Kỳ nghỉ cuối tuần thứ Năm và thứ Sáu trôi qua đằng đẵng khổ đau. Ibrahim đến chỗ làm vào sáng thứ Bảy, ngay sau lễ cầu nguyện Fajr, khi tòa nhà hầu như vẫn còn vắng vẻ. Ông định sẽ giải quyết đống hồ sơ trên bàn mình. Ông nhận thấy Omar đã gửi đến các hồ sơ của Warra ở Đội Điệp vụ. Chắc hẳn chúng đã được chuyển đến sau khi ông rời văn phòng ngày thứ Tư. Tất cả đều được bọc giấy và nhét trong túi nhựa chuyển hàng có để nhãn CÁC VỤ ÁN ĐÃ ĐÓNG và ĐỘI TRỌNG ÁN nhằm tránh sự chú ý. Ibrahim xé mở túi thư và dành cả buổi sáng để đọc các túi hồ sơ.
Có một câu chuyện vui ở Đội Điệp vụ rằng nếu bạn điều tra một vụ án và không tình cờ gặp ai đó có họ hàng xa nhận ra bạn trong đám cưới ông chú người hàng xóm của bạn, thì chắc là bạn đã dành hết thời gian thủ dâm ở tận ngoài sa mạc. Đội có quá nhiều nhân viên giả trang bị lật mặt đến mức đã có lúc họ chỉ có thể thuê người ở các thành phố khác, và thậm chí sau đó phải tuyển người từ phía nam bởi dù Jeddah có trở nên rộng lớn đến mức nào đi nữa, thì những chàng trai của đội dường như không thể nào đụng mặt với người quen.
Ibrahim chỉ định xem qua những thứ này, và ông ngờ phần lớn các trường hợp đều chỉ là không may. Nhưng ý thức về sự đàn áp đi cùng với một loạt vận rủi đã khiến ông quay cuồng mất một lúc, đủ để đi đến một ý tưởng xuẩn ngốc cho một hành động mà, như ông nghi ngờ, sẽ không bao giờ thành công cho dù có được sự đồng thuận của Chánh Thanh tra phụ trách Đội Điệp vụ. Họ nên thâm nhập vào mạng lưới những kẻ cắp là nữ giới.
Ibrahim và hai sĩ quan cấp dưới của Đội Điệp vụ hiển nhiên là đã gặp rắc rối khi trình bày ý tưởng đó với Chánh Thanh tra. Ngay cả khi họ đã thuyết phục được ông ta rằng thực chất có một mạng lưới những phụ nữ giàu có hành động cùng nhau để lấy cắp hàng xa xỉ phẩm tại các cửa hàng cao cấp (vòng tay kim cương là một mặt hàng được ưa thích), họ đã phải mất hàng tuần liền để tìm ra đâu là một phương thức hành động khả thi. Họ sẽ thâm nhập vào mạng lưới đó, thu thập đủ bằng chứng, và rồi - sao chứ? Tống giam một loạt phụ nữ giàu có hay sao? Quá nửa trong bọn họ sẽ mang thai bất cứ lúc nào. Không một người nào có ít hơn bốn đứa con. Phần lớn đã kết hôn với những gã ngu đần thuộc tầng lớp thượng - trung lưu, vốn luôn cho rằng tất cả áo quần và đồ trang sức mà vợ họ đang chưng diện lẽ dĩ nhiên là được chi trả nhờ khả năng kiếm tiền của chính bọn họ, những kẻ có mức lương cấp cao sẵn sàng trải thảm ở Milan. Bọn họ không nhận ra rằng các bà vợ không ăn cắp vì nghèo, các bà đó ăn cắp vì họ tức giận, họ không có quyền lực và có lẽ họ bị đàn áp.
Khi Ibrahim mới đưa ra gợi ý này cho Chánh Thanh tra, ông ta đã rất trầm ngâm. Rồi ông ta nhìn Ibrahim như thể ông ta vừa đặt một cục phân ngựa khổng lồ lên bàn làm việc của ông ta và cố gắng đẩy nó cho ông ta như một nghi lễ chào đón của người Bedouin. Và ngay lập tức Ibrahim nhận ra ông ta đang nghĩ: không đời nào chúng ta lại bắt một đoàn những bà mẹ giàu có đó.
