Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 9

Suốt thời niên thiếu của tôi, khi ở trong bệnh viện hay ở trường đại học, tôi không bao giờ nghĩ đến một tương lai sung túc, do đó tôi không hề có bất cứ khái niệm gì về việc tiêu tiền. Đêm hôm đó, sau khi đếm số tiền lương và tiền boa mà tôi kiếm được, hơn một trăm năm mươi bảng, tôi liền cất chúng vào sâu trong túi, kéo khóa lại, vội vàng nhét túi vào trong tủ, tim đập thình thịch. Một trăm năm mươi bảng! Tôi nhìn chằm chằm vào cái túi trên sàn nhà. Một trăm năm mươi bảng.

Tôi đã kiếm đủ để trả tiền thuê nhà nên không cần phải quay trở lại chỗ đó nữa, nhưng đã xảy ra một điều kỳ quái nào đó. Hình ảnh các vị khách chăm chú ngồi nghe mình nói khiến tôi cảm thấy vui như mở cờ trong bụng. “Tôi luôn có thể nói được lúc nào thì một người phụ nữ đang vui vẻ,” Jason nhăn nhở nói khi bốn chúng tôi trở lại thang máy đêm hôm đó. “Chỉ cần nhìn sự tuần hoàn của máu,” anh ta đưa mu bàn tay chạm vào má tôi khiến tôi nhảy dựng ra sau. “Sự lưu thông của máu dưới da. Vô cùng thú vị.” Anh ta rụt tay lại và nháy mắt với tôi vẻ ranh mãnh. “Mai cô sẽ quay trở lại.”

Và anh ta đã đúng. Ngày hôm sau, tôi chỉ muốn lao đi tìm Sử Trùng Minh, nhưng sau cảnh tượng giận dữ ngày hôm qua, tôi biết mình cần phải kiên nhẫn và chờ thêm một thời gian nữa. Nhưng thay vì chết gí ở nhà chờ đợi giữa mớ sách vở giấy tờ, tôi đến Omotesando mua cho mình chiếc áo đầu tiên dài quá đầu gối và không hở ngực. Một chiếc áo đẹp nhưng không nói lên điều gì về người mặc nó. Tối hôm đó, Mama Strawberry ném cho nó một cái nhìn vội vàng rồi gật đầu. Bà nhấm nhấm đầu ngón tay rồi gạt mấy sợi tóc của tôi sang bên, vỗ vỗ tay tôi và chỉ vào một chiếc bàn đã sẵn khách, đẩy tôi ngay lập tức lao vào một chuỗi châm thuốc, rót rượu và gắp đá vào cốc.

Tôi vẫn nhớ cái tuần làm việc đầu tiên ấy. Tôi ngồi trong hộp đêm nhìn ra ngoài phố và tự hỏi ngoài kia, ngọn đèn nào là của Sử Trùng Minh. Tokyo đang trong những ngày nóng nực nên trong hộp đêm, điều hòa chạy hết tốc lực, các tiếp viên ngồi trong một hồ ánh sáng mát lạnh, những bờ vai trần lấp lánh như ánh trăng. Tôi lục tìm trong ký ức hình ảnh mình nhìn từ bên ngoài tòa nhà, tôi giống như một người đang chìm đắm trong hư vô, một hình bóng lúc tỏ lúc mờ sau lớp cửa kính với khuôn mặt trắng xanh vô cảm thỉnh thoảng lại bị che lấp bởi cái xích đu của Marilyn Monroe. Không ai nghi ngờ gì về những ý nghĩ điên rồ đang thoáng qua trong đầu tôi.

