Dưới sự cai trị yếu kém của triều đình Mãn Thanh, đế quốc Trung Hoa tưởng như sắp tan rã. Những bất bình trước ảnh hưởng của phương Tây đã dẫn đến phong trào Nghĩa Hòa Đoàn vào năm 1900.
Khi triều đình Mãn Thanh trở nên suy yếu và mục nát, phần lớn Trung Hoa bị các cường quốc châu Âu chi phối. Nhiều tổ chức mạnh đã chiến đấu bảo vệ đất nước trước người phương Tây, nhưng người Trung Quốc thừa nhận rằng họ sẽ phải học theo người phương Tây và mở mang các ngành nghề mới.
Năm 1898, những nhà cải cách nắm được quyền lực trong một thời gian ngắn. Các đạo luật mới đã được thông qua nhằm biến Trung Quốc thành một nước hiện đại. Những nhà cải cách tìm cách thay đổi công tác dân chính, tập trung giải quyết các vấn đề thiết thực hàng ngày hơn là nệ vào các văn bản cổ đã lỗi thời. Họ thành lập một trường đại học ở Bắc Kinh và bắt đầu cải cách quân đội. Nhưng “Cải cách Một trăm Ngày” (Bách nhật duy tân) đã chấm dứt khi Thái hậu Từ Hi giành lại được quyền lực. Nhiều nhà cải cách bị xử tử.
Năm 1900, một cuộc nổi dậy chống lại người nước ngoài, đặc biệt là chống người Ki-tô giáo, dấy lên ở miền Bắc Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa này do một hội kín có tên là Nghĩa Hòa Đoàn (phương Tây gọi là “Boxers”) lãnh đạo. Hội này được triều đình Mãn Thanh ngầm ủng hộ.
Năm 1900, quân Nghĩa Hòa Đoàn tấn công sứ quán của các nước châu Âu ở Bắc Kinh, giết nhiều người châu Âu, nhất là các nhà truyền giáo, và cả những người Trung Quốc theo đạo Ki-tô. Họ bao vây một số sứ quán châu Âu trong hai tháng. Một lực lượng quốc tế được thành lập gồm lính Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản và Nga. Lúc đầu lực lượng này chỉ là một đơn vị nhỏ và được trang bị vũ khí sơ sài nên không chiếm được Bắc Kinh, nhưng sau đó được củng cố đã trở nên mạnh hơn và giải phóng được các tòa đại sứ vào mùa hạ năm đó.
Cuộc nổi dậy bị đàn áp, nhưng triều đình Mãn Thanh vẫn không thể ngăn cản được sự can thiệp của nước ngoài. Họ buộc phải trừng trị các quan lại bị nghi ngờ dính líu tới cuộc khởi nghĩa, trả tiền bồi thường và cho phép quân đội nước ngoài vào các sứ quán. Các trí thức Trung Quốc bắt đầu âm mưu lật đổ triều đình Mãn Thanh.
Năm 1905, Tôn Dật Tiên (tức Tôn Trung Sơn) thành lập Đồng minh hội, sau này là Quốc dân Đảng. Các nhóm khác lập kế hoạch và tổ chức cuộc nổi dậy. Nhà Mãn Thanh mất dần quyền kiểm soát đế quốc. Năm 1911, một viên tướng có thế lực là Viên Thế Khải đã ủng hộ cuộc nổi dậy của phe Quốc dân Đảng. Nhà Mãn Thanh sụp đổ và một nước cộng hòa được tuyên bố thành lập.
1898 “Bách nhật duy tân” chấm dứt khi Thái hậu Từ Hi lên nắm quyền. Đế quốc Anh có được Hồng Kông theo hợp đồng thuê 99 năm.
1900 Các sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh bị quân Nghĩa Hòa Đoàn bao vây. Quân đội Mỹ, Nhật Bản và châu Âu dẹp tan cuộc nổi dậy. Thái hậu Từ Hi chạy khỏi Bắc Kinh.
1905 Tôn Dật Tiên thành lập Đồng minh hội, hạt nhân của Quốc dân Đảng sau này.
1911 Quân đội ủng hộ cuộc khởi nghĩa do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Sự cai trị của nhà Mãn Thanh chấm dứt và nền cộng hòa được tuyên bố thành lập. Tôn Dật Tiên trở thành Tổng thống lâm thời.