Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 5

Ngày hôm đó trời nóng nực và dài lê thê tới mức các vỉa hè cũng chảy mồ hôi nhớp nháp dưới chân. Mồ hôi toát ra từ những máy điều hòa không khí, rỏ lên người đi đường phía dưới và Tokyo dường như đang chuẩn bị trôi ra khỏi lục địa và xèo xèo trượt vào trong đại dương. Tôi tìm thấy một quầy bán báo và mua một lon trà xanh ướp lạnh kèm vài chiếc kẹo sôcôla dừa tan ngay trong miệng. Tôi vừa đi lướt thướt trên đường vừa ăn uống và ngay lập tức cảm thấy khỏe hơn một chút. Tôi rẽ vào đường xe điện ngầm và lẫn vào dòng người sạch sẽ, sáng láng, chiếc áo len chui cổ bẩn thỉu của tôi cọ vào những chiếc sơ mi phẳng phiu mới giặt của họ. Tôi để ý thấy người dân Tokyo không có mùi. Thật buồn cười. Tôi không ngửi thấy mùi của họ và họ cũng ít nói, tàu điện ngầm chật cứng nhưng rất im ắng giống như một toa tàu chở đầy các manơcanh.

Ngôi nhà của Jason nằm trong một khu có tên là Takadanobaba, có nghĩa là Bãi ngựa thượng. Khi tàu dừng, tôi thận trọng đặt chân lên bậc lên xuống, tò mò quan sát máy móc và những biển quảng cáo nước tăng lực. Ai đó va vào tôi và sau đó là một phút bấn loạn khi những người đi sau cố không bị ngã theo người đi trước. Hãy nhớ lấy, trong xã hội có những quy tắc mà cháu luôn phải tuân theo.

Bên ngoài ga tàu điện ngầm, đường phố chật cứng sinh viên từ trường đại học Waseda. Tôi đi lên phía đầu đường, gần chỗ ngân hàng Citibank, rồi rẽ khỏi đường chính và đột nhiên thấy mọi thứ thay đổi hoàn toàn. Tôi thấy mình đi giữa đống đổ nát của Tokyo cũ. Xa rời âm thanh ồn ã của các bảng quảng cáo điện tử là những ngõ hẻm mát mẻ, im ắng: những con phố bé xíu quanh co nằm chằng chịt sau lưng các tòa nhà chọc trời, một con đường tối tăm nhưng sống động giống như đường mòn trong rừng. Tôi nín thở và sững sờ nhìn xung quanh, mọi thứ giống như những bức tranh tôi nhìn thấy trong sách. Những ngôi nhà gỗ ọp ẹp nằm san sát, cũ kỹ, mục ruỗng, những kẻ sống sót sau hàng chục năm động đất, hỏa hoạn, bom đạn. Giữa những khe hở bên sườn mọc ra đám cây leo um tùm sum sê trông giống như những cái cây ăn thịt người.

Ngôi nhà của Jason là ngôi nhà to nhất, cổ nhất và đổ nát nhất mà tôi từng thấy ở Tokyo. Nằm trong một góc giữa hai phố nhỏ, tất cả cửa sổ tầng trệt của ngôi nhà bị bịt kín bởi những tấm ván có đóng đinh và khóa móc, cây leo chằng chịt ngóc lên từ vỉa hè cuốn lấy ngôi nhà y như những bụi gai trong câu chuyện Công chúa ngủ trong rừng. Bên sườn nhà là chiếc cầu thang dẫn lên tầng hai của ngôi nhà với chiếc cửa gỗ nhỏ, một cái chuông cũ gỉ bám đầy bụi và một mái vòm bằng nhựa để che mưa nắng.