Strawberry có vẻ thích tôi. Đây là một điều đáng ngạc nhiên vì bà ta vốn có những sở thích trứ danh. Bà ta chi tiêu hàng nghìn đô một tháng để mua hoa, những bông protea màu cam nhập từ Nam Phi, hoa loa kèn đỏ, hoa ngải tiên và phong lan từ những đỉnh núi cao ở Thái Lan. Đôi khi tôi nhìn bà ta chằm chằm không sợ sệt vì cái cách bà giữ lưng rất thẳng và khêu gợi. Bà ta đúng là một người rất gợi tình và nhận thức được điều đó. Tôi cảm thấy ghen tị với sự tự tin của bà ta. Bà ta rất thích chưng diện, mỗi đêm là một tuyệt phẩm mới, nhũng chiếc váy bằng vải xatanh hồng, vải nhiễu trắng Trung Hoa, chiếc đầm màu đỏ tía với một cái đai đính đầy xêquin. “Từ Làm thế nào để lấy một triệu phú,” bà ta nói, thả tay xuống, vểnh mông ra, ngoảnh đầu nhìn qua bờ vai vuông để ném cho khách hàng một cái trề môi. “Đó là ‘xatanh sacmơ,’ cô biết đấy,” như thể đó là một cái tên mà lẽ ra ai cũng phải biết. “Strawberry không thể bước đi duyên dáng nếu không ăn mặc như Marilyn,” và bà ve vẩy bót thuốc lá bằng ngọc trai trước mặt người đối thoại. “Marilyn và Strawberry có cùng chiều cao, Strawberry chỉ gầy hơn một chút thôi.” Bà ta là một người nóng tính hay gắt gỏng nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà thực sự tỏ ra giận dữ cho đến đêm thứ năm tôi làm việc ở đây. Đêm đó, một tính cách hoàn toàn khác của Mama Strawberry mới thực sự lộ ra.

Đó là một buổi tối nóng bức, nóng đến mức dường như cả thành phố đều bốc hơi, một kiểu hơi nước ngưng tụ trên đỉnh các tòa nhà và che mờ cả mặt trời lúc hoàng hôn. Trông ai cũng uể oải, kể cả Mama Strawberry, lúc này đang đi quanh sàn nhảy trong chiếc áo choàng dài chấm gót đính xêquin “Chúc mừng sinh nhật tổng thống”. Thỉnh thoảng bà dừng lại thì thầm vài câu với nhạc công piano hay đứng đặt tay lên thành ghế, bắt chuyện với khách. Vào quãng mười giờ tối, không hiểu chuyện gì xảy ra khiến bà ta phải đặt vội ly rượu champagne đang uống dở xuống quầy bar đánh xoảng một tiếng kinh hoàng. Bà ta ngồi thẳng người trên ghế và nhìn như hóa đá về phía cửa ra vào, mặt trắng bệch.

Sáu người đàn ông lực lưỡng mặc đồ vét, tóc húi cua đang bước qua cửa chính. Đi giữa là một người đàn ông mảnh khảnh, mặc áo cổ lọ màu đen, tóc buộc đuôi ngựa. Ông ta đang đẩy một chiếc xe lăn, trên xe là một người đàn ông nhỏ thó, ốm yếu, như một con kỳ nhông già. Đầu ông ta bé tẹo, giống như một cái sọ mốc, da khô và nhăn nheo như quả hạch, mũi tẹt gí, chỉ nhìn thấy hai lỗ mũi nhô lên như hai cục thịt thừa. Hai bàn tay thò ra sau lớp tay áo dài có màu nâu sẫm héo hon như những chiếc lá khô.

Dame! Konaide yo!” Mama Strawberry tuột khỏi ghế, vươn thẳng người, nốc cạn ly rượu champagne, mắt vẫn không rời khỏi đám người kia. Bà ta đặt ly rượu xuống bàn, cho một điếu thuốc vào bót, rồi vuốt phẳng hai bên hông váy, một tay chống eo, một tay ve vẩy bót thuốc, sải chân ra đón khách. Người nhạc công piano tựa lưng vào chiếc ghế, quan sát chuyện đang xảy ra, những nốt nhạc ngập ngừng.

