Buổi sáng thứ Bảy quay cuồng với vô số việc cần chuẩn bị vào phút cuối. Anne, quấn mình trong một chiếc tạp dề của bà Nelson, loay hoay trong bếp giúp Nora làm món rau trộn. Nora lúc nào cũng xù lông nhím, rõ ràng là hối hận, đúng như chị đã báo trước, vì đã tâm sự bí mật của mình vào đêm qua.
“Chúng tôi sẽ rã rời suốt cả tháng cho coi,” chị cáu kỉnh, “và ba cũng không hẳn đủ sức chi trả cho những trò phô trương phù phiếm này. Nhưng Sally nằng nặc đòi bằng được cái nó gọi là ‘đám cưới trong mơ’ và ba đã chiều theo. Ba lúc nào cũng nuông chiều nó.”
“Hậm hực và ghen tị,” bà dì Mèo Già nhận xét, bà ta bất ngờ thò đầu ra khỏi kho thực phẩm, nơi bà ta đã khiến bà Nelson phát cuồng với hết tôi hy vọng thế này đến tôi hy vọng thế kia.
“Bà ta nói đúng đấy,” Nora chua chát nói với Anne. Khá là đúng. Tôi quả thực đầy hậm hực và ghen tị… nhìn người ta vui vẻ tôi cũng thấy phát ghét nữa là. Nhưng dù sao thì tôi cũng không thấy áy náy khi tát thẳng vào mặt Jud Taylor đêm qua. Tôi chỉ tiếc là không tiện thể bẻ vẹo luôn mũi hắn. Ôi dào, thế là xong món rau trộn. Trông chúng đẹp thật. Ngày thường thì tôi cũng thích trang trí hoa hòe hoa sói lắm. Ôi, dù sao chăng nữa, tôi cũng hy vọng mọi chuyện sẽ diễn ra suôn sẻ cho Sally. Tôi cho rằng tôi quả thực có thương nó, mặc cho mọi chuyện, dẫu sao bây giờ tôi cảm thấy mình căm ghét mọi người, và nhất là Jim Wilcox.”
“Ôi, ta chỉ hy vọng là chú rể sẽ không bị mất tích ngay trước buổi lễ,” giọng bi thảm của bà dì Mèo Già chuồi ra khỏi kho thực phẩm. “Austin Creed đã làm thế đấy. Chỉ là hắn quên mất hôm ấy là ngày hắn kết hôn. Đám nhà Creed trí nhớ lúc nào cũng kém, nhưng ta thấy quên thế thì quá đáng thật.”
Hai cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Khuôn mặt của Nora hoàn toàn thay đổi khi chị cười… sáng bừng lên… rực rỡ… giãn ra. Và rồi có ai đó gọi chị thông báo rằng Barnabas ói ra trên cầu thang… chắc là do ăn quá nhiều gan gà. Nora chạy vội ra để giải quyết hậu quả, còn bà dì Mèo Già bước ra khỏi kho thực phẩm, hy vọng rằng bánh cưới sẽ không biến mất như trong đám cưới của Alma Clark mười năm trước.
Vào buổi trưa, tất cả mọi thứ đã sẵn sàng không chê vào đâu được… bàn ăn đã được bày biện xong, giường ngủ được trang trí đẹp đẽ, giỏ hoa đặt khắp nơi; và trong gian phòng lớn phía Bắc ở tầng trên, Sally và ba cô phù dâu đang hồi hộp trong bộ váy lộng lẫy. Anne, với mũ và váy màu xanh sông Nile, ngắm mình trong gương, và ước gì Gilbert có thể nhìn thấy mình lúc này.
“Trông cô đẹp tuyệt,” Nora nhận xét có chút ghen tị.
“Chị cũng đẹp lắm mà, Nora. Chiếc váy tơ màu xanh khói và chiếc mũ đẹp như mơ kia tôn lên mái tóc óng ả và đôi mắt xanh lơ của chị.”
“Chẳng có ai quan tâm đến vẻ ngoài của tôi cả,” Nora cay đắng nói. “Ôi dào, nhìn nụ cười nhăn răng của tôi này, Anne. Tôi nghĩ mình không nên mang bộ mặt thần chết trong buổi tiệc. Rốt cuộc thì tôi lại là người chơi Hành khúc đám cưới… Vera đột nhiên lại nhức đầu khủng khiếp. Tôi cảm thấy mình thích hợp chơi bản Hành khúc đám ma hơn, đúng như lời tiên tri của bà dì Mèo Già.”