Người ta nhanh chóng chỉ ra rằng họ luôn luôn có thể bắt giữ mấy ông chồng thay vì các bà vợ. Chẳng có ai ngạc nhiên nếu họ bắt những người chồng đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của vợ mình. Sự căng thẳng trong căn phòng có bớt đi chút ít. Ai đó đã tếu rằng bọn họ sẽ có thể cứu được những bà mẹ nghèo khó này từ tay những gã chồng ngu ngốc. Đội của bọn họ sẽ giống như những đơn vị chống bạo hành gia đình ở những quốc gia khác, một kiểu cơ quan mà Jeddah đang nỗ lực để thiết lập và có phần vờ như là đã có, nếu các chính trị gia là những người có thể tin được.
Ban đầu ông Chánh Thanh tra đã không muốn động chạm gì đến mạng lưới này. “Quay trở lại với mấy cái vụ ma túy của các anh đi.” Nhưng họ đã tiếp tục tác động đến ông ta, chọn những thời điểm dễ thuyết phục nhất, bởi họ đã ngán ngẩm ma túy lắm rồi. Và có thể họ sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, nhưng họ thích thử thách đó. Xâm nhập một mạng lưới phụ nữ khép kín.
Cuối cùng thì ông Chánh Thanh tra cũng đã ưng thuận. Thậm chí ông ta còn bị ấn tượng bởi vụ đánh cắp kim cương trị giá ba trăm nghìn riyal giữa ban ngày ban mặt tại trung tâm Vàng bạc al-Tahlia. Những người phụ nữ này rõ ràng đã theo dõi hệ thống an ninh của cửa hàng đó. Bọn họ biết cách để đánh lạc hướng các nữ bảo vệ và cách vào được khu trưng bày. Và bọn họ đã thực hiện vụ đánh cắp mà không màng gì đến sự hiện diện của cả tiểu đoàn máy quay phim liên tục hoạt động ngay cả khi cửa hàng đóng cửa. Tại sao? Bởi vì họ che mặt, cơ thể thì giấu kín trong những chiếc áo trùm màu đen bùng nhùng.
Một trong những kỹ thuật viên đã gợi ý họ thử một loại chương trình phần mềm mới - Lột trần - có thể tước bỏ quần áo trên cơ thể người theo phương thức kỹ thuật số và đôi khi có khả năng đặt một khuôn mặt dưới dạng không có khăn trùm đầu. Nhưng không lâu sau khi anh chàng đưa ra gợi ý đó thì chương trình này bị cấm bởi một sỹ quan cấp trên, người đã tá hỏa về việc đàn ông lột bỏ trang phục của phụ nữ bằng máy vi tính và kêu gọi luật pháp chống lại điều đó.
Có vẻ như nhóm trộm cắp này gồm sáu phụ nữ, nhưng rất khó nói bởi họ luôn luôn mang khăn trùm đầu. Và dường như bất khả thi để bắt giữ một phụ nữ nếu chồng của cô ta không xuất hiện và không sẵn lòng giúp truy tìm cô ta. Cách duy nhất mà họ có thể kết tội những phụ nữ này là thu thập các chứng cứ phạm tội từ những phụ nữ khác - bạn bè hoặc thành viên gia đình. Điều họ cần là phải vào được nhà của những phụ nữ đó, xâm nhập vào đời sống và những bí mật của bọn họ, và cách duy nhất để thực hiện được điều này là cài vào gia đình đó một người giúp việc. Họ có lực lượng nữ quân nhân, nhưng rất ít người châu Á và người nhập cư - những nhóm tộc người có thể được chấp nhận vào vị trí người giúp việc. Người duy nhất phù hợp lúc bấy giờ chính là Sabria.
Những hồ sơ Omar gửi là vào khoảng thời gian Sabria hoạt động trong Đội Điệp vụ trước khi cô phá được mạng lưới trộm cắp đó. Và tất cả những gì cô đã nói về các vụ án đó đều đúng, không có gì bất bình thường hết. Và rõ ràng là cũng không có gì Ibrahim liên hệ được với sự mất tích của cô cả.
