Ác Quỷ Nam Kinh

Chương 11

Hai chị em người Nga bảo không có gì đáng ngạc nhiên khi Jason có nói đùa mấy câu về mụ Y Tá. Họ cho rằng anh ta là một kẻ lập dị. Phòng anh ta dán đầy những bức ảnh kinh hoàng và anh ta thường xuyên đặt mua các tạp chí đặc biệt từ Thái Lan, rồi thỉnh thoảng trong nhà lại bị mất trộm những thứ lặt vặt, không đáng giá nhưng kỳ quái, như gấu chiến đồ chơi của Irina làm bằng da thật, một chiếc găng tay bằng lông sói hay bức ảnh ông bà của hai cô gái. Theo họ, có lẽ anh ta là một người tôn thờ quỷ dữ. “Anh ta toàn xem những thứ bệnh hoạn, khiến cô muốn ói luôn, băng video của anh ta toàn thấy chết chóc.”

Đó là những cuộn băng bày đầy trong các cửa hàng thuê băng ở đường Waseda với những tựa đề dường như thấm đẫm những giọt máu kinh hoàng: Đối mặt tử thần, Nhà xác điên rồ, Phim tài liệu về khám nghiệm tử thi. Những vỏ băng khoa trương, và bạn sẽ cho rằng tất cả đều là phim sex nếu chứng kiến đám đông thanh niên có vẻ như luôn chầu chực ở trong góc của cửa hàng. Tôi chưa tận mắt nhìn thấy những băng hình này nên không biết hai chị em có nói thật hay không nhưng những bức ảnh của Jason thì tôi biết.

“Tôi đã ở châu Á được hơn bốn năm,” anh ta nói với tôi. “Cô cứ việc chụp Taj Mahal và Angkor Wat. Tôi đang muốn tìm kiếm một cái gì đó...” Anh ta dừng lại, xoa xoa các ngón tay với nhau như thể đang cố gắng nặn ra ngôn ngữ từ không khí, “... Tôi đang tìm kiếm một cái gì đó, một cái gì đó khác biệt hơn.” Một hôm, tôi tình cờ đi ngang qua phòng anh ta khi cửa để mở và không có ai ở trong phòng. Tôi không thể cưỡng lại được, tôi phải bước vào trong.

Tôi nhìn thấy những gì mà hai chị em người Nga kể. Khắp tường găm đầy những tranh ảnh rùng rợn: chỗ này là hình ảnh một người đàn ông tàn tật, đáng thương, trần truồng trừ một vòng hoa cúc vạn thọ, ngồi ủ rũ trên bờ sông mà tôi đoán là sông Hằng; chỗ kia là những chàng trai trẻ tuổi người Philippin bị đóng đinh thập tự và những đàn kền kền đang rỉa xác người trên Tháp Yên lặng trong một đám tang của tín đồ Hỏa Giáo. Vì tôi từng học một ít tiếng Tây Tạng ở trường đại học nên tôi cũng dễ dàng nhận ra bức ảnh chụp một cây bách xù đang cháy âm ỉ với những lá cờ phướn cầu nguyện tung bay trên một nghĩa địa thiên táng ở ngoại ô Lhasa. Nhưng, khi tôi ngắm bức ảnh chụp một hình dạng mơ hồ, mờ mịt khói trắng trên chiếc bệ, được chú thích bằng một dòng nguệch ngoạc Giàn thiêu Varanasi, thì tôi chợt nhận thấy cả căn phòng này toát lên một vẻ đẹp kỳ lạ, vẻ đẹp của sự hiếu kỳ. Tôi lẻn ra ngoài không một tiếng động và cho rằng hai chị em người Nga đã sai. Jason không phải là một người bệnh hoạn, anh ta là một người rất độc đáo.

