Bài Ca Tư Tưởng

Chương XII

Docsach24.com
gay khi được đọc quyển sách đầu tiên tìm thấy trong ngôi nhà, tôi thấy từ “tôi.” Và đến khi hiểu được cái từ ấy, quyển sách rơi khỏi tay, và tôi khóc, tôi-kẻ chưa từng bao giờ biết đến nước mắt. Tôi đã khóc trong sự giải thoát và trong niềm thương xót đối với con người.

Tôi hiểu được cái điều phúc mà tôi đã gọi là lời nguyền của tôi. Tôi đã hiểu được tại sao những gì tốt nhất của tôi lại trở thành tội lỗi và phạm giới; và tại sao tôi không bao giờ có cảm giác tội lỗi đối với lỗi lầm của mình. Tôi đã hiểu được rằng nhiều thế kỷ của xiềng xích và roi vọt không hề hủy diệt được tinh thần của con người cũng như cảm nhận về sự thật trong anh ta.

Tôi đọc rất nhiều sách trong nhiều ngày. Rồi tôi gọi Kim Nhân, và tôi nói với cô ấy rằng tôi đã đọc và tôi đã hiểu. Cô ấy ngước nhìn tôi và từ đầu tiên mà cô ấy thốt ra là:

“Em yêu người.”

Rồi tôi nói:

“Người thương quý nhất của ta, thật không phải lối chút nào khi con người ta không có tên. Đã từng có một thời trong đó mỗi người có một cái tên để phân biệt anh ta với những người khác. Vậy thì hãy chọn tên cho chúng ta. Ta có đọc về một người đã sống cách đây nhiều ngàn năm, và trong số rất nhiều tên trong mấy quyển sách này thì tên của người đó là cái tên mà ta thích nhất. Anh ta đã lấy ánh sáng của các vị thần để trao cho loài người, và anh ta chỉ cho loài người cách để trở thành thần thánh. Và anh ta đã phải chịu hình phạt nặng nề. Tên anh ta là Prometheus.”

Kim Nhân nói, “Đó thực đúng là tên của người đó.”

Tôi nói tiếp, “Ta cũng có đọc về một vị nữ thần. Người này là mẹ của trái đất và của tất cả các vị thần. Tên bà là Gaea. Hãy dùng nó làm tên của em đi, Kim Nhân, vì em đang sắp là mẫu thân của một loại thần thánh mới.”

“Vâng,” Kim Nhân nói, “đó sẽ là tên của em.”

Giờ tôi đang nhìn ra phía trước. Tương lai đang rỡ ràng trước mắt tôi. Vị thánh giàn thiêu đã nhìn thấy tương lai khi anh chọn tôi làm kẻ kế tục của anh, như kẻ truyền thừa của tất cả các thánh thần và những vị thánh tử vì đạo trước anh, đã chết với cùng duyên do, cho cùng một từ ngữ, bất luận họ gọi động cơ và sự thật của họ là gì.

Tôi sẽ sống ở đây, trong ngôi nhà của riêng tôi. Tôi sẽ tìm thức ăn từ đôi bàn tay của mình. Tôi sẽ học được nhiều điều kỳ bí từ các quyển sách của tôi. Trong nhiều năm tới, tôi sẽ tái lập lại những thành tựu của quá khứ, mở lối cho chúng được mang đi xa hơn, những thành tựu được mở ra cho tôi nhưng bị đóng lại trước các đồng chí của tôi, vì trí tuệ của họ bị ngăn cản bởi những con người u tối và đớn hèn nhất trong số họ.

Tôi được biết là cái năng lượng của bầu trời mà tôi đã khám phá thấy đã được con người biết đến từ lâu lắm rồi; họ gọi đó là điện năng. Đó là thứ năng lượng đã đưa họ đến với nhiều phát minh vĩ đại nhất. Nó thắp sáng ngôi nhà với thứ ánh sáng đến từ mấy quả cầu thủy tinh treo khắp nơi trên tường. Tôi đã tìm thấy động cơ sản sinh ra ánh sáng này. Tôi sẽ học cách sửa chữa nó để nó hoạt động trở lại. Tôi sẽ học cách sử dụng những dây dẫn để chúng truyền tải thứ năng lượng đó đi. Rồi tôi sẽ dựng nên một rào cản bằng dây dẫn xung quanh nhà cũng như dọc theo mấy con đường dẫn về nhà, một rào cản có đèn, chằng chịt như lưới nhện nhưng khó thể vượt qua như thể đó là một bức tường hoa cương, một rào cản khiến các đồng chí của tôi không bao giờ có thể vượt qua được. vì họ chẳng có gì để chiến đấu với tôi, ngoài sức cưỡng ép man rợ của những con số họ mang. Còn tôi có trí tuệ của riêng mình.

