- Tại sao, Peter thắc mắc, mỗi khi bọn mình tranh luận, thì Babal luôn luôn thắng?
- Có thể nói là cậu ấy thắng ván này mười chọi lại không! - Bob nói quá lên.
Trước mặt 2 cậu, Lâu Đài Kinh Hoàng đứng sững, cao tít trên mõm đá. Các tháp, các cửa sổ vỡ, lớp cây nho phủ vài chỗ, tất cả hiện lên rõ ràng dưới ánh nắng.
Bob rùng mình.
- Có lẽ nên vào nhà - Bob nói khẽ. 2 tiếng nữa mặt trời lặn. Trời sẽ tối trước khi bọn mình kịp kêu trời.
Peter nhìn lại phía sau. Bị khuất sau khúc quẹo, Warrington đang chờ cùng xe ôtộ Warrington có giúp Bob trèo qua những khối đá to nhất, sau đó chú đã buộc phải quay lại coi xe.
- Cậu nghĩ lần này Skinny có theo bọn mình không?
- Không, - Bob trả lời. Mình đã nhìn đường. Mà Babal tin chắc là hắn sẽ không dám trở lại quanh lâu đài.
- Vậy phải nói là bọn mình can đảm hơn hắn! - Peter buồn rầu nói.
Peter vẫn mang máy ghi âm, còn Bob đeo máy ảnh. Ngoài ra, 2 cậu còn trang bị đèn pin gắn ở dây thắt lưng.
2 cậu băng qua sân và hiên. Cửa lớn đóng.
- Kỳ quá, Peter nói. Mình chắc chắn là Skinny bỏ cửa mở lúc hắn chạy ào ra.
- Chắc là gió thổi đóng cửa lại - Bob đáp.
Peter xoay thử tay cầm. Cánh cửa mở ra với tiếng cọt kẹt kéo dài khiến 2 cậu giật mình.
- Bản lề bị sét, Bob nói. Không có gì phải căng thẳng.
- Ai nói mình căng thẳng? - Peter trả lời.
2 cậu bước vào tiền sảnh, để cửa mở. Phía bên hông, có 1 căn phòng rộng lớn, trang bị theo kiểu xưa cổ, có bàn ghế chạm khắc và 1 lò sưởi to tướng. Babal đã ra lệnh thám hiểm và chụp hình, Bob không thấy phòng này có gì đặc biệt lắm, nhưng cậu vẫn chụp hình.
Sau đó, 2 cậu đi qua phòng hình tròn, phòng Tiếng Vang. Trông phòng khá thảm thê, với những bộ áo giáp trọn vẹn dựng đứng trong các hốc tường và những bức tranh hình Stephen Terrill treo đầy tường. Nhưng 1 tia nắng xuyên qua cửa sổ đầy bụi trên cầu thang mang lại 1 nét làm vững lòng.
- Bọn mình sẽ tưởng tượng là bọn mình đang đi trong viện bảo tàng, Bob đề nghị. Cậu cũng biết trong viện bảo tàng thế nào rồi: không có gì phải sợ cả.
- Đồng ý - Peter nói. Mà nơi này cũng giống viện bảo tàng: cũ kỹ và chết chóc.
- Chết chóc, chết chóc, chóc, chóc... các bức tường đáp lại.
- Ồ, tiếng vang. Mình không thích cái này, - Bob la lên.
- Cái này! cái này! - Tiếng Vang nói theo.
- Đi sang bên này. - Peter khuyên. Tiếng vang chỉ có khi ta đứng ở giữa.
Bob làm theo ngaỵ Cậu luôn thích đùa với tiếng vang trên núi, nhưng cậu không hề muốn nghịch ngợm với tiếng vang của Lâu Đài Kinh Hoàng.
- Ta hãy xem xét các bức tranh - Bob đề nghị. Bức tranh nào nhìn cậu với con mắt sống động?
- Bức này - Peter trả lời và chỉ vào chân dung của tên hải tặc chột mắt. Bỗng nhiên con mắt sống động đã biến thành con mắt vẽ.
- Ta hãy xem gần hơn - Bob quyết định. Cậu trèo lên cái ghế này đi: có thể cậu sẽ tháo bức tranh xuống được.
Peter đặt chiếc ghế bằng gỗ chạm khắc dưới bức chân dung. Nhưng cả với phần nối thêm như vậy, cậu cũngnkhông với tới khung nổi.