Tôi vẫn nhớ như in bộ quần áo mà Jason mặc khi anh ta ra mở cửa cho tôi. Anh ta vận một chiếc áo sơ mi màu xanh ôliu, quần soóc và chân xỏ vội một đôi giày sa mạc méo mó không buộc dây, gót chân đè lên trên mép giày, cổ tay anh ta đeo một chiếc vòng tết bằng chỉ thêu và tay cầm một chiếc can đựng bia bằng bạc trên có dòng chữ Asahi. Bây giờ tôi mới có cơ hội nhìn ngắm anh ta kỹ hơn một chút trong ánh sáng ban ngày - anh ta có nước da trơn nhẵn, sạch sẽ như thể suốt ngày ở ngoài trời. Những từ “Anh ta thật đẹp” thoáng xuất hiện trong đầu tôi.

“Xin chào, cô gái kỳ quặc, cô thay đổi ý định à? Về việc thuê phòng ấy?” Anh ta nói, ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi.

“Còn ai sống ở đây nữa?” Tôi nhìn quanh ngôi nhà.

Anh ta nhún vai. “Tôi. Hai cô gái làm việc trong hộp đêm. Một vài hồn ma. Thật ra cũng không biết là bao nhiêu con nữa.”

“Hồn ma?”

“À, đấy là mọi người nói thế.”

Tôi im lặng một lát, ngước nhìn lớp ngói của ngôi nhà, những mái hiên uốn cong chạm hình rồng và cá heo đã bong tróc. Ngôi nhà có vẻ rộng hơn và tối hơn những nhà bên cạnh. “Thôi được, tôi không quan tâm đến chuyện ma quỷ, tôi muốn thuê phòng ở đây,” cuối cùng tôi lên tiếng và xách túi lên.

Anh ta không có ý định xách túi giùm tôi, mà dù sao thì tôi cũng chẳng biết nói gì nếu anh ta định làm thế. Tôi đi theo anh ta lên gác, bước chân của chúng tôi vang khắp nhà.

“Tầng trệt bị khóa, không có đường vào,” anh ta nói, vẫy vẫy can bia về phía những cửa sổ bị bịt kín. “Chúng ta ở tầng trên và cô sẽ phải ra vào bằng đường này.”

Chúng tôi dừng lại ở đầu cầu thang. Tôi đứng ở góc nhà, trong một hành lang tối, kín mít, dẫn sang hai bên phải trái tôi theo một đường vuông góc. Tôi chỉ có thể nhìn được khoảng năm mét về cả hai phía rồi cái hành lang bụi bặm dường như thu hẹp dần, như thể mất hút đâu đó trong một góc phố tối tăm lạnh lẽo khác của Tokyo mà tôi không tài nào hình dung ra. Đã quá trưa mà ngôi nhà vẫn lặng im như tờ.

“Phần lớn ngôi nhà bị khóa. Tiền thuê đất ở Tokyo tăng ngất ngưởng kể từ khi nền kinh tế bong bóng bùng nổ, nhưng chủ đất vẫn đang cố thương lượng với các chuyên viên phát triển bất động sản. Nếu họ thành công thì nơi này sẽ bị phá đi để xây một tòa nhà cao tầng khác nên tiền thuê nhà ở đây gần như cho không.” Nói đến đây, Jason đá đôi giày đi. “Tất nhiên cô sẽ phải quen với việc vôi vữa thỉnh thoảng rơi rụng xung quanh.” Anh ta phác một cử chỉ mơ hồ về phía hành lang bên phải: “Các cô gái ngủ ở đây, bên cánh này. Cả ngày ở trên giường. Gái Nga. Giờ thì người ta đã tháo cũi cho người Nga chạy đi khắp nơi. Thông tin về cuộc suy thoái kinh tế ở Nhật vẫn chưa đến được nước Nga. Này…” Anh ta đẩy cho tôi một đôi dép cói đã mòn vẹt và đứng nhìn khi tôi thay giày, tháo đôi giày nhỏ thô cứng có dây buộc ra và xỏ bàn chân đi tất vào đôi dép lê, “Có đau chân không?” Anh ta chỉ vào đôi giày. “Trông có vẻ đau.”

“Có, chân tôi phồng rộp hết cả.”

“Thế cô không có cái gì khác để đi à?”

“Không.”

“Thế trong túi cô đựng gì mà nặng thế?”

“Sách vở.”

“Sách vở?”

“Đúng vậy.”

“Sách gì?”