Chỉ còn vài bước nữa là đến chiếc bàn đầu tiên gần khung cửa sổ hướng về phía Đông với tầm nhìn toàn cảnh Tokyo rõ nhất thì Strawberry dừng lại. Bà ta đứng chụm chân, quay người đối diện với đám khách mới đến. Bạn có thể nói rằng bà ta đang cố hết sức kiềm chế cảm xúc của mình. Bà ta đặt một tay lên ghế, tay kia khó nhọc giơ lên vẫy về phía bọn họ, cánh tay hạ xuống theo một cách thức đặc trưng của người Nhật.

Khi khách khứa trong phòng nhận biết được sự xuất hiện của họ, tiếng trò chuyện nhỏ dần, mọi con mắt đều đổ dồn vào các vị khách mới. Nhưng tôi còn nhìn thấy một cái gì khác nữa. Bên ngoài, phía sau quầy lễ tân có một góc nhỏ hình chữ nhật nằm thụt vào trong tường, có sẵn cả bàn và ghế. Dù không có cửa, nhưng nó nằm ở vị trí thuận tiện cho người ở bên trong tránh được ánh mắt nhòm ngó của các khách hàng khác. Nó là chỗ ưa thích của người lái xe ngồi chờ khách và Mama Strawberry thỉnh thoảng cũng tiếp khách riêng ở đây. Khi đám khách mới đến gần chỗ bàn tiếp tân thì một người trong số họ tách ra khỏi nhóm và lặng lẽ lướt vào trong đó. Người này di chuyển quá nhanh khiến tôi chỉ kịp nhìn thoáng qua, nhưng những gì tôi thấy cũng đủ khiến tôi cảm thấy bất an.

Người đó ăn mặc giống như một phụ nữ, áo len màu đen giản dị, váy màu xám chì, nhưng nếu đúng là phụ nữ thì cô ta quá cao. Cô ta có đôi vai rộng, lực lưỡng, hai cánh tay dài, đôi chân gân guốc. Cô ta đi một đôi giày gót nhọn màu đen bóng. Nhưng chính mái tóc dài bóng lộn che gần hết khuôn mặt của cô ta mới làm tôi choáng váng. Có lẽ đó là tóc giả và dù nó rất dài nhưng vì cô ta quá cao nên nó chỉ chạm đến vai, như thể đầu và cổ cô ta bị ép mỏng đến kỳ lạ.

Khi tôi đang há hốc mồm ra ngắm cô ta thì đám người đi cùng đã ngồi vào bàn. Những người phục vụ bàn đang tíu tít sắp xếp chỗ ngồi. Người đàn ông trên chiếc xe lăn ngồi ở đầu bàn, quạu quọ và đen sì như một con bọ hung, trong khi người đàn ông tóc cột đuôi ngựa lăng xăng xung quanh, chỉ đạo chỗ nào thì để ly, rượu và nước. Trong góc phòng, hai mươi tiếp viên đang lo lắng nhìn Strawberry di chuyển xung quanh các bàn và thì thầm điểm tên phân công họ ra tiếp khách. Bà ta có một vẻ mặt rất kỳ lạ, như không còn giọt máu, như đang giận dữ. Trong một lúc, không thể đoán định được vẻ mặt đó, cho tới khi bà ta hất đầu lại phía sau và cắt ngang căn phòng tiến về phía tôi. Mọi cơ mặt li ti của bà ta đều đang co giật. Strawberry đang lo lắng.

“Grey san,” bà nghiêng người về phía tôi nói nhỏ. “Ngài Fuyuki. Cô đến đó ngay và ngồi cùng với ông đi.”

Tôi định xách túi đi thì bà ta đặt một tay lên môi làm dấu. “Hãy cẩn thận đấy,” bà ta thầm thì. “Cực kỳ cẩn thận đấy. Đừng có nói năng lung tung.” Bà ta dừng lại nhìn tôi do dự một chút, đôi mắt nheo lại vằn lên những tia màu nâu sau lớp kính sát tròng màu xanh nước biển. “Nhất là mụ ta.” Bà ta hất đầu về phía góc tường. “Y tá của ông ta, Ogawa. Đừng bao giờ thử bắt chuyện hay nhìn thẳng vào mắt mụ ta. Hiểu chưa?”