- Phía trên có 1 hành lang - Bob nói, và các bức tranh đều treo bằng dây cáp qua hành lang ấy. Nếu bọn mình leo lên trên đó, bọn mình có thể kéo khung lên, cậu có nghĩ thế không?
Peter định bước xuống ghế, còn Bob tiến 2 bước về phía cầu thang. Ngay lúc đó, Bob cảm thấy có ai đó chụp lấy sợi dây máy ảnh đang đeo trên vai và nhìn thấy 1 hình bóng vĩ đại đứng dậy trong 1 cái hốc tường ngay bên cạnh cậu. Cậu khiếp sợ hét lên và phóng ra cửa.
Cậu không đi xa được. Dây máy ảnh kéo cậu về phía sau trở lại: cậu bị mất thăng bằng và trượt té xuống nền đất bằng đá hoa cương. Khi té xuống Bob nhìn thấy cái hình bóng vĩ đại nhào xuống chỗ mình. Đó là 1 nhân vật mặc áo giáp từ đầu đến chân và hươ cây kiếm, kiếm sắp chẻ đầu Bob làm đôi.
Bob lăn sang 1 bên. Cây kiếm va vào nền đất, gây tiếng ồn rất lớn, đúng vào chỗ mà Bob nằm 1 khoảng khắc sớm hơn. Đến lượt nó, nhân vật áo giáp cũng sà xuống, gây tiếng ồn như 1 thùng đồ hộp chạy xuống bờ dốc.
Trong thời gian đó máy ảnh tuột ra khỏi vai Bob. Không còn? bị cái gì níu lại nữa. Bob tiếp tục tự trượt trên đá hoa cương đến khi đụng phải bức tường cản dừng lại. Tưởng mình bị rượt đuổi, Bob liếc nhìn đằng sau. Điều Bob thấy khiến cậu dựng tóc gáy.
Cái đầu của người ái giáp đút rời khỏi thân thể và đang lăn qua căn phòng...
Khi nhìn kỹ hơn, Bobnhận thấy là bộ áo giáp trống rỗng và mũ chiến cũng vậy. Mũ chiến bị rời khỏi áo giáp khi toàn bộ rớt xuống đất.
Bob đứng dậy và phủi người cẩn thận. Máy ảnh của cậu đangnằm dưới đất, dây đeo vẫn bị mắc vào các mắc thép của áo giáp. Bob lượm máy lên và chụp tấm ảnh chớp nhoáng Peter đang đứng trên ghế ôm bụng cười.
- Hình con ma buồn cười, tức hồn ma hớn hở của Lâu Đài Kinh Hoàng, Bob thuyết minh. Anh bạn Babal của ta chắc chắn sẽ rất thích.
- Xin lỗi nhe Bob - Peter la lên và lau nước mắt. Chính cậu cũng sẽ cười nếu cậu có thể tự thấy cậu đang lôi kéo theo mình cái bộ áo giáp cũ kỹ kia.
Bob chụp hình bộ áo giáp bị sét hết một nửa, vài phút trước đây bộ áo giáp đứng trên cái ghế nhỏ trong hóc tường, còn giờ thì chỉ là những bộ phận rời. Sau đó cậu chụp hình bức chân dung tên hải tặc và nhiều bức tranh khác.
- Khi nào cậu cười xong rồi, có thể cậu sẽ nhận thấy là ở đây có một cánh cửa mà bọn mình không để ý - cuối cùng Bob nói. Có cả tấm bảng trên đó, có đề - cậu phải lé mắt để đọc ra phần chữ khắc trên tấm bảng đồng-"Phòng chiếu".
Peter đến xem.
- Ba kể rằng thời trung cổ mọi ngôi sao điện ảnh đều có phòng chiếu riêng - Peter giải thích. Như thế họ có thể chiếu phim của mình cho bạn bè xem. Cậu muốn vào không?
Bob kéo tay cầm. Cửa mở ra khó khăn y như bị ai giữ lại ở phía bên kia. Một luồng khí ấm, hôi mốc, thoát ra. Trong phòng tối đen, tối đen như trong ruột của con cá sấu.
Peter bật đèn pin lên. Trong chùm sáng hẹp, hai cậu có thể nhìn thấy rằng phòng chiếu có kích thước rất lớn. Khoảng một trăm chiếc ghế bọc nhung xếp thành hàng. Cuối phòng có cái khối mờ nhạt của cây đàn orgue vĩ đại.
- Y như rạp chiếu phim thật, Peter nói. Cậu nhìn cây đàn orgue kia! Nó lớn hơn đàn của ông Jones mua gấp mười lần. Ta đến xem đi.
