Kết thúc Chiến tranh Thế giới II, các cường quốc Đồng minh thắng trận chia nước Đức thành bốn vùng. Liên Hợp Quốc đã được thành lập để duy trì hòa bình trên thế giới.
Tiếp sau Hội nghị Yalta, việc phân chia nước Đức được ba cường quốc trong khối Đồng minh khẳng định tại Hội nghị Potsdam. Lúc này, Roosevelt đã qua đời, thay ông lên làm tổng thống Mỹ là Harry S. Truman. Đại diện của Anh tham gia hội nghị là thủ tướng Clement Attlee. Nước Đức cũng bị mất một phần lãnh thổ cho Ba Lan và Liên Xô. Các nước bị Đức và Nhật Bản xâm chiếm giành lại quy chế cũ. Ảnh hưởng của Liên Xô tăng lên khi Bulgaria, Hungary, Ba Lan, Romania, Tiệp Khắc, Nam Tư và Đông Đức trở thành các quốc gia cộng sản. Mỹ hứa giúp đỡ tất cả các dân tộc tự do bị đe dọa (Học thuyết Truman) và đưa ra Kế hoạch Marshall để giúp châu Âu hồi phục kinh tế.
Thuật ngữ “Liên Hợp Quốc” (LHQ) được sử dụng lần đầu tiên vào tháng 1-1942, khi các quốc gia Đồng minh ký Hiến chương Đại Tây Dương. Trong Hiến chương này, các nước này nhất trí chống lại các nước phe Trục và sẽ không ký bất kỳ một hiệp định hòa bình riêng rẽ nào. LHQ đặt mục tiêu sẽ trở thành một tổ chức mạnh hơn Hội Quốc Liên. LHQ thành lập Hội đồng Bảo an đầy quyền uy, là nơi ra quyết sách cần phải có hành động gì nếu xảy ra tranh chấp. Các thành viên có nghĩa vụ đóng góp vũ khí và nhân lực cho các hoạt động gìn giữ hòa bình do LHQ tổ chức. Năm 1948, LHQ ra Tuyên ngôn Nhân quyền, không mang tính chất ràng buộc đối với các nước thành viên.