Bà dì Mèo Già, lang thang khắp nơi suốt buổi sáng với bộ váy ngủ chẳng mấy sạch sẽ và ‘mũ khuê phòng’ nhăn nhúm, làm quẩn chân mọi người, bây giờ xuất hiện một cách lộng lẫy trong bộ váy lụa sọc nâu sẫm, và nhắc Sally rằng một bên tay áo của cô nàng không vừa, bà hy vọng rằng váy lót sẽ không thò ra ngoài váy cưới của cô nàng như hồi đám cưới của Annie Crewson. Bà Nelson bước vào và òa lên khóc vì Sally trông thật đáng yêu trong chiếc váy cưới.
“Nào, nào, đừng có cảm tính quá thế, Jane,” bà dì Mèo Già an ủi. “Cháu vẫn còn có một cô con gái mà… và nói chung rất có thể sẽ luôn giữ nó bên mình. Nước mắt không phải là điềm may cho đám cưới đâu. Ôi dào, ta chỉ hy vọng không ai lăn đùng ra chết như ông chú Cromwell trong đám cưới của Roberta Pringle, đúng lúc đang làm lễ nữa chứ. Cô dâu nằm liệt giường hai tuần vì quá sốc.”
Sau lời tiễn đưa đầy ấn tượng này, họ nhà gái đi xuống lầu, theo giai điệu của bản Hành khúc đám cưới có phần dữ dội của Nora, và Sally và Gordon đã kết hôn mà không bỏ quên nhẫn hay có ai lăn đùng ra chết. Đó đúng là buổi tiệc cưới tuyệt vời và ngay cả bà dì Mèo Già cũng quên đi nỗi lo về vũ trụ trong một vài phút, “Nói cho cùng,” bà khích lệ Sally sau đó, “dẫu cuộc sống gia đình của mi không quá hạnh phúc thì cuộc sống độc thân dám còn tệ hơn.” Một mình Nora vẫn tiếp tục hậm hực ngồi trên ghế trước đàn piano, nhưng cuối cùng chị cũng tiến lại gần ôm siết lấy Sally trong tấm khăn voan.
“Thế là xong,” Nora thốt lên đầy mệt mỏi, khi bữa tối đã chấm dứt, họ nhà gái và phần lớn khách khứa đã ra về. Chị nhìn quanh gian phòng vắng tanh và hỗn độn như cảnh tượng thường thấy sau các bữa tiệc… một đóa hoa cài tả tơi bẹp gí trên sàn nhà… ghế nằm chỏng chơ… một dải ren bị xé rách… hai chiếc khăn tay đánh rơi… những mẩu bánh bọn trẻ vứt bừa… một vết sẫm trên nền nhà, vệt nước đổ từ một chiếc bình mà bà dì Mèo Già làm rơi trong phòng dành cho khách.
“Tôi phải dọn sạch đống lộn xộn này mới được,” Nora gay gắt. “Vẫn còn khá nhiều người trong đám trẻ chờ tàu thủy, và một số định ở lại đến tận chủ nhật. Bọn họ định sẽ nhóm lửa ngoài bãi biển và tổ chức vũ hội trên đá dưới trăng. Cô có thể tưởng tượng được tôi cảm thấy thế nào về khiêu vũ dưới ánh trăng rồi đấy. Tôi chỉ muốn chui vào giường và òa khóc thôi.”
“Ngôi nhà sau đám cưới quả là có vẻ bị bỏ rơi thật,” Anne đồng ý, “Nhưng em sẽ giúp chị dọn dẹp sạch sẽ và rồi chúng mình sẽ dùng một tách trà.”
“Anne Shirley, cô nghĩ rằng một tách trà là liều thuốc chữa bách bệnh sao? Lẽ ra cô phải là một cô gái già mới đúng, chứ không phải tôi. Đừng để bụng. Tôi không muốn cư xử khó chịu như vậy, nhưng e rằng đó là bản tính của tôi mất rồi. Tôi ghét ý tưởng khiêu vũ ngoài bãi biển này còn hơn cả đám cưới nữa. Jim trước đây lúc nào cũng có mặt trong các cuộc khiêu vũ ngoài bãi biển của chúng tôi. Anne, tôi đã quyết định đi học ngành y tá. Tôi biết tôi sẽ ghét nghề này lắm… và Chúa rủ lòng thương cho các bệnh nhân tương lai của tôi… nhưng tôi sẽ không ở lại Summerside để rồi bị trêu chọc cứ mãi là gái ế nữa. Ôi dào, chúng ta hãy giải quyết đống đĩa bẩn này và cứ vờ như là thích làm việc đó lắm vậy.”