“Vâng,” tôi nói một cách yếu ớt, mắt liếc về khối đen sẫm phía góc tường. “Vâng. Tôi hiểu.”

Trên bất cứ đường phố nào ở Tokyo, bạn đều có thể nhận thấy sự có mặt của các yakuza, các băng nhóm xã hội đen khét tiếng của Nhật Bản, tự nhận mình là hậu duệ của dòng dõi samurai. Họ là một trong những băng đảng bạo lực và đáng sợ nhất ở châu Á. Đôi khi bạn được nhắc nhở về sự tồn tại của họ khi nghe thấy tiếng rú ga của những chiếc môtô bosozoku chở những tay anh chị đội mũ sắt sơn dòng chữ kamikaze, hệt như một đợt sóng màu vàng crom đổ ập xuống Meiji Dori trong đêm khuya thanh vắng. Nhưng vào những lúc khác, dấu hiệu tồn tại của họ xuất hiện theo một số cách trừu tượng hơn nhiều: một chiếc đồng hồ Rolex sáng choang trong tiệm cà phê, một mái đầu húi cua trong nhà hàng, một chiếc áo cổ lọ bỏ trong quần vải đen không nhàu và đôi giày da rắn sáng bóng trong một ngày nóng bức. Hay một cánh tay xăm trổ chìa ra khi xếp hàng mua vé tàu điện ngầm ngay đằng trước bạn. Tôi không nghĩ nhiều tới họ cho tới tận đêm đó khi tôi băng qua sàn nhảy về phía những người khách mới đến trong không khí lặng im, nghe tiếng ai đó thì thầm từ một chỗ ngồi cạnh sàn nhảy, “Yakuza.”

Khi tôi đến gần, cả bàn vẫn im phăng phắc. Toàn bộ đám tiếp viên cũng ngồi im re, không dám ngó nghiêng gì cả. Dường như ai cũng tránh ngồi quay lưng về phía mụ Y Tá, lúc này vẫn ngồi trong góc tường, bất động như một con rắn. Tôi được xếp ngồi cạnh Fuyuki bên chiếc ghế lăn của ông ta và có thể quan sát ông ta khá rõ. Mũi của ông ta bé kinh khủng, như thể đã bị lửa ăn mất một phần, khiến ông ta cứ phải thở phì phì một cách nặng nhọc. Mặt ông ta nom không hẳn là tử tế mà chỉ có cái vẻ gì đó như không muốn gây sự, chỉ muốn quan sát mọi thứ xung quanh, giống như một con ếch già. Ông ta cũng không muốn bắt chuyện với ai.

Đám đàn em của ông ta ngồi im, tay kính cẩn đặt lên bàn trong khi chờ đợi người đàn ông tóc đuôi ngựa chuẩn bị đồ uống cho Fuyuki. Ông này rót whisky mạch nha vào một chiếc ly bọc trong một cái khăn trắng xúc rượu tráng ly rồi đổ vào xô đá, dùng khăn lau cẩn thận trước khi rót một ly mới. Xong xuôi, ông ta giơ tay ra hiệu cho những người khác chờ thêm một chút nữa rồi từ từ quay sang đưa ly rượu cho Fuyuki. Ông trùm giơ bàn tay run rẩy cầm lấy ly rượu đưa lên miệng nhấp. Ông ta hạ ly rượu xuống, một tay xoa bụng, một tay đưa lên miệng để che cơn ợ, gật đầu vẻ hài lòng.

Omaetachi mo yare,” người đàn ông tóc đuôi ngựa hất cằm ra hiệu cho những người khác có thể bắt đầu. “Nonde.”

Đám người bắt đầu thư giãn. Họ nâng cốc uống. Một vài người đứng lên cởi áo khoác, người khác thì lôi xì gà ra hút. Thư giãn hơn. Các nữ tiếp viên bắt đầu rót rượu, bỏ đá vào ly và khuấy đều bằng các que thủy tinh của quán. Không bao lâu sau, rượu vào lời ra, mọi người bắt đầu chuyện trò sôi nổi. Chưa đầy một tiếng sau, đám đàn ông đều đã say.

