Nghĩa trang nằm ngoại ô hạt Queens, nơi những toàn nhà chung cư nhường chỗ cho những căn nhà cổ mang phong cách Victoria sơn màu bánh gừng: hồng, trắng và xanh da trời. Những con đường trải dài rộng rãi và gần như vắng tanh, còn đại lộ dẫn tới nghĩa trang chỉ được thắp sáng bởi một ngọn đèn đường duy nhất. Chỉ mất chút ít thời gian với những thanh stele là họ đã phá được khóa cổng, và thêm lúc nữa để tìm ra chỗ kín đáo cho Raphael đào xới. Huyệt mộ nằm trên một đỉnh đồi thấp, với những hàng cây rậm rạp phủ kín che chắn họ khỏi ánh mắt tò mò của những người đi đường. Clary, Jace và Isabelle được bảo vệ nhờ phép ẩn thân, nhưng họ không có cách nào giấu Raphael hay xác Simon, vì thế rặng cây là một vỏ bọc tuyệt vời.
Những sườn đồi không hướng ra mặt đường lổn nhổn bia mộ, rất nhiều trong số đó có khắc hình Ngôi Sao David[1] bên trên. Dưới ánh trăng những tấm bia đó óng một màu trắng bàng bạc và khiến chúng trơn láng như sữa. Xa hơn một chút là hồ nước lăn tăn bàng bạc. Một nơi khá đẹp, Clary nghĩ. Đây là nơi vào ban ngày, bạn có thể tới thăm một ai đó, để ngồi một lúc và suy ngẫm về cuộc đời xem cuộc đời có ý nghĩa gì với bạn. Nhưng đây không phải một nơi hay ho để lén lút lui tới trong đêm, dưới sự che phủ của bóng cây, để chôn cất một người bạn bên dưới ngôi mộ đất nông choẹt, không hề có quan tài hay người đưa tiễn.
[1] Ngôi sao David: Y Ngôi sao sáu cánh, là biểu tượng cơ bản để nhận biết một người theo đạo Do Thái. (ND)
“Cậu ấy có phải chịu đau đớn gì không?” cô hỏi Raphael.
Gã ta ngừng tay đào nhìn lên, dựa vào thân xẻng như một người đào mộ trong Hamlet. “Sao cơ?”
“Simon. Cậu ấy có phải chịu đau đớn gì không? Các ma cà rồng có làm cậu ấy đau không?”
“Không. Chết vì bị hút máu cũng không tệ lắm,” Raphael êm ái trả lời. “Vết cắn làm cô tê liệt. Dễ chịu vô cùng, giống như cô chìm dần vào giấc ngủ ấy.”
Một cơn choáng váng tràn qua Clary, và trong một lúc cô nghĩ mình sẽ ngất.
“Clary.” Giọng Jace gọi giật cô khỏi cơn mê hoặc. “Nào. Em không cần phải nhìn nó đâu.”
Anh giơ tay cho cô. Nhìn qua vai anh, cô thấy Isabelle đang đứng với chiếc roi trên tay. Họ cuốn thi thể Simon trong chăn, đặt dưới chân Isabelle, và vì thế trông cô nàng như đang đứng canh xác. Không phải nó, Clary cực lực nhắc nhở mình. Mà là cậu ấy. Simon.
“Em muốn ở đây khi cậu ấy thức dậy.”
“Anh biết. Chúng ta sẽ quay lại ngay thôi mà.” Khi cô không nhúc nhích, Jace nắm lấy cánh tay không còn sức lực của cô mà lôi tuột cô khỏi trảng trống, xuống sườn đồi. Ở đó có những tảng đá, ngay trên những hàng bia mộ đầu tiên; anh ngồi xuống một tảng đá và kéo khóa áo. Ngoài này lạnh thật. Lần đầu tiên trong tiết trời mùa này, Clary có thể trông thấy làn hơi của mình khi thở ra.
Cô ngồi trên tảng đá bên cạnh Jace và nhìn xuống mặt hồ. Cô có thể nghe thấy tiếng xẻng đào đất đều đều vang lên theo nhịp khi xẻng của Raphael chạm đất rời lớp đất hắt lên. Raphael không phải người; gã làm rất nhanh. Sẽ không mất nhiều thời gian để đào xong huyệt. Mà Simon cũng không to con lắm; huyệt cũng chẳng cần sâu đến thế.