Với vụ trộm cắp tại các cửa hiệu đó, Sabria đã làm tay trong trong vòng bốn tháng, và cô đã thực hiện vai trò của một người giúp việc xuất sắc rồi trở thành bạn tốt của gia đình đó đến mức ngay cả khi người mẹ trong gia đình đó, Salima, bị bắt giam và được cho biết bà ta đã bị gài bẫy như thế nào, bà ta vẫn từ chối không nói điều gì xấu về Sabria. Cô Gampon, bà ta nói bằng sự đối đáp sắc sảo với vẻ tôn trọng miễn cưỡng, là người hết sức chuyên nghiệp. Tại thời điểm đó Ibrahim không chắc liệu đó có phải là điều tốt hay không. Ông cho Sabria nghỉ ba tháng. Một tuần sau đó cô quay lại hỏi họ có nhiệm vụ mới nào cho cô không. Ông nói không, cô cần nghỉ ngơi một thời gian và quay trở lại với cuộc sống của cô. Cô ngoan ngoãn rời văn phòng của ông, nhưng ba tháng sau cô quay lại, sẵn sàng cho nhiệm vụ mới và trông hoàn toàn vẫn như trước. Chính vì vậy ông giao cho cô một nhiệm vụ mới, và một nhiệm vụ khác sau đó nữa. Dường như với nhiệm vụ nào cô cũng bình an vô sự. Cô hoàn thành công việc với một sự trọn vẹn mà đến giờ vẫn khiến ông phải khiếp sợ. Cô đặt tất cả con người mình vào công việc đó. Mọi người đều tin tưởng cô. Cô có thể thuyết phục bất cứ ai rằng những mục đích của cô là hoàn toàn chân thành.
Ông gạt những hồ sơ đó trở lại chiếc túi nhựa và bắt gặp tờ đơn xin việc của Sabria cho cửa hàng quần áo ở Chamelle plaza. Nó vẫn nằm trên bàn làm việc của ông, đầy kín nét chữ phản trắc đó. Trong suốt khoảng thời gian họ làm việc cùng nhau, ông không hề biết gì về cô. Ông đối xử với cô theo một cung cách máy móc của một ông sếp có thể bị mất việc nếu không hành xử đúng mực với đồng nghiệp nữ. Chỉ là cho đến sau này, khi cô đã bỏ việc, ông mới bắt đầu hiểu cô thực sự là ai. Và lúc này ông suy nghĩ về con người đó một cách cương quyết. Sabria thật sẽ chỉ cử một người nào đó đóng giả là cô nếu việc đó phục vụ cho lợi ích chung. Nếu việc đó có nghĩa là giúp đỡ một ai đấy. Nhưng ông vẫn không thể giải thích được tai sao Sabria thật không nói gì với ông về chuyện này hết.
Khi Ibrahim dừng xe ở cuối con hẻm, đã là sau lễ cầu nguyện buổi chiều. Ông và Daher bước ra. Có sáu chiếc se cảnh sát đã vây kín hiện trường. Các nhân viên nghiệp vụ chặn đường hai tòa nhà ở cả hai hướng và đã giải tán những người khách bộ hành cuối cùng trên hai bên hè phố.
Ibrahim cố ép mình bước chậm lại một chút. Ông chỉ muốn bỏ chạy. Ông đi qua người quét đường, người đã phát hiện ra sự việc và nghe Daher báo cáo. “Thưa sếp, đây chính là gã…” trước khi vòng qua thùng chứa rác vả nhìn thấy dải băng ngăn cách hiện trường vụ án. Ông luồn qua dải băng đó rồi đi thẳng về phía đống vải nằm ngổn ngang trên hè phố. Đó là một tấm áo trùm phụ nữ. Trống không. Và ngay bên cạnh là một bàn tay bị chặt.
Nhân danh đức Alla nhân từ và độ lượng. Tâm trí ông quay cuồng với những lời cầu nguyện, ông nhắm nghiền mắt. Sự giảm nhẹ này quá ghê tởm đến mức đau đớn.
Ông luồn trở lại qua dải băng. “Anh nói đây là cái xác sao?”
“Nó không phải là một cái xác sao ạ?” Daher áy náy đứng bên cạnh ông, cố tỏ ra vẻ hữu dụng và nói với các nhân viên nghiệp vụ đứng gọn sang một bên của dải băng khoanh vùng hiện trường.