Irina và Svetlana hỏi xin meishi của Fuyuki. Đó không phải chuyện kỳ quái - phần lớn khách hàng khi đến đây đều tự động đưa danh thiếp cho chúng tôi sau vài phút ngồi vào bàn nhưng Fuyuki thì không dễ dàng thế. Ông ta nhíu mày, hắng giọng rồi nhìn hai chị em sinh đôi vẻ dò xét. Cuối cùng thì ông ta cũng chịu thò tay vào túi và móc ra vài cái danh thiếp, kẹp chúng giữa những ngón tay màu nâu, lòng bàn tay úp xuống, và phân phát xung quanh bàn. Tôi thoáng thấy tên của ông ta được thêu bằng chỉ vàng trên miệng túi áo. “Bảo họ đừng có coi ta là con khỉ làm xiếc. Ta không muốn ai đó gọi điện nhắc ta đến hộp đêm. Ta sẽ đến khi nào ta muốn.” Ông ta nói nhỏ với người đàn ông buộc tóc đuôi ngựa.

Tôi nhìn chằm chằm vào tấm danh thiếp trong tay mình. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái danh thiếp nào đẹp như thế. Đó là một tấm danh thiếp được làm thủ công bằng giấy nhám, mép hơi gồ lên. Không giống những tấm danh thiếp thông thường, tấm danh thiếp này không hề ghi địa chỉ cũng như chú thích tiếng Anh ở đằng sau. Nó chỉ có duy nhất một số điện thoại và tên giữa của Fuyuki ghi bằng chữ kanji theo kiểu thư pháp bằng mực thông.

“Gì vậy?” Fuyuki thì thầm. “Có gì sai à?”

Tôi lắc đầu và nhìn chằm chằm vào danh thiếp của ông ta. Những chữ kanji nhỏ bé này thật là đẹp. Tôi đang nghĩ hệ thống chữ viết cổ này mới tuyệt vời làm sao, so với chúng, những chữ tiếng Anh mới khẳng khiu và ủ rũ biết bao. “Gì vậy?”

“Cây Mùa đông,” tôi lẩm bẩm. “Cây Mùa đông.”

Một người đàn ông ở cuối bàn đã bắt đầu phá lên cười trước khi tôi dứt lời. Khi không thấy ai cười theo thì anh ta bèn hắng giọng rồi lấy khăn che miệng và nốc vội một ngụm rượu. Tất cả trở lại yên lặng. Irina khẽ hắng giọng và lắc lắc đầu. Nhưng Fuyuki cúi ra phía trước và nói khẽ bằng tiếng Nhật: “Tên của ta, làm sao mà cô biết được tên ta có nghĩa như thế, cô biết tiếng Nhật à?”

Tôi ngước nhìn ông ta, mặt trắng bệch, giọng không được chắc chắn cho lắm. “Dạ, có biết một chút ạ.”

“Cô cũng đọc được chữ kanji chứ?”

“Chỉ khoảng 500 chữ thôi ạ!”

“500 chữ? Sugoi. Thế là quá nhiều.” Lúc này những người khác mới bắt đầu quay sang nhìn tôi như thể họ vừa mới nhận ra rằng tôi là một con người chứ không phải là một đồ vật. “Cô nói, cô là người nước nào ấy nhỉ?”

“Nước Anh à?” Câu hỏi bật ra như thăm dò.

“Nước Anh à?” Ông ta cúi xuống và nhìn như xuyên qua tôi. “Hãy nói cho ta biết, có phải ở Anh quốc, họ đều xinh đẹp như thế không?”