Anh ta là phục vụ bàn ở hộp đêm nhưng cả tuần tôi không thấy anh ta bê một cái khay nào. Anh ta thỉnh thoảng dừng lại ở các bàn và tán chuyện với khách như thể anh ta là chủ ở chỗ này chứ không phải Strawberry. “Anh ta là bồi bàn nhưng chẳng làm cái quái gì cả. Anh ta không cần phải làm việc vì Mama Strawberry khoái anh ta,” Irina lầm bầm. Có vẻ như bà ta bị lôi cuốn bởi sự quyến rũ của một người phục vụ bàn ngoại quốc. Phải nhắc đến vẻ ngoài của anh ta nữa. Mỗi lần anh ta đi ngang qua là các nữ tiếp viên người Nhật lại cười khúc khích, mặt đỏ bừng. Anh ta thường ngồi bên bàn của Strawberry, nhấm nháp rượu champagne, áo vét không cài khuy để khoe cơ thể, còn Mama Strawberry thì mỉm cười một cách ngớ ngẩn, đưa tay sửa lại váy sống, thỉnh thoảng lại tựa lưng vào ghế và đưa tay vuốt ve cơ thể mình.

Jason cũng chẳng mấy khi ở nhà và hiếm khi anh ta ra ngoài mà để cửa mở toang thế này. Thường thì anh ta khóa cửa rồi đi từ rất sớm khi cả ba chúng tôi còn đang ngủ hay anh ta đón taxi đi từ đêm trước rồi đến thẳng chỗ làm vào ngày hôm sau. Có thể anh ta lại đi lang thang ngoài công viên để tìm kiếm các phụ nữ ngủ trên ghế đá. Khắp nhà đều có dấu ấn của anh ta, từ đôi giày da đanh vứt lăn lóc ở chân cầu thang, những vệt kem cạo râu mùi chanh, khô cứng trong buồng tắm, những tấm danh thiếp màu hồng với những cái tên con gái như Yuko và Moe để trong bếp.

Tôi cố giả vờ không quan tâm tới tất cả những chuyện đó nhưng tự đáy lòng, tôi hoàn toàn bị Jason mê hoặc.

Tôi mua một quyển nhật ký ở Kiddyland, một cửa hàng dành cho con gái ở Omotesando. Đó là một quyển nhật ký màu hồng có bìa bằng nhựa trong với một lớp gel lóng lánh trôi lên trôi xuống. Tôi rất thích giơ nó lên cửa sổ nhìn ánh mặt trời chiếu vào các hạt lóng lánh bên trong. Mỗi ngày trôi qua, tôi lại dán một mảnh giấy dính màu kem vào quyển nhật ký để đánh dấu. Đôi khi tôi đi tàu tới Hongo và ngồi một mình trong quán cà phê Bambi, ngắm mặt trời đùa giỡn trên cánh cổng Akamon của trường đại học và quan sát đám sinh viên ra vào. Nhưng tôi không hề thấy Sử Trùng Minh. Chỉ còn năm ngày nữa, rồi bốn ngày, ba ngày, và cuối cùng là hai ngày. Ông bảo một tuần, có nghĩa là Chủ nhật. Nhưng Chủ nhật ông cũng không thèm gọi điện cho tôi.

Tôi không thể tin được. Ông ta đã nuốt lời. Tôi đợi cả ngày, ngồi trên ghế sofa trong phòng khách với đống sách vở bừa bãi xung quanh. Tôi không rời mắt khỏi chiếc điện thoại. Nhưng mỗi lần nó đổ chuông thì y như rằng có ai đó hỏi Jason. Tôi vồ lấy ống nghe và đó là một cô gái Nhật Bản thở dài vẻ không tin khi nghe tôi nói anh ta không có nhà. Ngày Chủ nhật hôm đó tôi nhận hộ anh ta tổng cộng năm tin nhắn từ năm cô gái khác nhau. Phần lớn trong số họ nói năng nhẹ nhàng, nhưng cũng có người tỏ ra rất thô lỗ. Một cô gái thở hắt ra khi nghe tôi trả lời điện thoại, hét vào tai tôi bằng một thứ tiếng Nhật the thé: “Mày là đứa quái nào đấy? Sao mày lại trả lời điện thoại? Bảo Jason ra nghe điện. NGAY LẬP TỨC.”

Tôi ghi lại tên của họ rồi vẽ nguệch ngoạc khuôn mặt họ ở bên cạnh theo trí tưởng tượng của mình. Vẽ chán rồi thì lại ngồi chống cằm nhìn chiếc điện thoại cả ngày không hề reo cho tôi lấy một lần.