“Không, chỉ là một bàn tay.” Đáng lẽ không bao giờ nên rời khỏi Đội Điệp vụ mới phải. Ông bước vào dưới bóng râm của tấm bạt che trước một cửa hàng và ngồi xổm trên mặt đất, tựa đầu trên hai bàn tay.
“Bọn họ tìm thấy vật này ngay bên cạnh nó.” Daher đang đứng phía trên, chìa ra một chiếc xắc tay phụ nữ. Ibrahim cầm lấy nó và kiểm tra bên trong. Có một thẻ căn cước trong ví. Amina al-Fouad.
“Đảm bảo là đội pháp y có được vật này.” Ibrahim nói. Ông dường như không có tâm trí nào để xem xét việc giữa ban ngày mà phố Falasteen không hề có ô-tô hay khách mua sắm thì quá là kỳ quái. Ngoài cảnh sát mặc sắc phục và một vài chủ tiệm ra, người duy nhất đang ở khu vực này là một người quét đường gầy khẳng khiu. Ông ta tựa vào thùng rác với vẻ lo lắng và rối trí, không giống một người vừa phát hiện ra một bàn tay bị chặt đứt chút nào.
Ibrahim đứng lên tiến về phía người đàn ông đó. “Có phải nó đã ở trong thùng rác không?” Ông hỏi.
“Không phải.” Người quét đường đáp. “Nó ở đó. Chính nơi ông đang thấy lúc này ấy. Bàn tay của tên tội phạm nào đấy…” Ông ta vẩy tay và nhìn lên trời.
“Ông có thấy ai gần đó không?”
“Không thấy.”
Mất mười lăm phút để dựng lên cái mà nói thoáng ra là hiện trường vụ án. Hơn hai mươi sỹ quan cảnh sát đi đi lại lại. Khách mua sắm ào ra từ các cửa hàng và há hốc miệng nhìn. Abu-Musa đã đến và thông báo về bàn tay bị chặt. Vài phút sau đội pháp y đến với một vài ngạc nhiên: Katya bước xuống khỏi xe cùng bộ dụng cụ của mình và theo sau là Majdi tiến về phía hiện trường. Daher nhìn thấy cô và khựng lại vì sự ngạc nhiên nhưng không nói gì.
Tâm trí Irbrahim dần dần tỉnh táo hơn. Ông đã tưởng Sabria đang nằm đó.
Katya trông thất kinh khi cô quỳ gối xuống gần bàn tay.
“Gì vậy, cô Hijazi?” Ibrahim hỏi.
“Tôi đang phát hoảng khi hình dung đến việc có kẻ vứt bỏ thứ này ở đây.” Cô nói. “Sao không ai để ý nhỉ?”
Daher thở phì ra, như thể câu trả lời rõ ràng thế còn gì.
“Khu vực này không quá xa con đường.” Katya nói tiếp. “Và con đường này thường rất nhộn nhịp. Kẻ nào vứt bỏ nó ở đây thì hẳn chỉ mới đây thôi. Tôi chắc là không lâu sau nó đã bị phát hiện.”
Daher khịt khịt rồi quay đi, hoàn toàn không để ý đến nhận xét của Katya.
“Tôi không rõ.” Ibrahim nói. “Cô sẽ bất ngờ về những gì mà người ta thường không để ý. Chúng tôi đã cho người hỏi chuyện những chủ cửa hàng gần đây. Có lẽ có người đã thấy điều gì đấy.”
“Sẽ rất tốt nếu có được một mô tả về tên sát nhân.” Daher nói.
“Anh đã cho rằng vụ này có liên quan đến vụ giết người hàng loạt rồi sao?” Katya hỏi.
Daher trừng mắt nhìn cô. Sự chọc ngoáy khi trước của cô ta, tuy có khó chịu, song ít ra, còn hiểu được. Nhưng sao cô ta dám chỉ trích anh cơ chứ?
Katya không thèm để mắt đến anh ta, một kiểu giăng bẫy có tính toán. “Tên hung thủ giết người hàng loạt của chúng ta chưa bao giờ để lại một bàn tay trên phố cả.” Cô nói. “Hắn chôn những bàn tay ở một địa điểm bí mật.”
