Bách Khoa Thư Lịch Sử

Chiến Tranh Lạnh (1945–1989)

CHIẾN TRANH LẠNH (1945–1989)

Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, căng thẳng giữa phương Tây và phương Đông cùng sự tăng cường vũ khí hạt nhân gần như đưa thế giới tới bờ vực của một cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba.

Một bức biếm họa năm 1962, vào thời điểm diễn ra khủng hoảng tên lửa tại Cuba, mô tả hai nhà lãnh đạo của hai cường quốc đang vật tay nhau để tranh giành quyền lực. Nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev (1894–1971) ở bên trái, còn Tổng thống Mỹ John F. Kennedy (1917–1963) ở bên phải. Cả hai đều ngồi trên tên lửa hạt nhân.

Liên Xô và Mỹ từng là đồng minh chống Đức và Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới II, nhưng tại thời điểm năm 1945, hai quốc gia này, lúc đó được xem là hai siêu cường, đã trở thành đối thủ và sau đó là kẻ thù của nhau. Sự chia rẽ này được gọi là chiến tranh lạnh, một cuộc chiến tranh không có chiến sự. Mỹ và Liên Xô đã “chiến đấu” với nhau bằng những ngôn từ răn đe và bằng việc củng cố lực lượng vũ trang. Cả hai bên đều phát triển một lượng lớn vũ khí hạt nhân. Các cuộc tiếp xúc hòa bình, thân thiện giữa nhân dân hai nước bị chấm dứt. Liên Xô dùng quân đội cô lập hoàn toàn quốc gia này với thế giới phương Tây. Chính khách nước Anh Winston Churchill đã mô tả một cách ấn tượng ranh giới giữa phương Tây và phương Đông là một “tấm màn sắt” trong bài phát biểu tại bang Missouri (Mỹ) vào ngày 5-3-1946.

Trong nhiều năm, chính trường thế giới bị chiến tranh lạnh chi phối. Một bên, Mỹ trở thành chóp bu của tổ chức NATO, liên minh quân sự của các nước phương Tây chống phe xã hội chủ nghĩa. Phía bên kia, Liên Xô chi phối khối Hiệp ước Warsaw, liên minh quân sự của các nước Đông Âu ủng hộ chủ nghĩa cộng sản.

Vì có nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt nhân giữa Đông và Tây trong thập niên 1960, nhiều người Mỹ đã xây hầm tránh phóng xạ ở sân sau nhà.

BERLIN - THÀNH PHỐ BỊ CHIA CẮT

Năm 1945, Mỹ, Pháp và Anh kiểm soát Tây Đức, còn Liên Xô kiểm soát Đông Đức. Thủ đô Berlin nằm bên trong Đông Đức cũng bị chia đôi, và đến năm 1948, quân đội Xô-viết đã phong tỏa hoàn toàn lối đi đến Tây Berlin. Các cường quốc phương Tây phải dùng máy bay để chuyên chở hàng hóa tới Tây Berlin cho tới khi Liên Xô chấm dứt phong tỏa vào tháng 5-1949. Trong những năm 1949–1958, ba triệu người chạy từ Đông Berlin sang Tây Berlin. Năm 1961, Đông Đức đóng cửa các ngả đường sang Tây Berlin bằng việc xây bức tường xuyên qua trung tâm thành phố. Bức tường này chạy qua cả tuyến đường xe điện và đường sắt, tạo thành một khu vực không hề có người qua lại ở hai bên bức tường.

Bức tường Berlin được xây dựng năm 1961, chia cắt thành phố thành hai phần Đông và Tây, cuối cùng đã được dỡ bỏ vào tháng 11-1989.
Đến năm 1949, hầu hết các quốc gia châu Âu đều gia nhập một trong hai liên minh thù địch với nhau. Các quốc gia thành viên Hiệp ước Warsaw ủng hộ Liên Xô, còn các thành viên khối NATO ủng hộ Mỹ.
Francis Gary Powers là phi công lái chiếc máy bay do thám U-2 của Mỹ bị bắn hạ trên lãnh thổ Liên Xô năm 1960. Sau đó, phi công này được phóng thích trong cuộc trao đổi tù binh, đổi lấy trùm điệp viên Rudolf Abel của Liên Xô.

KHỦNG HOẢNG TÊN LỬA Ở CUBA

Giữa Mỹ và Liên Xô chưa bao giờ thực sự nổ ra chiến tranh, nhưng đã có lúc hai bên tiến gần đến một cuộc chiến tranh. Trong khoảng một tuần lễ vào tháng 10-1962, cả thế giới phải nín thở khi biết Tổng thống Mỹ John F. Kennedy (1961–1963) nhận được các bức ảnh của không quân chứng tỏ rằng Liên Xô đang xây dựng căn cứ phóng tên lửa tại Cuba. Từ những căn cứ đó, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân có thể phóng tới hủy diệt các thành phố của Mỹ. Ngày 22-10, Tổng thống John Kennedy ra lệnh cho hải quân phong tỏa Cuba. Mỹ lên kế hoạch xâm chiếm Cuba, và cả thế giới chuẩn bị bước vào một cuộc chiến tranh hạt nhân. Cuối cùng, ngày 28-10, nhà lãnh đạo Liên Xô lúc đó là Nikita Khrushchev đã xuống thang, đồng ý rút tên lửa về nước và phá hủy các cơ sở phóng tên lửa tại Cuba. Khủng hoảng chấm dứt.

Sinh viên Tiệp Khắc cố gắng ngăn cản xe tăng của Liên Xô tiến vào Praha hồi tháng 8- 1968. Liên Xô sợ rằng hành động độc lập của các thành viên Hiệp ước Warsaw có thể làm suy yếu quyền lực của mình, nên quân đội Nga đã tiến vào Tiệp Khắc.

KẾT THÚC CHIẾN TRANH LẠNH

Vào thập niên 1980, mối quan hệ nồng ấm giữa Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev đã giúp giảm đi tình trạng căng thẳng của chiến tranh lạnh, và vào năm 1987, hai nhà lãnh đạo này đã đồng ý cùng hủy bỏ tên lửa hạt nhân tầm trung. Năm 1989, Gorbachev cho phép các quốc gia cộng sản ở Đông Âu bầu ra chính phủ dân chủ, và đến năm 1991, Liên Xô tan rã thành 15 nước cộng hòa độc lập. Chiến tranh lạnh kết thúc. Ngày 12-3-1999, Hungary, Ba Lan và Cộng hòa Séc gia nhập khối NATO. Lễ gia nhập được tiến hành tại thư viện tưởng niệm Harry S. Truman ở Independence, bang Missouri (Mỹ).

Trong chiến tranh lạnh, nhiều tổ chức công dân được thành lập để gây ảnh hưởng với các chính phủ và chấm dứt phổ biến vũ khí hạt nhân. Hội cam kết hòa bình (Peace Pledge Union) là một trong các tổ chức này.
Những người ủng hộ chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân diễu hành ở London vào năm 1983 để phản đối việc triển khai tên lửa hạt nhân hành trình và Trident trên lãnh thổ Anh.