“Sách tranh.”

Jason phá lên cười. Anh ta châm một điếu thuốc và hài lòng nhìn tôi xỏ chân vào đôi dép mới. Tôi kéo thẳng chiếc áo len, lấy tay vuốt tóc và đứng trước mặt anh ta, bộ dạng của tôi làm anh ta lại phá lên cười. “Thế,” anh ta hỏi, “tên cô là gì?”

“Grey.”

“Grey? Tên họ kiểu gì vậy?”

Tôi hơi do dự. Thật kỳ lạ khi xuất hiện ở một nơi không ai biết mình. Tôi hít một hơi thật sâu và cố trả lời với một giọng tỉnh bơ. “Đó là họ của tôi, mọi người đều gọi tôi thế.”

Jason dẫn tôi xuống hành lang bên tay phải, thỉnh thoảng dừng lại để giới thiệu về ngôi nhà. Bên trong, ngôi nhà mang lại một cảm giác êm ái đến kỳ lạ, giống như một cơ thể sống. Sàn nhà phủ đầy những tấm thảm cói tatami, mỗi chuyển động đều dậy mùi hương bí ẩn của tằm kén. Các phòng được bố trí cùng một bên của hành lang, bên kia là những bức bình phong bằng gỗ đã mòn vẹt che khuất bức tường đối diện, cao từ thắt lưng tới trần.

“Buồng tắm kiểu truyền thống nên khi tắm phải ngồi xổm. Cô biết cách chứ?” Anh ta nhìn tôi từ đầu tới chân. “Ngồi xổm? Lấy gáo múc nước từ chum ra tắm? Cô có biết đó chính là mục đích của việc sống ở Nhật không - làm mọi việc theo cách khác người.”

Nhưng trước khi tôi kịp trả lời thì anh ta đã quay sang phía đối diện với các căn phòng và mở cánh cửa chớp ra. Ánh mặt trời ùa vào qua lớp kính phủ đầy bụi. “Máy điều hòa chỉ là đồ chết tiệt nên mùa hè phải đóng cửa suốt ngày.”

Chúng tôi đứng cạnh cửa sổ và nhìn xuống một khu vườn tường bao kín mít. Khu vườn trông um tùm và bí ẩn như một khu rừng nhiệt đới, cây cối mọc cao ngang cửa sổ tầng trệt. Những cây hồng vàng sẫm màu với tán lá nặng trĩu mọc chen vào các kẽ tường và che hết ánh mặt trời. Tôi đặt hai tay lên ô cửa, dán mũi vào lớp kính và nhìn ra ngoài. Cuối khu vườn là sân sau của một tòa nhà chọc trời màu trắng.

“Tòa nhà Muối,” Jason nói. “Không hiểu sao nó lại có tên như thế, chắc là do truyền miệng, hệt như những căn phòng vậy, qua tay hết chủ này đến chủ khác.”

Tôi định quay đi thì chợt để ý thấy dưới khu vườn, cách chỗ tôi đứng khoảng ba mươi mét, thấp thoáng dưới các tán cây một mái nhà bằng ngói đỏ phơi mình trong nắng.

“Đó là cái gì vậy?”

“Cái đó à?” Anh ta tì mũi vào cửa sổ. “Đó là chái thứ ba của ngôi nhà. Khóa kín mít.”

“Cũng thuộc về ngôi nhà này?”

“Tôi biết là thế nào cô cũng hỏi. Chúng tôi gọi chỗ này là Cấm Cung. Tôi biết khoảng hai mươi phòng ở đây và nghe đồn là còn hai mươi phòng khác nữa.”

Cho đến lúc này tôi mới thấy căn nhà chiếm hết một khoảng đất rộng biết bao. Nó che gần hết khu phố, bao quanh khu vườn như ba cạnh của một hình vuông. Nhìn từ trên cao, nó giống như một cây cầu bị Tòa nhà Muối che mất cạnh thứ tư. Ngôi nhà đang ở vào giai đoạn mục ruỗng, bắt đầu từ hai bên cánh, và Jason nói anh ta không muốn biết cái gì nằm bên trong các phòng bị khóa kín ở tầng trệt. “Đấy là nơi các bóng ma trú ngụ, theo lời hai cô nàng sinh đôi baba yaga[1].”