Bob cũng thử bật đèn pin, nhưng có lẽ cậu đã làm vở đèn khi té bởi vì đèn không sáng nữa. May thay, đèn của Peter đủ sáng. Hai cậu qua phòng chiếu, hướng về cây đàn orgue của Stephen Terrill.
Hai cậu không hề cảm thấy lo lắng. Sự cố bộ áo giáp đã làm cho cả hai thư giản.
Cây đàn orgue cũ kỹ, với mấy ống tube vĩ đại lên đến tận trần nhà, bị phủ đầy bụi bậm và màn nhện. Hai cậu chụp tấm hình cho Hannibal.
Peter và Bob đi vòng căn phòng. Ghế nhung lông bị hư hỏng nhiều. Ở chỗ màn ảnh chỉ còn trơ trọi vài khúc vải trắng. Ở trong phòng càng lâu, hai cậu cảm thấy không khí càng ấm hơn, và mùi mốc nồng hơn.
- Ở đây khong còn gì để xem cả- Peter nhận xét. Ta hãy lên lấu.
Hai cậu rời phòng chiếu và trở về phòng Tiếng vang. Tại đó, 2 cậu leo lên thang lầu dọc tường, hình vòng cung. Giữa đường, nơi mặt trời xuyên qua cửa sổ đầy bụi, 2 cậu dừng lại để nhìn ra ngoài. Sườn dốc thẳng dứng của vực hẻm đen dựng đứng ngay bên cạnh.
- Trước mắt bọn mình chỉ còn 2 giờ ánh sáng ban ngày, hay gần 2 giờ - Bob nói. Nhiều thời gian hơn bọn mình cần để thám hiểm lâu dài.
- Vậy ta hãy xem bức tranh - Bob đề nghị. Bọn mình hãy nâng nó lên để xem có kỷ xảo gì không.
Khi đến hành lang, 2 cậu nhận thấy rằng các bức tranh được treo trên một thanh chạy dọc theo bờ dưới của lan can. Hai cậu nắm lấy dây cáp và kéo lên. Tuy trọng lượng của khung khá nặng, 2 cậu nâng bức? tranh lên? được đủ để đèn pin có thể chiếu thẳng vào tranh.
Đó là một bức tranh như mọi bức khác, hơi sáng hơn một chút vì sơn dầu. Và Bob cho rằng cảm gíac buổi tối ban đầu của Peter chính là do ánh sáng này, nhưng Peter có vẻ không tin.
- Con mắt sự thật có vẻ sống động. Thôi cứ cho là mình lầm. Ta hãy cho bức tranh về chỗ cũ.
Hai cậu thả dây cáp xuống và leo thang lầu tiếp. Cả 2 đã quyết định tham quan lâu đài một cách có phương pháp, bắt đầu từ trên.
Tầng này đến tầng khác, cuối cùng 2 cậu đến 1 cái tháp nhỏ hình tròn, dựng thẳng trên đình toà nhà. Cửa sổ hẹp như lổ châu mai, nhưng có kính. Hai cậu nhìn ra ngoài. Từ chỗ đó, 2 cậu dứng cao hơn vực hẻm Đen và chỉ nhìn thấy núi trùng trùng điệp điệp. Bỗng nhiên Peter la lên:
- Nhìn kìa! ăng ten truyền? hình !
Peter nói đúng. Một ăng ten truyền hình đâm nhọn ngay phía trên ngọn sườn gần nhất. Có lẽ 1 người dân vực hẻm đặt nó ở đó để nhận các buổi hình rõ hơn.
- Như vậy là có 1 vực hẻm khác gần sát đây- Peter nói. Nơi này không hoang vắng như vẻ ban đầu.
- Trong vùng có hàng chục vực hẻm có người ở- Bob trả lời. Cậu nhìn xem các sườn dốc như thế nào kìa. Chỉ có sơn dương mói leo lên đó được. Mà sơn dương chưa chắc gì leo nổi. Bất kỳ ai cũng phải đánh vòng.
- Cậu nói đúng- Peter công nhận. Ta hãy đi xuống và tìm 1 cái gì đó sẽ làm cho Hannibal quan tâm.
ở tầng dưới, 2 cậu tìm thấy thư viện. Hàng trăm quyển sách chất đầy kệ. Có lẽ chính tại đây Stephen đã để lại bức thông điệp. Có những bức? chân dung giống nhử trong phòng Tiếng vang, nhưng kích thước nhỏ hơn, trang trí trên tường.