Được bất kỳ ai khen xinh thì... nhưng cũng may mà tôi không hay được người khác khen xinh, vì cứ mỗi lần như thế tôi lại cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, nhớ tới tất cả những chuyện có thể không bao giờ xảy đến với tôi. Ngay cả nếu như tôi có xinh đẹp thật đi chăng nữa. Lời khen của ông già Fuyuki khiến tôi ngượng và co mình lại trong cái vỏ của mình. Từ lúc đó trở đi, tôi không nói gì nữa, chỉ im lặng hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng lại tìm cớ để ra khỏi chỗ đó. Mỗi lần phải vào quầy bar để lấy ly sạch hay đồ ăn thì tôi đều tranh phần đứng dậy.

Suốt buổi, mụ Y Tá gần như không rời khỏi chỗ. Tôi không thể cưỡng lại việc thỉnh thoảng lại liếc trộm về phía mụ. Bóng mụ gần như bất động trong góc tường. Có thể thấy đám phục vụ bàn cũng không thoải mái trước sự hiện diện của mụ. Thường thì một trong số họ sẽ đi vào đó để hỏi khách muốn uống gì không nhưng đêm nay thì chỉ có mỗi Jason đủ can đảm để tiếp mụ ta. Khi tôi tới quầy bar lấy khăn ấm thì thấy anh ta đang chuẩn bị thực đơn whisky cho mụ. Anh ta đi lại tự tin, thản nhiên ngồi xuống bàn, khoanh tay nhìn mụ ta chọn đồ uống, không có vẻ gì là sợ sệt. Tôi tranh thủ quan sát mụ ta.

Mụ ta ngồi quay nghiêng về phía tôi và trông thật đáng sợ - khắp người mụ ta phủ phấn trắng, phấn đóng thành vệt cứng trên các nếp nhăn ở cổ và cổ tay. Cả người mụ chỉ duy nhất có đôi mắt một mí là đen sẫm, nhỏ xíu, cách xa sống mũi, tụt vào trong sọ, không nhìn thấy hốc mắt đâu cả. Mama Strawberry đã dặn tôi không được nhìn thẳng vào mắt mụ ta nhưng nếu không quan sát kỹ thì đúng là không thể thấy mắt mụ ta được, và cái vị trí bất thường của đôi mắt chắc là khiến thị giác kém đi vì tôi thấy mụ ta cứ gí tờ thực đơn vào mắt rồi xoay tới xoay lui, như thể đang ngửi nó vậy. Tôi không quay trở lại bàn ngay lập tức mà đứng nấn ná ở quầy bar giả vờ kiểm tra đống khăn ấm.

“Mụ ta có cái gì đó gợi tình,” tôi nghe Jason nói với ai đó ở quầy bar khi quay trở lại kêu đồ uống cho mụ. Anh ta đứng chống tay vào quầy bar nói bâng quơ. “Gợi tình theo kiểu quái đản ác dâm và khổ dâm,” rồi ngoái đầu nhìn về phía mụ ta miệng cười khoái trá. “Cứ cho là tôi sẽ làm chuyện xấu xa với mụ nếu phải thế.” Anh ta quay lại và bắt gặp tôi đang đứng ở quầy bar lặng lẽ nhìn anh ta chằm chằm. Anh ta nháy mắt và nhướn mày, vẻ đồng lõa. “Chân đẹp đấy,” anh ta giải thích, hất đầu về phía mụ Y Tá. “Hay có lẽ tại đôi giày cao gót.”

Tôi không trả lời. Tôi cầm lấy chiếc oshibori và bỏ đi, tự dưng cảm thấy xấu hổ một cách ngu ngốc, vấn đề với Jason là anh ta luôn làm tôi muốn khóc.

Thật khôi hài là ai đó lại có thể cấy suy nghĩ vào trong đầu óc bạn. Đêm đó, tôi cúi nhìn đôi chân đang bắt chéo dưới bàn của mình. Lúc đó, tôi đã khá say và nhớ mình đã nhìn chúng, đôi mắt cá chân đan chéo vào nhau và băn khoăn không hiểu như thế nào thì được gọi là có đôi chân đẹp? Tôi vuốt nhẹ tất chân, mở đầu gối ra một chút, ngắm nghía và tự hỏi không hiểu chân mình thì có được gọi là đẹp không?