Chúng tôi đi qua một dãy dài cửa trượt làm bằng giấy shoji, có cái mở, có cái đóng. Tôi nhìn lướt qua đám đồ đạc trong bóng tối lờ mờ, những đồ nội thất bụi bặm chất đống và bị lãng quên. Tôi thấy một chiếc butsudan - một chiếc tủ thờ tổ tiên - bằng gỗ tếch, trống không ngoại trừ một ngăn chất đầy những lọ thủy tinh bụi bặm. Đôi dép lê của tôi êm như ru. Chúng tôi tiến đến gần một cánh cửa khóa chặt và niêm phong bằng một thanh sắt to. Jason dừng lại. “Chỗ này không đi được.” Anh ta áp mũi vào cánh cửa rồi khịt mũi. “Chúa ơi, cứ trời nóng là có cái mùi kinh không chịu được.” Anh ta lấy tay quệt mặt rồi quay lại, gõ tay vào cánh cửa cuối cùng trong hành lang. “Đừng lo, đây là phòng của cô, ở đây cô sẽ ổn thôi.”

Anh ta đẩy cánh cửa trượt. Ánh mặt trời chiếu xuyên qua hai mảnh vải cũ bẩn găm trên cửa sổ. Những tấm vải che tường bằng lụa màu nâu nhạt rách tả tơi, rủ xuống theo những vết rạch dài nham nhở giống như một con thú có móng vuốt từng bị nhốt ở đây. Những tấm lót sàn tatami đã sờn cũ, vài con ruồi chết khô trên bậu cửa sổ và mạng nhện chăng đầy trên các đồ đạc khác trong phòng.

“Cô nghĩ sao?”

Tôi bước vào giữa phòng và nhìn ngó xung quanh. Ở bức tường gần đó có một hốc tường takonoma, một chiếc ghế đu bằng mây đặt sát tường nơi vẫn thường dùng để treo các bức thư họa bốn mùa.

“Cô muốn làm gì với nó thì làm. Chủ nhà cóc quan tâm, thậm chí còn thường xuyên quên thu tiền nhà.”

Tôi nhắm mắt lại và dang hai tay ra để cảm nhận sự mềm mại của không khí, và ánh nắng đong đầy bụi chiếu ấm lưng tôi. Căn phòng này rộng gấp đôi căn phòng trọ của tôi ở Luân Đôn và dường như nó đang chào đón tôi. Có một mùi hương ngai ngái, như mùi rơm và lụa đang khô mục.

“Sao?”

“Nó...” Tôi nói và mở mắt ra, tay tôi chạm vào những mảnh lụa còn sót lại trên tường. “... Nó rất đẹp.”

Jason giật tấm vải phủ cửa sổ xuống và mở tung cánh cửa để một chút không khí ấm áp tràn vào phòng.

“Còn đây là cũi của Godzilla[2],” anh ta nói và chỉ ra bên ngoài cửa sổ.

Khi mới tới đây, vì vẫn còn choáng ngợp bởi các tòa nhà chọc trời nên tôi đã không nhận ra độ cao thực sự của Takadanobaba.

Chỉ đến bây giờ, nhìn từ trên cao, tôi mới thấy khu vực xung quanh trũng hẳn xuống. Đỉnh của các tòa nhà cao tầng bên cạnh chỉ nằm ngang với cửa sổ nơi tôi đứng, tiếng cười nói huyên náo vẳng ra từ các màn hình quảng cáo treo khắp nơi. Chỉ cách chỗ tôi đứng mười mấy mét, một biển quảng cáo lớn choán hết tầm nhìn. Nó là bức chân dung màu đỏ khổng lồ của một ngôi sao điện ảnh với nụ cười nhếch mép đang nâng một chiếc cốc như muốn uống mừng cả Takadanobaba. Chiếc cốc có vẽ dòng chữ Suntory Reserve.