- Ta hãy nhìn gần hơn, Peter nói.
Mỗi bức tranh vẽ Stephen Terrill trong một vai? diễn nào đó. Hải tặc, tên cướp, ma chó sói, ma cà rồng, quái vật biển, nhìn vai này đến vai diển khác hầu như không nhận ra ông.
- Người ta gọi ông là người có Triệu Bộ Mặt - Bob nhắc lại cho Peter. Mình rất muốn xem 1 bộ phim của ông ấy, Peter ạ. ủa cái này là cái gì?
Có 1 cái quách nằm dài trong hốc tường. Nắp quách đóng lại và có 1 tấm bảng nhỏ bằng bạc. Peter chiếu sáng vào tấm bảng và Bob cúi xuống để đọc.
Ông Hugh Wilson
Di tặng lại
Phần chứa đựng trong cái quách
này cho ông Stephen Terrill
Người đã giúp ông có được
những giây phút vui thích!
- Úi chà! - Peter la lên. Cậu nghĩ cái gì trong đây?
- Có thể có 1 cái gì đó quý giá?
2 cậu mở nắp ra, nắp khá nặng. Khi mở được 1 nữa, Peter la lên và thả nắp ra. Nắp rơi xuống gây tiếng đục.
- Cậu có nhìn thấy giống mình không?
- Có - Bob nói. 1 bộ xương.
- 1 bộ xương trắng bóc, bóng nhẵn, sáng lên và đang nhăn cười với bọn mình.
- Chắc là cha Wilson để lại bộ xương của ông cho Terrill để cám ơn về những giây phút thích thú? ý nghĩ kỳ lạ quá. Phải mở hộp ra lại để chụp hình.
Peter không hứng thú lắm. Bob phải nhắc lại cho cậu rằng bộ xương không thể hại ai cả. Thế là 2 cậu mở nắp ra lại và Bob chụp hình. Bob tin chắc là Hannibal sẽ hài lòng.
Trong khi Bob cho quay cuốn phim về và lắp bóng đèn flash khác, Peter đến gần cửa số.
- Này - cậu nói, trời sắp tối rồi.
- Chắc là mặt trời không nhìn đồng hồ.
Bob chạy ra cửa sổ, Peter nói đúng. Mặt trời đang biến mất sau ngọn núi. Trời đang tối dần.
- Mình quên - Bob la lên. Trong vực hẻm, trời luôn tối sớm hơn.
- Ta chuồn thôi - Peter trả lời. Mình không muốn ở lại đây trong bóng tối chút nào.
2 cậu bước ra thư viện, ra ngoài hành lang. Ở mỗi hành lang, có 1 cầu thang. 2 cậu không nhớ mình lên từ cầu thang nào.
- Đi cầu thang này đi - Peter đề nghị.
2 cậu xuống 1 tầng lầu. Trời tối đi nhanh chóng. Cầu thang không xuống tiếp nữa. 2 cậu chạy bên này bên kia. Cuối cùng 2 cậu tìm ra 1 cánh cửa, mở ra thấy 1 cầu thang xoáy trôn ốc nhỏ.
- Bọn mình không phải lên từ ngã này - Bob la lên, có lẽ nên trở lên tầng 1 lại.
- Cầu thang này đi xuống, bọn mình cũng thế, Peter đáp. Phài nhanh lên
Ngay khi 2 cậu vừa mới thả cánh cửa, nó tự đóng lại tức thì dưới tác động của 1 lò xọ 2 cậu ở lại trong bóng tối tuyệt đối.
- Lên trở lại đi - Bob thấy hơi khó chịu, quyết định. Mình không thích bóng tối như thế này. Mình không nhìn thấy cậu.
- Mình cũng thế. Không phải là thiệt thòi gì lớn lắm... nhưng thôi ta cứ trở lên đi.
2 cậu mò đường trở lên. Bob nắm lấy tay cầm cánh cửa và thử xoay.
Cánh cửa kẹt cứng.
- Chắc là cửa tự động đóng lại từ phía bên này. Bob nói và cố gắng giữ bình tĩnh. Dù có thích hay không, bọn mình phải đi xuống.
- Phải chi có chút ánh sáng, Peter đáp. à, mà đầu óc mình để đâu vậy? Có đèn pin mà!
- Vậy thì bật lên đi. Mình có cảm giác màu đen càng lúc càng đen hơn.
- Mình nhầm rồi, Peter nói bằng 1 giọng không vững tâm. Mình không có đèn pin. Chắc là mình để quên trên cái quách rồi.