“Em thích thật đấy chứ… em lúc nào cũng thích rửa bát. Thật thú vị khi biến những thứ dơ bẩn trở lại sạch sẽ và sáng bóng.”
“Ôi, cô đúng là hàng quý hiếm,” Nora gắt.
Lúc trăng lên thì mọi thứ đã sẵn sàng cho buổi khiêu vũ bãi biển. Đám con trai thắp sáng một đống lửa lớn xếp từ củi rều ngay trên mũi đất, và làn nước cảng biển sóng sánh lắng đọng dưới trăng. Anne cho rằng mình sẽ tha hồ tận hưởng buổi tối hôm nay, nhưng sau khi nhìn lướt qua khuôn mặt của Nora khi chị cầm một giỏ bánh mì kẹp đi xuống bậc thềm, cô sững lại một thoáng.
“Chị ấy khổ sở quá. Giá như mình có thể làm được gì để giúp chị ấy!”
Một ý tưởng chợt nảy ra trong đầu Anne. Cô lúc nào cũng dễ bị cuốn theo những cơn bốc đồng. Phóng ngay vào nhà bếp, cô chộp lấy một cây đèn xách tay đang được thắp sáng ở đó, chạy vọt lên cầu thang đằng sau rồi trèo thêm một tầng nữa lên gác xép. Cô đặt cây đèn nơi cửa sổ áp mái nhìn ra cảng. Cây cối che chắn nó khỏi tầm nhìn của những người đang khiêu vũ.
“Có lẽ anh ta sẽ nhìn thấy nó và đi sang đây. Mình chắc là Nora sẽ phát điên lên với mình, nhưng chuyện đó chẳng đáng gì nếu anh ta chịu tới. Và bây giờ phải gói một miếng bánh cưới cho Rebecca Dew thôi.”
Jim Wilcox đã không đến. Một lát sau, Anne bỏ cuộc không ngóng trông gì nữa, quên bẵng anh ta đi mà hòa mình vào không khí náo nhiệt của buổi tối. Nora biến mất tăm và bà dì Mèo Già bất ngờ chịu đi ngủ. Trò vui huyên náo chỉ chịu kết thúc lúc mười một giờ, những kẻ chơi đêm mệt mỏi ngáp ngắn ngáp dài đi lên lầu. Anne quá buồn ngủ đến mức chẳng nhớ gì đến cây đèn đặt trên gác xép. Nhưng lúc hai giờ sáng, dì Mèo Già rón rén bước vào phòng và gí ngọn nến vào sát mặt các cô gái.
“Chúa ơi, có chuyện gì vậy?” Dot Fraser thở hổn hển ngồi bật dậy.
“S-s-s-suỵt,” bà dì Mèo Già ra hiệu, đôi mắt lồi suýt nữa là rơi ra khỏi đầu, “Ta cho rằng có người lạ trong nhà… ta biết là thế mà. Tiếng động gì vậy?”
“Nghe như tiếng mèo kêu hay tiếng chó sủa ấy,” Dot cười khúc khích.
“Chẳng giống chút nào,” bà dì Mèo Già nghiêm túc đáp. “Ta biết có một con chó đang sủa trong kho, nhưng đó không phải là lý do khiến ta tỉnh dậy. Có tiếng va đập… rất to và rõ mồn một.”
“ ‘Xin Chúa lòng lành bảo vệ chúng con khỏi ma xó, ma cà rồng, ma chân dài và các thể loại va đập trong đêm,’” Anne lẩm bẩm.
“Cô Shirley, đây không phải là trò đùa đâu. Có kẻ trộm trong nhà này. Tôi sẽ gọi Samuel.”
Bà dì Mèo Già biến mất và các cô gái nhìn nhau.
“Các cậu thấy sao… tất cả quà cưới đều nằm dưới thư viện…” Anne cất tiếng.
“Dù sao thì tớ cũng thức dậy rồi,” Mamie đáp. “Anne, cậu có thấy thứ gì giống như khuôn mặt của bà dì Mèo Già khi bà ta rọi nến xuống và bóng hắt ngược ra đằng sau không… và cả những lọn tóc lòa xòa chung quanh nữa? Hệt như mụ phù thủy ở Endor vậy[1]!”
[1] Phù thủy gọi hồn nhà tiên tri Samuel vừa qua đời, theo yêu cầu của Saul, vua Israel, được nhắc đến trong Sách Samuel I.