“Mickey Rourke, kẻ mê hoặc phụ nữ,” Jason nói.

“Mickey Rourke,” tôi nhắc lại. Tôi chưa từng nghe đến cái tên này nhưng tôi thích gương mặt của ông ta. Tôi thích cái kiểu ông ta nhìn xuống chúng tôi và mỉm cười. Tôi túm lấy khung cửa và thò đầu ra ngoài một chút. “Hongo nằm ở phía nào?”

“Hongo, tôi không biết, chắc là phía này...”

Tôi kiễng chân và nhìn ra xa, qua những mái nhà san sát, những bảng hiệu neon nhấp nháy và những cột anten vô tuyến vàng óng vì nắng. Chúng tôi cách xa nhau hàng kilômét. Tôi không bao giờ có thể nhìn thấy văn phòng của Sử Trùng Minh giữa đám nhà chọc trời này. Thế nhưng, không hiểu sao chỉ cần biết là nó nằm ở đâu đó quanh đây cũng đủ làm tôi cảm thấy dễ chịu. Tôi đứng thẳng lại.

“Giá phòng là bao nhiêu?”

“Hai trăm đô một tháng.”

“Tôi chỉ cần thuê trong một tuần thôi!”

“Thế thì năm mươi đô. Quá là đi ăn cắp.”

“Tôi không có đủ chừng ấy tiền.”

“Cô không có nổi năm mươi đô la? Thế cô nghĩ chi phí ở Tokyo là bao nhiêu cơ chứ? Năm mươi đô la là giá rẻ bất ngờ đấy!”

“Tôi chẳng có lấy một xu.”

Jason thở dài.

Anh ta dụi tắt điếu thuốc, ném nó ra ngoài cửa sổ và chỉ về đường chân trời. “Hãy nhìn về phía Đông Nam. Những tòa nhà cao tầng đó là Kabuchi Cho và phía bên trên nữa, có thấy gì không?”

Ở phía xa, một con quái vật bằng kính đổi màu với tám cột trụ đen sì, đứng sừng sững giữa trời, cao hơn tất cả những tòa nhà chọc trời khác. Bốn miệng máng xối hình đầu thú khổng lồ bằng đá hoa cương đen theo kiểu gô tích nằm trên bốn góc mái phụt lên trời những luồng khí cao tới mười mấy mét như muốn hun đốt bầu trời.

“Đấy là tòa nhà của tư nhân, một trong những tòa nhà của anh em Mori. Nhìn kỹ trên tầng thượng ấy!”

Tôi căng mắt ra nhìn. Gắn trên chóp của tòa nhà là bức ảnh lớn của một phụ nữ đang ngồi trên xích đu. “Tôi biết người phụ nữ này, tôi nhận ra cô ta.”

“Đó là Marilyn Monroe.”

Marilyn Monroe. Cô ta dễ phải cao đến gần mười mét, tính từ đôi giày cao gót màu trắng cho tới mái tóc tẩy màu, và đang đu tới đu lui theo hình vòng cung trên chiếc bảng điện nhấp nháy, chiếc váy mỏng mùa hè bay tốc lên đến tận quá thắt lưng.

“Đó là hộp đêm Some Like It Hot nơi tôi và hai cô nàng baba yaga làm việc. Đêm nay tôi sẽ dẫn cô tới đó. Chỉ vài giờ là cô có đủ tiền thuê nhà.”

“Ôi không, đó là một hộp đêm!” Tôi nói và lùi ra khỏi cửa sổ.

“Rất dễ chịu, đừng lo. Strawberry sẽ ưng cô ngay.”

“Không, đừng có nói thế vì bà ấy sẽ không thuê tôi đâu,” tôi nói, đột nhiên cảm thấy mình rất vụng về.

“Sao không?”

“Vì...” Tôi bối rối dừng lại. Tôi thật không biết phải giải thích cho anh ta thế nào. “Không, chắc chắn bà ấy sẽ không thuê tôi.”

“Cô nhầm đấy! Nhưng dù sao đi nữa, theo như tôi biết thì cô cũng đâu có cách nào khác.”