- May quá! - Bob nói mỉa. Còn mình thì làm vỡ đèn lúc cái bộ áo giáp kia lao xuống đầu mình!
- Cậu có chắc nó bị vở không? - đưa mình xem nào.
Suốt 1 phút, Peter nện 1 trận đòn dữ dội cho cái đèn pin. Cuối cùng nó phát được ánh sáng yếu ớt.
- Công tắc xấu - Peter bình luận. Nó không sáng hơn đèn cầy. Còn hơn là không có. Đi thôi.
2 cậu đi xuống cầu thang nhanh hơn.
Peter rọi đường bằng cây đèn pin không chiếu sáng được bao nhiêu. Đến lúc không còn bậc thềm nữa, 2 cậu nghĩ rằng có lẽ đã xuống đến tầng trệt rồi. 2 cậu đang ở trong 1 căn phòng vuông nhỏ, có 2 cánh cửa. Sẽ mở thử cửa nào đây? 2 cậu vẫn còn đang phân vân, thì Peter nắm lấy cánh tay Bob.
- Nghe này. Cậu có nghe thấy không?
Bob lắng nghe.
Đâu đó có tiếng cây đàn orgue.
Tiếng orgue rất kỳ lạ, rên rĩ và hổn hển... có lẽ là cây đàn orgue trong phòng chiếu! Bob nhận thấy mình đã đạt đến tình trạng hết sức căng thẳng mà Hannibal đã nói đến.
- Tiếng nhạc từ chỗ này - Peter thì thầm và chỉ 1 trong 2 cánh cửa.
- Vậy thì ta hãy chuồn ngã này - Bob trả lời và chỉ cánh cửa kia.
- Không - Peter đáp. Vì cậy đán Orgue nằm trong phòng chiếu và phòng chiếu gần cửa ra. Nếu bọn mình đi hướng khác, bọn mình có thể bị lạc đường hoàn toàn. Thà vậy còn hơn là bị lạc.
Peter cương quyết mở cánh cửa do cậu chọn và bước vào 1 chỗ giống như tiền sảnh tối tăm. Bob đi theo nắm tay bạn.
2 cậu càng tiến tới, càng nghe tiếng nhạc rõ hơn, tuy nhiên tiếng nhạc vẫn kỳ lạ như thế, đầy tiếng than khóc và kêu rên.
Bob bước lên vì Peter kéo cậu về phía trước, nhưng cậu càng lại gần tiếng nhạc, sự căng thẳng của cậu càng gia tăng. Cuối cùng, Peter đầy 1 cánh cửa và 2 thám tử vào trong phòng chiếu.
ánh sáng yêu ớt của đèn pin cho phép nhìn được lưng tựa xủa ghế. Ở cuối phòng, phía cây đàn orgue, 1 cái gì đó giống như bong bóng màu xanh đang lơ lững giữa không khí và hơi óng ánh 1 chút, trong khi cây đàn orgue phát ra tiếng thở dài cọt kẹt của nó.
- Ma Xanh! - Bob thở hổn hển nói.
Khi đó sự căng thẳng cực độ của cậu biến thành cơn hoảng loạn thuần tuý, y như Hannibal đã mong đợi.
2 thám tử phi nước đại qua căn phòng, về hướng cửa ra. Peter đẩy cánh cửa. 2 cậu ra phòng Tiếng Vang. Không phân vân 1 giây, 2 cậu lao ra cửa lớn, vẫn còn mở, và chạy ra sân hiên.
Nhưng do có dụng cụ chỉnh hình đeo ở chân. Bob vẫn còn hơi lê chân. Ngón chân cậu đụng phải 1 tấm đan hơi nhô lên, rồi cậu nằm dài trên 1 đống lá khô do gió tích tụ lại ở 1 góc sân hiên. Cậu tìm cách ẩn núp ngay vào đám lá. Tuy nhiên, Peter không nhìn thấy gì cả và vẫn tiếp tục chạy trốn.
Dưới đống lá, Bob thở hổn hển như 1 cái máy hơi, còn tim cậu đập mạnh hơn cả 1 cái máy nén. Khi cậu phát hiện về tiếng ồn mà cậu gây ra, cậu nín thờ, rồi trong sự im lặng tiếp theo sau, cậu nghe tiếng con Ma Xanh đi tìm cậu, bằng những bước chân lén lút, bằng cách lướt ngắn hầu như không thể nhận thấy được. Và con Ma ấy, nó cũng thở! Nó thở hổn hển không đều, nghe ran và rùng rợn.