Bốn cô gái mặc váy ngủ rón rén bước ra hành lang. Bà dì Mèo Già cũng đang đi dọc theo hành lang, đằng sau là bác sĩ Nelson trong áo choàng ngủ và dép lê. Bà Nelson, không sao tìm ra bộ váy ngủ, thò đầu khiếp hãi ra ngoài cửa phòng.
“Ôi, Samuel... đừng mạo hiểm nhé... nếu là trộm thật, chúng có thể bắn súng...”
“Nhảm nhí! Tôi chẳng tin là có gì đâu,” ông bác sĩ tuyên bố.
“Ta bảo anh là ta nghe có tiếng va đập mà,” dì Mèo Già run rẩy.
Một vài cậu trai cũng bước ra nhập hội. Bọn họ rón rén đi xuống cầu thang một cách thận trọng, ông bác sĩ dẫn đầu và dì Mèo Già, tay nến tay cời lửa, bọc hậu.
Không nghi ngờ gì nữa, có tiếng động trong thư viện. Ông bác sĩ mở cửa bước vào.
Barnabas, giở đủ trò mèo để được ở yên trong thư viện trong khi Saul bị tống xuống kho, đang ngồi trên lưng trường kỷ, hấp háy mắt đầy thích thú. Nora và một người đàn ông trẻ đứng ở giữa phòng trong ánh sáng lờ mờ tỏ ra từ một ngọn nến lập lòe. Người đàn ông này choàng tay ôm Nora và giữ một chiếc khăn tay lớn màu trắng trên mặt chị.
“Hắn đang đánh thuốc mê con bé!” bà dì Mèo Già rú lên, để mặc cây cời lửa rơi đánh rầm một tiếng vang dội.
Người đàn ông trẻ quay mặt lại, đánh rơi chiếc khăn và trông có vẻ hết sức ngờ nghệch. Nhưng anh ta là một chàng trai khá đẹp mã, với đôi mắt nheo nâu sẫm, mái tóc xoăn nâu đỏ, đó là chưa kể đến chiếc cằm mang đúng chất ‘cằm’ nhất.
Nora vội nhặt chiếc khăn tay lên áp vào mặt.
“Jim Wilcox, chuyện này là sao?” ông bác sĩ cất tiếng hỏi với giọng cực kỳ nghiêm khắc.
“Tôi cũng chẳng biết là sao nữa,” Jim Wilcox đáp với vẻ hơi bực bội. “Tôi chỉ biết rằng Nora ra hiệu gọi tôi. Mãi đến khi về nhà lúc một giờ từ bữa tiệc của hội Tam điểm ở Summerside thì tôi mới nhìn thấy ánh đèn. Thế là tôi lên thuyền sang ngay.”
“Tôi không hề ra hiệu gọi anh,” Nora hét lớn. “Vì Chúa, xin ba đừng có vẻ mặt như thế. Con không ngủ được... con đang ngồi bên cửa sổ... con còn chưa thay quần áo nữa là... và rồi con thấy một người đàn ông đi lên từ bờ biển. Khi anh ta đến gần nhà con biết đó là Jim, vì vậy con chạy xuống. Và rồi... con va đầu vào cửa thư viện và thế là chảy máu mũi. Anh ta chỉ cố làm máu đừng chảy thôi.”
“Tôi nhảy vào qua cửa sổ và làm đổ băng ghế đằng kia...”
“Ta đã bảo là ta nghe có tiếng va đập mà,” bà dì Mèo Già lên tiếng.
“... và giờ thì Nora bảo là không hề ra hiệu cho tôi, vì vậy tôi sẽ không làm phiền quý vị với sự hiện diện không được chào đón này nữa, và xin gửi lời cáo lỗi tới tất cả các bên liên quan.”
“Đúng là quá tệ khi để trò viển vông vớ vẩn này quấy rầy giấc ngủ đêm của anh, và buộc anh lái thuyền đi qua vùng vịnh,” Nora nói với giọng băng giá hết mức có thể, đồng thời cố tìm một chỗ sạch chưa dính máu trên chiếc khăn tay của Jim.
“Viển vông vớ vẩn thật,” ông bác sĩ lên tiếng.
“Tốt nhất là anh nên với lấy chìa khóa cửa đằng sau lưng anh kìa,” bà dì Mèo Già chỉ dẫn.
“Là tôi đặt ngọn đèn bên cửa sổ,” Anne ngượng ngùng thú nhận, “và rồi quên mất...”
“Cô dám!” Nora kêu lên. “Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho cô...”
