Các điều khoản trong hiệp ước hòa bình năm 1763 thực chất đã đặt Canada dưới sự cai trị của Anh. Năm 1791, Luật Hiến pháp Anh chia Canada thành hai vùng lãnh thổ, một có cộng đồng dân cư nói tiếng Anh và một nói tiếng Pháp.
Vào những năm 1830, phong trào phản đối ách cai trị của Anh ở Canada dâng cao. Các cuộc nổi dậy nổ ra ở cả Thượng và Hạ Canada vào năm 1837, do William Lyon Mackenzie (ở Thượng Canada) và Louis Papineau (ở Hạ Canada) lãnh đạo. Quân nổi dậy đòi quyền tự trị, và mặc dù họ nhận được một sự ủng hộ nhất định, nhưng hầu hết những người có thế lực ở thuộc địa không đồng ý với họ. Chẳng bao lâu sau quân nổi dậy bị quân đội Anh đánh bại. Chính phủ Anh cử Huân tước Durham tới Canada điều tra nguyên nhân của các cuộc nổi dậy. Sau đó ông viết báo cáo rằng Thượng và Hạ Canada nên được thống nhất và có quyền tự quyết các vấn đề của riêng họ.
Luật Liên bang năm 1840 đã thống nhất hai thuộc địa, thành tỉnh Canada thuộc Anh. Tuy nhiên, nhiều người Canada cảm thấy những cải cách này vẫn chưa đủ, một phần vì lo ngại sẽ bị Mỹ xâm lược nếu Canada có vẻ suy yếu. Năm 1867, Luật Bắc Mỹ của Anh được thông qua và Canada được tự trị. Theo luật này, bốn tỉnh của Canada thống nhất thành nhà nước tự trị Canada trong đế quốc Anh. Người Canada nói tiếng Pháp ở Quebec được cam kết đối xử bình đẳng, và cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh đều trở thành ngôn ngữ chính thức ở nước này.
Các vùng đất rộng lớn về hướng Tây thuộc Công ty Vịnh Hudson sau đó cũng thành một vùng của Canada. Các lãnh thổ miền Tây Bắc sáp nhập vào Canada tự trị năm 1870, tiếp đó tới địa khu Yukon hợp nhất năm 1898. Yukon là nơi diễn ra cuộc đổ xô đi tìm vàng vào năm 1896. Hàng vạn người tìm vàng vượt dãy núi Rocky đến các vùng đất có vàng với hy vọng trở nên giàu có. Tuyến đường sắt Thái Bình Dương của Canada hoàn tất vào năm 1885 đã nối liền mọi vùng miền trong nước. Khác với các tuyến đường sắt của Mỹ, tuyến đường sắt này tạo thành một hệ thống liên tục từ vùng sông St Lawrence tới Thái Bình Dương.