Nội chiến Anh là chiến tranh giữa những người ủng hộ nhà vua và những người ủng hộ Nghị viện. Trong năm năm, nước Anh do nhà độc tài Oliver Cromwell cai trị.
Nội chiến Anh là cuộc chiến giữa những người ủng hộ vua Charles I và những người ủng hộ Nghị viện. Cũng như vua cha James I, Charles tin vào “quyền thiêng liêng” của nhà vua, cho rằng ông được Chúa Trời trực tiếp trao quyền cai trị. Lòng tin này khiến ông bất hòa với Nghị viện.
Năm 1625, Charles lên ngôi và ngay lập tức bắt đầu tranh cãi với Nghị viện về quyền của vua trong việc bắt giam những người chống đối, trong vấn đề tôn giáo và thuế má. Năm 1629, ông giải tán Nghị viện, cố gắng một mình cai trị nước Anh trong 11 năm.
Năm 1637, vua Charles bắt người Scotland phải theo nghi lễ thờ cúng của Anh giáo. Những người Scotland theo Tân giáo dòng Trưởng Lão (Presbyterian) liền nổi dậy, gây dựng quân đội, và vào năm 1640 đã chiếm một phần miền Bắc nước Anh. Vua Charles triệu tập lại Nghị viện nhằm yêu cầu chi tiền để đàn áp cuộc nổi dậy của người Scotland, nhưng Nghị viện đòi cải cách. Nội chiến nổ ra sau khi vua Charles định bắt năm nghị sĩ lãnh đạo chống đối. Năm 1642, giao tranh bùng nổ trên khắp đất nước giữa những người Bảo hoàng (ủng hộ nhà vua), được gọi là các Kỵ sĩ (Cavalier) và những người ủng hộ Nghị viện, được gọi là những người Đầu Tròn (Roundhead).
Vua Charles lấy Oxford làm thủ phủ, và trong thời gian đầu quân đội của ông chiếm ưu thế. Nhưng Nghị viện Anh, được quân đội Scotland ủng hộ, rốt cuộc lại mạnh hơn vì có tiền duy trì một đội quân chuyên nghiệp. Quân đội Kiểu Mới này do Huân tước Thomas Fairfax chỉ huy đã đánh bại quân của vua Charles ở Naseby năm 1645. Vua Charles đầu hàng năm 1646 sau khi Oxford rơi vào tay phe Nghị viện.
Vua Charles bị giam trên đảo Wight. Tại đây ông lại định bắt đầu chiến tranh một lần nữa, lần này với sự giúp đỡ của người Scotland. Giai đoạn hai của cuộc nội chiến bùng nổ khi những người Bảo hoàng nổi dậy và người Scotland có ý định xâm lược xứ Anh, nhưng không thành công. Năm 1648, những nghị sĩ vẫn có tư tưởng ủng hộ nhà vua đã bị Oliver Cromwell loại khỏi Nghị viện. Nghị viện, với số nghị sĩ ít ỏi còn lại, đã kết tội vua Charles làm phản và xử tử ông năm 1649.
Sau khi vua Charles bị xử tử, Nghị viện bãi bỏ chế độ quân chủ và Anh trở thành một Khối Thịnh vượng chung hay Khối Liên hiệp (Commonwealth). Nghị viện điều hành đất nước nhưng bất hòa với quân đội và các nghị sĩ bất đồng với nhau. Năm 1653, Oliver Cromwell nổi lên như một nhà lãnh đạo mạnh mẽ, cai trị nước Anh với cương vị là Huân tước Bảo quốc (Lord Protector). Ông xích mích với một số nghị sĩ và buộc phải cai trị đất nước với sự giúp đỡ của các tướng lĩnh quân đội. Ông tiến hành chiến tranh với Hà Lan để giành quyền buôn bán và quyền kiểm soát các vùng biển, nắm được quyền kiểm soát Ireland và lập kế hoạch mở rộng thuộc địa.
Chế độ độc tài của Cromwell không được toàn thể dân chúng ủng hộ do ông dùng vũ lực và đánh thuế cao. Nhưng ông đã ban hành các biện pháp cải cách giáo dục và làm cho người dân Anh bình đẳng hơn. Năm 1658, Cromwell mất, con trai ông là Richard lên cai trị Anh. Richard cai trị tồi và bị quân đội phế truất. Dân Anh lại muốn có nhà vua cai trị, nên năm 1660 con trai của Charles I lên ngôi, trở thành vua Charles II.