Clary bỗng thấy dạ dày quặn lại. Cô gập người, tay ôm bụng. “Em thấy muốn ói.”
“Anh biết. Vì thế anh mới đưa em ra đây. Trông em như sắp nôn xuống chân Raphael.”
Cô rên khe khẽ.
“Biết đâu như thế thì hắn hết cười khẩy,” Jace tư lự. “Cũng đáng để thử ấy nhỉ.”
“Im đi.” Cơn đau đã nhẹ bớt. Cô ngẩng cổ, nhắm nhìn mặt trăng như một chiếc đĩa bạc bóng bẩy bị mẻ trôi bồng bềnh giữa biển sao. “Đây là lỗi của em.”
“Không phải lỗi của em đâu.”
“Anh nói đúng. Đây là lỗi của chúng ta.”
Jace quay về phía cô, vẻ bực bội hằn lên bờ vai. “Sao em nghĩ vậy?”
Cô im lặng nhìn anh một đỗi. Anh cần cắt tóc rồi. Tóc anh giờ đã xoăn giống kiểu xoăn của dây leo khi đã quá dài, thành từng lọn cuộn trong lọn, mang màu trắng bạc dưới ánh trăng. Những vết sẹo trên mặt và cổ anh trông như thể được khắc sâu với màu mực ánh đồng. Anh quá đẹp, cô buồn bã nghĩ, đẹp và không có một nét nào ở anh, thậm chí là một biểu cảm, một đoạn xương gò má, xương quai hàm, hay bờ môi giống cô hay mẹ cả. Thậm chí Valentine cũng chẳng giống.
“Gì nào?” anh nói. “Sao em lại nhìn anh như vậy?”
Cô muốn lao vào vòng tay anh và khóc nức nở, nhưng cùng lúc cũng muốn nện nắm đấm vào anh. Nhưng cuối cùng, cô chỉ nói, “Nếu không có chuyện ở Triều Đình, chắc chắn Simon vẫn còn sống.”
Jace cúi xuống và giật mạnh một nắm cỏ khỏi mặt đất. Đất vẫn dính trên rễ cây. Anh ném sang một bên. “Chúng ta buộc phải làm những gì chúng ta đã làm. Có phải là chúng ta hôn hít cho vui, hay làm tổn thương cậu ta đâu. Hơn nữa,” anh nói thêm, với một nụ cười như có như không, “em là em gái anh.”
“Đừng nói như vậy…”
“Sao cơ, ‘em gái’?” Anh lắc đầu. “Khi anh còn nhỏ, anh nhận ra nếu nhắc đi nhắc lại điều gì đó nhiều lần, dần dà nó sẽ không còn ý nghĩa gì hết. Anh đã nằm trằn trọc hàng đêm nhắc đi nhắc lại những từ - ‘đường’, ‘gương’, ‘thì thào’, ‘bóng tối’, ‘Em gái’”, anh nhẹ nhàng nói. “Em là em gái anh.”
“Dù anh nói bao nhiêu lần đi nữa, sự thật vẫn là sự thật.”
“Dù em không cho anh nói, thì sự thật cũng vẫn là sự thật.
“Jace!” có ai đó đang gọi tên anh. Là Alec, hơi hụt hơi vì chạy gấp. Một tay anh ta đang cầm bịch ni lông đen. Đằng sau anh là Magnus hiên ngang bước đi, cao và gầy kỳ lạ và ngời ngời tỏa sáng trong chiếc áo khoác da dài bay dập dờn trong gió như cánh dơi. Alec dừng lại trước mặt Jace và giơ cái túi ra. “Tớ mang máu tới rồi,” anh ta nói. “Đúng như cậu yêu cầu.”
Jace mở túi, nheo mắt nhìn rồi chun mũi. “Tớ có được hỏi xem cậu lấy thứ này ở đâu không?”
“Trong cửa hàng thịt tại Greenpoint,” Magnus nói khi tới chỗ họ. “Họ bóp hết máu để phục vụ cho dân Đạo hồi. Đây là máu động vật.”
“Máu nào cũng là máu,” Jace nói rồi đứng dậy. Anh nhìn xuống Clary và ngần ngừ. “Khi Raphael nói chuyện này không được đẹp mắt, hắn ta không nói dối đâu. Em có thể ở lại. Anh sẽ bảo Isabelle tới đợi cùng em.”