“Hiển nhiên đó chính là hắn ta!” Daher nói. “Hắn đang nói rằng chúng ta hãy biến đi! Đây chính là tiếng hét giận dữ từ gã đó.” Anh ta ra hiệu về phía bàn tay. “Hắn nói rằng hắn đang kiểm soát tình hình và hắn có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn, và chúng ta sẽ chẳng làm gì ngăn hắn được. Tôi bất ngờ đấy. Thông điệp đấy quá là rõ rồi.”
Katya mở khóa chiếc túi vải len thô của mình bằng một cú kéo mạnh giận dữ. “Đây có thể là bàn tay của kẻ nào đó bị trừng phạt vì tội ăn trộm.”
Daher thở phì ra.
“Nó cũng có thể là một kiểu tội phạm bắt chước.” Katya nói.
“Hẳn rồi.” Daher nói. “Ngoại trừ việc không ai biết những cái xác được chôn ở sa mạc ngoại trừ chúng ta ra.”
“Tại sao lại không phải là một trong số chúng ta?” Katya hỏi.
Daher ha hả cười. “Đúng, tất nhiên rồi! Và tôi sẽ bầu chọn cô người Mỹ đó nhé. Cô ta đến đây cùng với đám thiên thần gác địa ngục của mình để trả thù những kẻ khủng bố.” Một sỹ quan cấp dưới nãy giờ lắng nghe mỉm cười uể oải.
“Sao vậy?” Daher hỏi.
“Không có gì.
“Cậu hiểu điều tôi sắp nói, phải vậy không?” Daher hỏi.
“Điều gì đó về Những thiên thần của Charlie (1) ấy à?” Viên sỹ quan cấp dưới nói.
(1) Loạt phim truyền hình nổi tiếng của Mỹ về ba nữ thám tử xinh đẹp làm việc cho nhà triệu phú Charlie. Ở đây nữ chuyên gia người Mỹ cùng tên là Charlie.
Daher cứng giọng. “Trời đất, sao cậu có thể đùa như vậy vào lúc này được nhỉ?”
“Đó không phải là đùa. Chỉ là những gì người ta đang bàn tán.”
“Tôi đã định nói rằng quy luật đầu tiên về những tên giết người hàng loạt - chính là điều Tiến sỹ Charlie đã đề cập - chúng là người Mỹ. Đàn ông da trắng ở độ tuổi ba mươi. Những gã có ngoại hình bình thường.”
“Có thể hắn không phải là người Mỹ chứ.” Katya vừa nói vừa đứng dậy.
“Ồ?”
“Người ta sẽ dễ dàng để ý đến một người Mỹ chứ.”
“Sẽ không đâu nếu hắn mặc áo trùm.” Daher phản kích.
Katya còn kịp nguýt anh ta một cái trước khi theo Majdi ra khỏi con hẻm. Ibrahim ra hiệu cho Daher ra ngoài. Anh ta đã bị làm bẽ mặt nhưng ít ra anh ta cũng cố nói được câu cuối cùng.
Dừng lại bên chiếc xe tải nhỏ, Katya quay sang Ibrahim. “Để tìm được mối liên hệ với vụ giết người hàng loạt,” cô nói, “chúng tôi sẽ phải tìm ra một số điều. Trước hết, liệu bàn tay này có phải bị chặt sau khi chết hay không. Tất cả bàn tay ở địa điểm chôn cất đều được cắt dời sau khi nạn nhân đã chết. Bàn tay này có vẻ là của một phụ nữ, nhưng chúng tôi cần phải chắc chắn. Hơn nữa, chúng tôi sẽ phải tìm ra thời điểm người phụ nữ này” - cô lục trong chiếc ví tìm tấm thẻ căn cước - “Amina al-Fouad bị mất tích. Hoặc liệu có phải cô ta đang mất tích hay không. Có thể đó là tay cô ta, nhưng điều này cũng cần phải kiểm chứng đã.”
Ibrahim định đáp lời thì Daher đã chen ngang với vẻ mà ông cảm giác như một cố gắng không đúng lúc để thu hút sự chú ý của ông.
“Sếp.” Anh ta nói. “Chúng tôi đã xem xét ở lãnh sự quán cái tên mà sếp yêu cầu. Tên người phụ nữ đó là gì nhỉ?”
“Mahal.” Katya nói.