Rồi thì nơi đây, ở đỉnh cao này, với thế giới bên dưới và không gì bên trên ngoài mặt trới sáng lộng, tôi sẽ khiến sự thật của chính tôi được dưỡng nuôi. Gaea đang có mang. Con trai tôi sẽ được lớn lên thành người. Nó sẽ được dạy để nói cái từ “Tôi” và để tự hào về điều ấy. Nó sẽ được dạy để bước đi thẳng thắn trên chính đôi chân của mình. Nó sẽ được dạy để biết tôn phục trí tuệ của chính mình.

Một khi tôi đã đọc xong hết các quyển sách và đã biết được con đường mới mẻ để đi, khi nhà tôi đã sẵn sàng và đất đai của tôi đã được trồng tỉa tốt tươi, tôi sẽ bỏ ra một ngày, một lần cuối cùng, để trở lại thành phố bị nguyền nơi tôi đã sinh ra. Tôi sẽ gọi các bạn của tôi, những người không có tên gì khác ngoài Quốc tế 4-8818, và những ai giống như anh ta, như Liên hiệp 2-5503 kẻ cứ khóc lên không biết vì sao, và Đoàn kết 9-6347 người vẫn hàng đêm kêu la cầu cứu, cùng một số ít người khác. Tôi sẽ gọi những người đàn ông và đàn bà mà tinh thần nội tại của họ không hề bị hủy diệt nhưng đang chịu lầm than dưới sự đàn áp của các đồng chí của mình. Họ sẽ theo tôi đi về thành lũy của tôi. Và ở đây, giữa chốn hoang vu này, tôi và họ, những bạn bè do tôi lựa chọn, những người bạn đồng hành của tôi, sẽ cùng nhau viết nên chương đầu tiên trong tập sử ký mới của nhân loại.

Đó là những điều ở phía trước. Và khi tôi đứng đây, ngay ngưỡng cửa của hào quang, tôi nhìn lại một lần chót những gì ở phía sau. Tôi nhìn lại lịch sử loài người mà tôi đã đọc được từ các quyển sách, và tôi phân vân. Đó là một câu chuyện dài, và cái tinh thần đã khiến nó tiến ra phía trước chính là tinh thần tự do của con người. Thế nhưng tự do là gì? Tự do là không bị ràng buộc. Không bị ràng buộc bởi cái gì? Không gì có thể lấy đi được tự do của một người, ngoại trừ những người khác. Để có tự do, con người ta phải được thoát khỏi sự ràng buộc của các đồng chí của mình. Đó là tự do. Nó là như thế, chứ không là gì khác.

Thuở sơ khai, con người bị nô dịch bởi thánh thần, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích. Rồi anh ta trở thành nô dịch cho các vương tướng. Nhưng anh ta cũng bẻ gãy được xiềng xích. Anh ta bị nô dịch bởi sự sinh thành của mình, bởi giòng giống, chủng tộc của anh ta. Nhưng anh ta cũng bẻ gãy được xiềng xích. Anh ta tuyên bố với xung quanh rằng không một ai, từ thánh thần, vương tướng, cho đến những người khác, bất kể họ mang số gì, được tước đi những quyền của con người, vì đó là quyền làm người mà không một quyền nào trên trái đất này được đứng trên quyền ấy. Và anh ta đã đứng đó, ngay ngưỡng cửa của tự do mà vì nó máu của hàng bao thế kỷ trước anh ta đã đổ.

Nhưng rồi anh ta lại từ bỏ mọi thứ đã giành được, để rơi xuống thấp hơn cả thời khởi đầu mông muội của mình.

Điều gì đã khiến chuyện ấy xảy ra? Thảm họa nào đã lấy đi tính hợp lý của nhân loại? Ngọn roi nào đã buộc họ phải quỳ gối trong tủi hổ và phục tùng? Đó là sự tôn thờ chữ “Chúng ta.”

Khi nhân loại chấp nhận tôn thờ ấy, những kiến tạo qua nhiều thế kỷ đổ sụp xung quanh họ, những kiến tạo đã vụt sáng lên từ suy tưởng của một người nào đó, trong một ngày nào đó, từ sâu thẳm bên trong tinh thần của họ, tinh thần ấy đã tồn tại chỉ vì chính nó. Những người sống sót-những người vui sướng vì phục tùng, vui sướng được sống vì người khác, vì họ không có gì khác để chứng tỏ mình-những người đó không thể tiếp tục thực hiện cũng như bảo tồn những gì họ đã nhận được. Vì vậy mà toàn bộ di sản của loài người, từ khoa học cho tới tư tưởng đều bị tan biến khỏi trái đất. Vì vậy mà con người-những người không có gì khác để trao đi ngoài những con số hoành tráng của họ-đã đánh mất những tòa tháp bằng thép, những con tàu bay, những dây dẫn truyền năng lượng, toàn bộ những gì họ không hề tạo nên mà cũng chẳng thể duy trì. Có lẽ, sau đó, đã có một số người vốn dĩ được sinh ra với sự mẫn tuệ và lòng can đảm đã cho khôi phục lại những điều bị mất đi này; có lẽ những người này đã đến ngay trước thời của Hội đồng các Học giả. Họ đã được trả lời giống như tôi vừa được trả lời – và cho cùng những nguyên do.