Cô ngước nhìn anh. Ánh trăng tỏa bóng những tán cây lên khuôn mặt anh. “Anh đã từng thấy một ma cà rồng sống dậy chưa?”
“Không, nhưng anh…”
“Vậy anh cũng không thực sự biết, đúng không?” Cô đứng dậy, và chiếc áo khoác xanh của Isabelle rũ xuống vấn vít quanh cô. “Em muốn ở đó. Em phải ở đó.”
Cô chỉ nhìn thấy phần gương mặt anh ẩn trong bóng tối, nhưng cô nghĩ anh gần như… bị ấn tượng. “Vậy thì anh cũng không thể thuyết phục em thêm được nữa,” anh nói. “Đi thôi.”
Lúc họ quay trở lại, Jace và Clary đi trước, còn Magnus và Alec đang tranh cãi điều gì đó phía sau, Raphael đang nện bằng một trảng đất chữ nhật lớn. Xác Simon đã biến mất. Isabelle đang ngồi trên mặt đất, sợi roi da cuốn quanh mắt cá chân thành một chiếc vòng vàng. Cô nàng đang run. “Chúa ơi, trời lạnh quá,” Clary nói và cuốn chặt chiếc áo khoác sát vào mình. Ít nhất thì chất liệu nhung cũng cho cô chút ấm áp. Cô cố quên chuyện áo dính máu Simon đi. “Như kiểu chỉ qua một đêm mà trời đã chuyển sang đông ấy.”
“Hãy mừng vì chưa vào đông đi,” Raphael nói, dựa chiếc xẻng vào gốc cây gần đó. “Mặt đất đóng băng cứng như thép vào mùa đông, đôi khi còn tới mức không thể đào xới nổi ấy chứ. Lúc đó những con non sẽ phải nằm đợi hàng tháng trời, chết đói chết khát dưới lòng đất, trước khi được tái sinh.”
“Anh gọi họ là thế à? Những con non sao?” Clary hỏi. Từ đó có gì đó không đúng, hơi quá thân thiện. Nó làm cô nghĩ tới lũ vịt con.
“Ừ,” Raphael nói. “Có nghĩa là ma cà rồng chưa sinh hoặc mới sinh.” Khi đấy gã mới trông thấy Magnus, trong tích tắc lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng rồi gã cẩn thận xóa đi biểu cảm. “Chào Đại Pháp Sư,” gã ta nói. “Tôi không nghĩ ngài sẽ tới đây.”
“Tôi tò mò thôi,” Magnus nói, đôi mắt mèo lóng lánh. “Tôi chưa từng chứng kiến cảnh Đứa Con của Màn Đêm sống dậy.”
Raphael liếc nhìn Jace, lúc này đang tựa mình vào thân cây. “Cậu có những người bạn danh tiếng lừng lẫy đáng ngạc nhiên đó. Thợ Săn Bóng Tối ạ.”
“Anh lại nói về mình tiếp đấy hả?” Jace hỏi. Anh phủi phủi lớp đất cứng bám trên mũi giày. “Hơi khoe khoang rồi đấy.”
“Có lẽ anh ta định nói tới tớ,” Alec nói. Mọi người ngạc nhiên nhìn anh ta. Alec ít khi nói đùa. Sau đó anh ta cười lỏn lẻn. “Xin lỗi,” anh ta nói. “Căng thẳng ấy mà.”
“Không cần phải thế,” Magnus nói, vươn tay chạm vào Alec. Alec vội vã tránh ra, thế là cánh tay vươn ra của Magnus rơi thõng xuống bên hông.
“Giờ chúng ta phải làm gì nhỉ?” Clary hỏi, và ôm người giữ ấm. Cái lạnh dường như đang len lỏi vào từng ngóc ngách trong con người cô. Đối với một tối hè muộn, thì thời tiết này quả là quá lạnh.
Raphael nhận thấy biểu hiện của cô liền cười khẽ. “Đợt trỗi dậy nào trời cũng lạnh vậy,” gã nói. “Con non rút năng lượng từ những tạo vật sống xung quanh, thu lấy năng lượng từ họ để ngoi dậy.”
Clary phẫn nộ quắc mắt nhìn gã. “Có vẻ anh không lạnh.”
