Đến giữa thế kỷ XVII, tư tưởng Phục hưng đã lan rộng hầu khắp châu Âu. Người ta khám phá được nhiều điều mới về thế giới và con người.
Trong vòng vài trăm năm, người châu Âu đã chứng kiến những thay đổi lớn lao. Các tàu thuyền lúc này đi tới những vùng đất xa xôi, mang về hàng hóa và tri thức từ những nền văn hóa khác. Châu Âu chuyển sang một nền kinh tế tiền tệ, với nhiều thành phố, đô thị mới và rộng lớn hơn trước. Sách vở, sân khấu, nhạc kịch và văn hóa quần chúng đạt được những bước tiến lớn. Các bậc vua chúa và tầng lớp quý tộc sống trong những ngôi nhà sang trọng và thanh lịch, cách biệt với các tầng lớp còn lại trong xã hội. Các quan chức và công chức điều hành bộ máy chính quyền. Các nhà tư tưởng mới đưa ra những tư tưởng cấp tiến.
Cuộc sống đối với tất cả mọi người, cả người giàu lẫn người nghèo, lúc này rất khác trước. Người ta bắt đầu đặt câu hỏi và hoài nghi về tính đúng đắn của nhiều tư tưởng đã được thừa nhận. Những lời lẽ trong Kinh thánh hoặc của các triết gia Hy Lạp cổ đại không còn làm mọi người thỏa mãn. Nhiều người bắt đầu tin vào khả năng tự suy xét của mình. Cùng thời gian này, con người có nhiều khám phá mới về thế giới, bầu trời, các miền đất lạ và về chính con người. Người ta cảm thấy thôi thúc bởi nhu cầu kiểm chứng, nghiên cứu, thử nghiệm và thảo luận tất cả mọi điều, bất kể điều gì, nhu cầu vượt qua một ranh giới mới của tìm tòi khoa học. Cuộc cách mạng về phương pháp khoa học và lối tư duy được đặt tên là Thời đại Lý trí.
Các lữ khách tới Nhật Bản, Armenia, Mexico, bán đảo A rập và châu Phi để khám phá và kể về những phát hiện của mình. Các loại thuốc chữa bệnh mới (cũng như các bệnh mới) đến từ những miền đất xa xôi. Bác sĩ mổ tử thi để nghiên cứu các cơ quan nội tạng trong cơ thể và chức năng của chúng. Các nhà thực vật học sưu tầm và bắt đầu phân loại thực vật, các nhà hóa học thì thí nghiệm các hợp chất. Kính thiên văn, phong vũ biểu, đồng hồ quả lắc, máy tính cơ và bơm hơi, tất cả đều được phát minh trong thế kỷ XVII.
Các nhà toán học như Leibnitz và Descartes nghiên cứu sâu về hình học và các phép tính. Galileo và Newton nghiên cứu trọng lực và Kepler nghiên cứu chuyển động của các hành tinh. Tycho Brahe lập danh mục các vì sao, Snellius, Huygens và Grimaldi nghiên cứu về tính chất của ánh sáng, và Boyle nghiên cứu các loại khí. Các vật thể cơ học tuân theo một lôgíc hợp lý, và lô-gíc này cũng được áp dụng vào xã hội và đời sống chính trị của con người. Francis Bacon phát triển ý tưởng về một nhà nước hoàn hảo. Các nhà tư tưởng khác viết về chính quyền, về các quyền của con người và “khế ước” (thỏa thuận) giữa người cai trị và người bị trị.
Các tổ chức mới được thành lập để làm nơi thảo luận các tư tưởng nói trên. Viện Hàn lâm Pháp của Hồng y Richelieu được thành lập năm 1635. Các thành viên thời kỳ đầu của Hội (Khoa học) Hoàng gia ở Anh gồm nhà hóa học Robert Boyle, nhà vật lý học Isaac Newton, nhà viết nhật ký nổi tiếng Samuel Pepys và kiến trúc sư Christopher Wren. Trong các quán cà phê hoặc quán trà nghi ngút khói thuốc lá mọc lên ở khắp châu Âu, người ta thảo luận sôi nổi chưa từng có. Một cách suy xét sự việc mới mẻ, không mang tính tôn giáo mà dựa trên lý trí đang được hình thành. Các công trình khoa học của René Descartes, Isaac Newton, Francis Bacon, Galileo và nhiều người khác đã đặt nền tảng cho tri thức ngày nay của con người về thế giới.
1608 Hans Lippershey, chuyên gia nhãn khoa người Hà Lan, phát minh kính thiên văn đầu tiên
1609 Kepler trình bày quy luật vận động của hành tinh
1628 Harvey phát hiện vòng tuần hoàn máu
1635 Viện Hàn lâm Pháp được thành lập
1637 Descartes luận giải hình học giải tích
1644 Nhà khoa học Ý Evangelista Torricelli công bố lý thuyết về phong vũ biểu
1647 Pascal phát minh máy làm phép cộng
1657 Huygens chế tạo đồng hồ quả lắc
1660 Phong vũ biểu được dùng để dự báo thời tiết
1666 Newton phát biểu định luật hấp dẫn
1673 Leibnitz phát minh máy tính
1705 Edmund Halley dự đoán sao chổi xuất hiện lại năm 1758
1735 Carl Linnaeus phân loại động vật và thực vật
1742 Anders Celsius đặt ra thang đo nhiệt độ bách phân