Thế nhưng tôi vẫn tự hỏi làm sao có thể xảy ra được, vào những năm chuyển tiếp tối tăm vô đạo đó, cách đây đã lâu lắm rồi, làm sao người ta không nhìn ra được rằng họ đang đi đến đâu, để rồi cứ thế mà đi, trong sự mù quáng và đớn hèn, về phía cái định mệnh của họ. Tôi tự hỏi, vì tôi thật khó thể tưởng tượng được rằng những người đã biết đến cái từ “tôi” lại có thể bỏ cuộc dễ dàng mà không biết mình vừa đánh mất những gì. Nhưng chuyện đó đã diễn ra như thế, vì tôi đã sống trong thành phố đáng nguyền rủa ấy, và tôi biết những điều kinh khủng mà con người đã chấp nhận để chúng xảy tới cho họ.

Có lẽ, vào những ngày đó, đã có một số ít người, những người sáng mắt sáng lòng, đã không  chịu đầu hàng, không chịu chối bỏ cái từ ấy. Hẳn là họ đã phải đau lòng lắm từ trước những gì sắp xảy đến mà không thể ngăn chặn được! Có lẽ họ đã kêu gọi để cảnh báo và phản đối. Nhưng người ta không mảy may chú ý lời cảnh báo của họ. Và họ, cái thiểu số ít ỏi này, đã phải chiến đấu trong vô vọng, để rồi bị thảm sát với những tấm bích chương vương đầy máu của chính họ. Và họ đã chọn cái chết, vì họ đã biết trước. Đối với họ, tôi những muốn gửi đi lời chào qua nhiều thế kỷ, và lòng thương xót của tôi.

Giờ đây bích chương của họ đang nằm trong tay tôi. Và tôi ước mình có đủ sức để nói với họ rằng niềm khao khát trong tim họ chưa hề bị kết liễu, và đêm đen của đời họ không phải là không còn hy vọng. Vì cuộc chiến đấu mà họ đã thua cuộc không bao giờ bị thất trận lần nữa. Vì những gì mà họ đã hy sinh mạng sống để cứu lấy đó sẽ không bao giờ chết. Băng qua muôn trùng bóng tối với vô vàn nỗi đau mà con người đã gánh chịu, tư tưởng của nhân loại vẫn trường sinh trên trái đất này. Nó có thể ngủ quên ở đâu đó, nhưng rồi nó sẽ thức tỉnh. Nó có thể đang mang xiềng xích, nhưng một lúc nào đó chúng sẽ bị phá tan. Và người ta sẽ đi tiếp. Từng người một, chứ không phải cả bầy.

Nơi đây, trên đỉnh núi này, tôi và các con tôi, cùng những bạn bè được chọn lựa của tôi sẽ cùng xây dựng miền đất mới của chúng tôi và thành lũy của chúng tôi. Và nó sẽ trở thành trái tim của trái đất, dẫu đã có lúc lầm đường lạc lối, nhưng mỗi ngày qua cứ vẫn đập càng lúc cành mạnh. Và ngôn từ của nó sẽ vươn tới mọi ngóc ngách của thế giới. Và những con đường của thế giới sẽ trở nên giống như những mạch máu mang đến thành quách của tôi những điều tốt đẹp nhất. Và tất cả các đồng chí của tôi, những Hội đồng của họ sẽ nghe nói về nó, nhưng họ không thể chống lại tôi. Rồi ngày ấy sẽ đến khi tôi có thể bẽ gãy mọi gông xiềng trên trái đất này, giải thoát các thành phố khỏi sự nô dịch, và nhà tôi sẽ trở thành thủ đô của một thế giới trong đó mỗi một con người được tự do tồn tại vì chính bản thân anh ta.

Để có được ngày đó, tôi và các con tôi, những bằng hữu chọn lọc của tôi phải chiến đấu không ngơi nghỉ. Vì tự do của từng con người. vì quyền sống của anh ta. Vì sự vinh danh của chính anh ta.

Và nơi đây, phía trên cổng thành của tôi, tôi sẽ khắc vào đá một từ duy nhất, nó vốn là ngọn hải đăng và là bích chương của tôi. Cái từ ấy không bao giờ chết, dù cho tất cả chúng tôi có gục ngã trong chiến đấu. Cái từ ấy không thể chết đi được trên trái đất này, vì nó là trái tim, là ý nghĩa, và là hào quang tỏa sáng.

Cái từ thiêng liêng ấy là:

NGÃ.