“Tôi không còn sống.” Gã ta lùi ra sau vài bước khỏi ngôi mộ - Clary cố nghĩ đấy là một ngôi mộ, vì nó là một ngôi mộ thực sự cơ mà - và ra hiệu cho những người khác làm theo. “Chừa chỗ ra nào,” gã nói. “Simon sẽ không thể ngoi dậy nổi khi mọi người hò nhau đè lên đầu cậu ta đâu.”
Họ vội vã lùi lại. Clary thấy Isabelle giật khuỷu tay cô nên quay sang và thấy đôi môi cô bạn đang trắng bệch. “Có vấn đề gì à?”
“Mọi thứ đều có vấn đề,” Isabelle nói. “Clary, có lẽ chúng ta nên để cậu ấy đi…”
“Ý cậu là để Simon chết,” Clary giật tay lại. “Tất nhiên là cậu nghĩ thế rồi. Cậu nghĩ ai không giống các cậu tốt nhất là nên chết hết đi chứ gì.”
Mặt Isabelle trông đau khổ thống thiết. “Đó không phải…”
Không gian dấy lên một thứ âm thanh lạ lùng, một thứ âm thanh Clary chưa bao giờ nghe thấy - một chuỗi tiếng động thình thịch theo nhịp điệu vọng lên từ sâu trong lòng đất, nghe như nhịp tim của đất mẹ đột ngột vang lên rõ ràng vậy.
Chuyện gì đây? Clary đang nghĩ thì thấy mặt đất dưới chân rung chuyển rồi nhô lên. Cô ngã khuỵu xuống. Đất mộ rùng mình như mặt biển trong bão. Những cơn sóng đất dập dờn trên mặt mộ. Đột nhiên, đất nứt tung ra, những bụi đất bay tung tóe. Một ụ đất nhỏ, giống như tổ kiến, tự trồi lên. Ở giữa ụ đất là một bàn tay, những ngón tay xòe căng, cào cào trên mặt đất.
“Simon!” Clary cố lao tới, nhưng Raphael kéo ngược cô lại.
“Thả tôi ra!” Cô cố vùng vẫy thoát ra, nhưng bàn tay Raphael như gọng kìm thép. “Anh không thấy Simon cần chúng ta giúp ư?”
“Cậu ta phải tự mình làm được,” Raphael nói, nhưng không hề lỏng tay đi chút nào. “Tốt hơn là phải thế.”
“Anh muốn thế! Nhưng tôi không muốn thế!” Cô giật tay ra và nhào về nấm mộ, ngay khi nhúm đất trồi lên, hất cô ngã nhào xuống đất. Một bóng người còng lưng cố chui ra khỏi ngôi mộ đào vội, những ngón tay như những móng vuốt bẩn thỉu đâm sâu vào mặt đất. Hai cánh tay trần lốm đốm những vệt đen là máu và đất. Nó tự mình chui ra khỏi mặt đất, bò toài vài mét rồi đổ sụp xuống.
“Simon,” cô thì thào. Vì tất nhiên đó là Simon, Simon, chứ không phải một nó nào hết. Cô loạng choạng đứng dậy và chạy về phía cậu bạn, đôi giày thể thao lún sâu trong nền đất nện.
“Clary!” Jace hét. “Em đang làm gì thế?”
Cô loạng choạng chạy tới, trật chân do đất lún. Cô quỳ sụp xuống bên Simon, người đang nằm im như chết. Tóc cậu ấy bẩn thỉu và bết bát đất, kính đã biến mất, chiếc áo phông rách toạc, để lộ làn da dính máu. “Simon,” cô nói, và chạm lên vai cậu. “Simon, cậu có…”
Qua đầu ngón tay, Clary cảm nhận được những cơ bắp trên người Simon đang căng ra, còn lớp da thì cứng như bọc đồng.
“…ổn không?” cô bật ra hết câu.