“Mọi người phát khùng hết cả rồi sao?” ông bác sĩ bực bội quát. “Thế cuối cùng vụ việc vớ vẩn này là thế nào? Vì Chúa làm ơn hạ cánh cửa sổ đó xuống, Jim... gió lùa vào đủ để cậu lạnh teo xương đấy. Nora, ngửa đầu ra sau thì lỗ mũi của con sẽ ổn thôi.”
Nora ròng ròng nước mắt vừa thịnh nộ vừa nhục nhã. Nước mắt hòa lẫn với máu trên mặt khiến chị trông đến phát khiếp. Jim Wilcox có vẻ như đang ước ao sàn nhà nứt ra ngay lúc này để anh ta chui xuống tầng hầm.
“Ôi dào,” bà dì Mèo Già chõ mũi vào, “Jim Wilcox, giờ thì anh chỉ có thể cưới con bé thôi. Nó sẽ chẳng bao giờ lấy được chồng nếu mọi người biết chuyện nó bị bắt gặp ở đây với anh vào lúc hai giờ sáng.”
“Cưới ư!” Jim gào lên điên tiết. “Cả đời tôi chỉ ước ao cưới được cô ta... chẳng cần điều gì hơn thế!”
“Vậy sao trước giờ anh chẳng chịu hỏi tôi?” Nora quay phắt lại đối diện với anh ta.
“Hỏi cô ư? Cô sỉ nhục, lờ tịt và chế giễu tôi suốt nhiều năm qua. Không biết bao lần cô đã vượt quá giới hạn chỉ để cho tôi thấy cô coi thường tôi ra sao. Tôi cho rằng có hỏi cô thì cũng chẳng ích lợi gì. Và rồi tháng Giêng năm ngoái cô bảo rằng...”
“Anh khiêu khích tôi, dẫn dắt để tôi nói thế...”
“Tôi khiêu khích cô! Nghe hay đấy! Cô gây sự với tôi chỉ để tống khứ tôi đi mà thôi...”
“Tôi không... tôi...”
“Và rồi tôi quá ngốc nghếch đến mức vắt giò lên cổ chạy đến đây ngay giữa đêm khuya khoắt, bởi tôi tưởng cô đặt đèn hiệu riêng của chúng mình lên cửa sổ và cần đến tôi! Hỏi cưới cô ư! Ôi dào, bây giờ tôi sẽ hỏi cưới cô một lần cho xong, và cô tha hồ tận hưởng niềm vui từ chối tôi trước đám đông. Nora Edith Nelson, em đồng ý làm vợ tôi không?”
“Ôi, sao lại không... sao lại không!” Nora kêu lên không chút xấu hổ, đến mức Barnabas cũng phải đỏ mặt giùm.
Jim nhìn chị với vẻ không sao tin nổi... rồi chồm tới bên chị. Có lẽ mũi của chị đã ngừng chảy máu... có lẽ vẫn chưa. Chẳng quan trọng gì.
“Ta cho rằng các anh chị quên mất hôm nay là ngày Chủ nhật đấy,” bà dì Mèo Già nhận xét, chính bà cũng mới nhớ ra điều này . “Ta sẵn sàng dùng một tách trà nếu có ai chịu khó đi pha. Ta không quen với kiểu bày tỏ tình cảm thế này. Ta chỉ hy vọng là Nora đáng thương cuối cùng cũng thực sự tóm được anh ta. Ít ra thì con bé cũng có đầy đủ nhân chứng.”
Bọn họ đi vào nhà bếp, sau khi bình tĩnh lại, bà Nelson pha trà cho mọi người... tất cả ngoài trừ Jim và Nora, chàng và nàng tiếp tục ẩn mình trong phòng đọc sách với Barbabas làm người giám hộ. Đến sáng Anne mới nhìn thấy Nora... một Nora hoàn toàn khác, trẻ ra đến mười tuổi, mặt đỏ bừng hạnh phúc.
“Nhờ cả vào cô đấy, Anne ạ. Nếu cô không đặt ngọn đèn ở đó... dẫu trong hai phút rưỡi tối qua, tôi đã sẵn sàng nhai xương cô!”
“Thế mà mình lại ngủ say như chết ấy,” Tommy Nelson rên rỉ với trái tim tan vỡ.
Nhưng lời cuối cùng thuộc về bà dì Mèo Già.
“Ôi dào, ta chỉ hy vọng rằng chúng sẽ không rơi vào cảnh cưới vội rồi hối hận dài dài.”