Daher chột dạ và nhìn Ibrahim như thể muốn hỏi Làm sao cô ta biết nhỉ?
“Cô ấy đã đến khu Sitteen với tôi.” Ibrahim nói.
Daher không nói gì, nhưng Ibrahim thấy ánh nhìn của người bị phản bội ở anh ta. Tại sao ông lại đưa Katya mà không phải Daher tới Sitteen chứ?
“Không có phụ nữ nào mất tích tên là Mahal cả.” Daher nói với giọng cáu kỉnh.
Ibrahim không hề nhận thấy vẻ hả hê trên nét mặt Katya khi cô quay bước đi, nhưng dù sao ông cũng lo lắng về những cảm nghĩ giữa cô và Daher, và không biết những tổn thương cá nhân này sẽ đưa chuyện đi đến đâu.
“Chỉ đơn giản là ông ta không đủ năng lực.” Tiếng của Yasser Mu’tazz.
Ibrahim đang đứng ở ngoài hành lang bên ngoài cửa văn phòng của Chánh Riyadh, định sẽ báo cáo ngắn gọn với ông ta về hiện trường vụ án. Ông vừa vào thì nghe thấy giọng nói gay gắt và cảm giác bực tức của Mu’tazz khi nói về mình.
“Thanh tra Zahrani là một cán bộ có thâm niên hơn mười năm kinh nghiệm tại một trong những đơn vị hoạt động cam go nhất ở Jeddah này.” Riyadh đang bảo vệ ông. Quả là một bất ngờ. “Tôi biết là ông ấy chưa từng bao giờ nắm một vụ án giết người hàng loạt cả, nhưng tất cả những người khác ở cục này cũng vậy cả.”
“Tôi chỉ cho rằng ông ta chưa sẵn sàng cho vụ này.” Mu’tazz không hề nhẹ giọng chút nào hay thậm chí còn thêm vào từ thưa sếp một cách lịch sự theo phép xã giao. Rõ ràng ông ta đang vô cùng tức giận. Ibrahim hiểu vì sao. Mu’tazz có thâm niên hoạt động nhất ở Đội Trọng án và ông ta giàu kinh nghiệm hơn bất cứ ai, nhưng lại không hề có sự kết giao nào. Bố của ông ta là dân lao động nghèo ở Yemen đã dành dụm được chút tiền để mở cơ sở dệt may ở Jeddah - nhưng không nhiều đến mức được mời đến ở khu nahf của tầng lớp thượng lưu. Gia đình của Ibrahim, tuy không giàu có, nhưng là một gia đình Bedouin có quan hệ bạn bè ở các bộ ngành và đặc biệt là quan hệ thân tình với Hoàng thân Maddawi, một trong những người anh họ của nhà vua. Khi ông quyết định chuyển khỏi Đội Điệp vụ, ông lẽ ra phải làm một công việc phải đi lại rất nhiều nhưng chính Maddawi đã đảm bảo ông có được vị trí này.
“Tôi sẽ để mắt tới ông ấy.” Riyadh nói.
“Tôi đã thấy ông ta rời bãi đỗ xe hôm qua với một nữ kỹ thuật viên ở phòng thí nghiệm.” Ibrahim thấy ngực mình thắt lại.
“Tôi biết.” Riyadh nhẹ nhàng nói. Ngay từ lúc trước ông ta đã không thích cái ý tưởng đó rồi, và có vẻ lúc này còn không thích nó hơn. “Tôi cho phép việc đó vì cần thiết.”
“Bọn họ đi đâu vậy?”
“Lần theo một số đầu mối của vụ án mà buộc phải có mặt của phụ nữ.”
“Và ông ta không thể mang theo một nữ sỹ quan hay sao?”
“Không ai có mặt lúc đó cả.”
“Vậy thì một trong những nam sỹ quan?”
“Tôi cố tránh việc đưa nam sỹ quan đến phỏng vấn một phụ nữ.” Riyadh lạnh nhạt nói, “nhằm tránh những rắc rối với chính sách đạo đức của chúng ta.”
Có tiếng soạt soạt vì Riyadh đứng lên, chắc là mong muốn có thể chấm dứt cuộc hội thoại này. Ibrahim quay bước đi về phía cuối hành lang.