Simon quay đầu, và cô thấy đôi mắt bạn mình. Chúng trống rỗng, vô hồn. Với tiếng hét ghê rợn cậu bật dậy, lao xổ vào cô, uyển chuyển như rắn đang mổ tới. Cậu đâm thẳng vào cô, làm cô ngã ngửa ra sau. “Simon!” cô hét gọi, nhưng hình như cậu không nghe thấy. Mặt cậu méo mó, không nhận diện được khi cậu chờn vờn trên cô, môi cong lên, và cô thấy những chiếc răng nanh sắc nhọn, răng hút máu, lóe lên dưới ánh trăng như những cây kim xương trắng. Đột nhiên phát hoảng, cô cố đá Simon ra, nhưng cậu bạn thân nắm lấy vai cô và đè cô nằm im trên đất. Tay cậu dính máu, móng tay gãy dập, nhưng cậu mạnh khó tưởng, thậm chí mạnh hơn một Thợ Săn Bóng Tối như cô. Các xương vai Clary dồn vào nhau đau điếng khi cậu cúi xuống…
Và bị ném văng đi như thể Simon là một viên sỏi. Clary bật dậy, thở hổn hển và nhận ra cái nhìn tàn nhẫn của Raphael. “Tôi đã bảo cô tránh xa cậu ta ra,” gã nói và quỳ xuống chỗ Simon, vừa rớt xuống cách đó một quãng ngắn, đang co quắp, vặn vẹo trên mặt đất.
Clary hít lấy hít để, nghe cứ như những tiếng nấc nghẹn ngào. “Cậu ấy không nhận ra tôi.”
“Nhận ra. Nhưng không quan tâm thôi.” Raphael ngoái lại nhìn Jace. “Cậu ta đang chết đói rồi đây này. Cậu ta cần máu.”
Jace, nãy giờ đang đứng im, mặt trắng bệch bên mép huyệt, vội bước tới và im lặng giơ cái túi ni lông ra, như mời gọi. Raphael giật lấy và xé mở. Vài túi nhựa đựng thứ chất lỏng màu đỏ rơi ra. Gã nắm lấy, lầm bà lầm bầm gì đó rồi dùng những móng tay sắc nhọn xé toạc ra, làm máu bắn lên mặt trước chiếc áo sơ mi trắng vốn đã bê bết đất.
Simon như thể ngửi thấy mùi máu, cong người cố ngồi dậy và rên rỉ nghe thật đáng thương. Cậu vẫn đang lăn lộn trên đất; bàn tay trụi lủi móng cào đất, mắt đảo tròn chỉ thấy lòng trắng. Raphael giơ túi máu ra, để một vài giọt máu đỏ rơi xuống trên mặt Simon, tạo nên những vệt đỏ trên làn da trắng của cậu. “Nào uống đi,” gã ta nói, như lời nựng nịu. “Uống đi, hỡi chú ma cà rồng nhỏ. Uống đi nào.”
Và Simon, người ăn chay từ năm lên mười, không uống sữa động vật không được ăn cỏ, ngất xỉu khi nhìn thấy mũi tiêm - chính Simon đó đang giật lấy túi máu khỏi bàn tay xương xương của Raphael và đưa lên miệng cắn. Cậu uống ừng ực, ném cái túi rỗng sang bên rồi lại rên; Raphael đã chuẩn bị xong túi máu thứ hai, và nhét vào tay Simon. “Đừng uống nhanh quá,” gã nhắc. “Uống nhiều sẽ nôn ra đấy.” Simon, tất nhiên, chẳng quan tâm; cậu đã tự mình mở toang túi thứ hai mà ham hố nốc. Máu chảy thành dòng qua khóe môi, xuống cổ và rơi lỏng tỏng từng giọt từng giọt lên tay. Mắt cậu nhắm nghiền.
Raphael quay sang nhìn Clary. Cô có thể thấy Jace, cũng như những người khác, đang chăm chú nhìn mình với cùng một vẻ mặt kinh hoàng và ghê tởm. “Lần sau,” Raphael bình tĩnh nói, “cậu ta sẽ không ăn uống lộn xộn thế này nữa đâu.”
Lộn xộn. Clary quay người và loạng choạng ra khỏi trảng trống, nghe Jace gọi nhưng không thèm trả lời, mà cứ cắm cúi chạy khi tới rặng cây. Cô chạy nửa đường xuống đồi thì cơn đau ập tới. Cô quỳ xuống, thở dốc, khi mọi thứ trong dạ dày trào ngược lên như thác lũ. Nôn xong, cô lê mình cách ra một quãng ngắn và đổ sụp xuống đất. Cô biết có lẽ mình đang ngồi lên nấm mồ của một ai đó, nhưng cô không màng. Cô chôn khuôn mặt nóng rực xuống nền đất mát lạnh và nghĩ, lần đầu tiên trong đời, có lẽ chết không phải là kém may mắn.