan tâm khuyến khích.

Chương 5 đưa ra nghiên cứu một nền kinh tế chính trị đã góp phần hình thành nên các cơ cấu quản lý chính quyền ủng hộ cho sự tăng trưởng. Tại sao và làm thế nào mà Singapore lại thành công trong việc thiết lập nên các chính sách quản lý tăng trưởng đạt nhiều hiệu quả, trong khi các quốc gia khác lại gặp thất bại? Một lời giải đáp có thể gợi nhiều chú ý, đó chính là vì tầng lớp lãnh đạo cao cấp đã nhận thức được rằng việc phân bố rộng khắp các nguồn phúc lợi có được từ sự tăng trưởng kinh tế cũng chính là quyền lợi của chính họ. Những nguyên tắc sách lược và chiến lược nào đang được chính quyền Singapore theo đuổi, và những quốc gia khác có thể liên hệ vận dụng những nguyên tắc căn bản này hay không?

Chương 6 cùng lúc đưa ra trình bày những chiều hướng tác động khác nhau đồng thời nhấn mạnh đến những triển vọng và thách thức đối với thành tích tăng trưởng sau này của Singapore. Những mặt khiếm khuyết của một nền dân chủ tự do đang làm các nhà phân tích phương Tây quan ngại, nhưng việc gìn giữ được sự dung hòa các chủng tộc và đối phó với tình trạng nhập cư mới thật sự đang là mối quan tâm hiện nay của nhiều người dân Singapore. Chúng tôi kết thúc chương này bằng việc rút ra những bài học kinh nghiệm mà các quốc gia khác có thể vận dụng xem xét.

Tôi luôn cố gắng làm cho nội dung sách trở nên hấp dẫn hơn đối với số đông độc giả khi phải đề cập đến những khái niệm mang tính chuyên môn. Do đó, những nội dung chi tiết nặng tính học thuật sẽ được bổ sung về mặt ngữ nghĩa ở phần chú dẫn. Những đề mục chú thích này cũng đồng thời cung cấp một lượng thông tin hữu ích, là một công cụ tham khảo đắc dụng nhằm hỗ trợ cho quý độc giả trong những công việc nghiên cứu khác, kể cả việc đúc kết ra những bài học kinh nghiệm cụ thể khi so sánh thành quả kinh tế của Singapore và của những quốc gia khác. Sau khi nghiên cứu sách, độc giả có thể dễ đi đến một nhận xét rằng Singpore là một nơi chốn hết sức độc đáo và khác thường. Tôi gieo một niềm hy vọng là nơi chốn này sẽ ngày càng được mọi người hiểu biết rõ hơn, khi nó đang thể hiện ra với thế giới bên ngoài tất cả những giá trị nội tại lớn lao của đất nước mình.


[1] Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2005), trang 15.

[2] Năm 2005, báo cáo của tờ Công nghệ thông tin toàn cầu thuộc Diễn đàn kinh tế thế giới đã xếp Singapore đứng đầu trong 115 quốc gia đưa vào ứng dụng các thành tựu phát triển Công nghệ thông tin và truyền thông. Xem trang web http://www.wereform.org/site/homepublic.nsf/ content.

[3] Ngân hàng Thế giới (1993) và Ngân hàng Thế giới (2005b), trang 78.