Vụ Án Trường Oxford

Chương 19

Đến năm giờ chiều thì tôi đã hoàn thành bản nháp của báo cáo. Trước khi rời khỏi văn phòng, tôi mở email ra xem lại. Có một lời nhắn ngắn của Seldom bảo tôi đến gặp ông ở Merton sau buổi thuyết giảng, nếu rảnh. Tôi phải đến đó thật vội để kịp giờ. Tôi trèo lên cầu thang nhỏ dẫn đến phòng học, và nhòm qua kính cửa sổ, thấy ông đang thảo luận về một vấn đề trên bảng đen với hai sinh viên ở lại sau giờ.

Các sinh viên ra khỏi, và ông ra hiệu cho tôi vào phòng. Trong khi đang dẹp những giấy tờ của mình, ông chỉ vào một hình tròn trên bảng và nói:

“Chúng tôi đang bàn về ẩn dụ hình học của Nicholas xứ Cusa - chân lý giống như chu vi của nó và những ý định của con người tiếp cận nó như một loạt những đa giác nội tiếp, càng ngày càng thêm số cạnh, đến cuối cùng cũng gần được với hình tròn. Đây quả là một ẩn dụ lạc quan, vì những bước kế tiếp nhau như vậy cho phép người ta cảm thấy được hình thể sau cùng. Tuy nhiên, cũng có một khả năng khác, mà sinh viên của tôi vẫn chưa biết đến, và làm nản lòng hơn nhiều.” Bên cạnh vòng tròn, ông vẽ nhanh một hình thể với vô số đỉnh và khe. “Tạm giả sử là chân lý có hình dáng như, nói chẳng hạn, một hòn đảo giống nước Anh, với bờ biển vô cùng không đều đặn, có vô số chỗ lồi và chỗ lõm. Lần này, nếu anh có phỏng chừng hình thể ấy bằng những đa giác, anh sẽ đụng phải nghịch lý Mandelbrot. Đường viền luôn luôn lẩn tránh, đứt gãy ra với mỗi lần, thành thử như vậy còn nhiều chỗ lồi lõm hơn nữa, và cố gắng của con người nhằm xác định nó đơn giản là sẽ không bao giờ đến được hình thể cuối cùng. Cũng thế, chân lý có thể không chịu thua một loạt những phỏng chừng. Cái này nhắc anh nhớ đến điều gì nào?”

“Định lý Gödel? Các đa giác coi như những hệ thống càng lúc càng nhiều tiên đề, nhưng một phần của chân lý luôn nằm ngoài tầm với.

“Có lẽ đúng, hiểu theo một nghĩa. Nhưng nó còn giống với vụ án này, và kết luận của Wittgenstein cùng Frankie: những đề mục được cho biết của một liên chuỗi, không cần biết bao nhiêu đề mục, luôn luôn bất cập. Làm sao chúng ta tiên nghiệm được rằng trong hai cái hình thể ấy, chúng ta đang gặp phải cái nào? Anh biết không,” ông đột ngột nói, “cha tôi có một thư viện lớn, với một tủ sách ở chính giữa nơi ông giữ những sách tôi không được phép đọc, có cửa khóa lại. Khi ông mở tủ ra, tôi chỉ thấy được một bức hình khắc gỗ ông nhét vào trong ấy, hình một người một tay chạm đất, còn tay kia giơ lên trời. Dưới hình là một phụ đề bằng thứ tiếng gì tôi không biết, mà về sau phát hiện ra là tiếng Đức. Sau đó tôi còn khám phá ra một cuốn sách mà tôi coi là kỳ diệu: một tự điển song ngữ cha tôi dùng để dạy học. Tôi đã giải mã câu ấy, từng chữ một. Đó là một câu vừa giản dị, lại vừa bí ẩn: “Con người không là gì hơn ngoài chuỗi hành động của chính mình”. Tôi đã có một niềm tin tuyệt đối của đứa trẻ vào câu nói ấy, và tôi bắt đầu nhìn con người con người như những hình tượng tạm thời, chưa hoàn chỉnh; những hình tượng vẫn còn trong bóng tối, luôn luôn lẩn tránh không cho người ta hiểu được. Nếu con người không là gì hơn ngoài chuỗi hành động của hắn, tôi hiểu ra, thì hắn không thể được định nghĩa trước thời điểm hắn chết đi: một hành động đơn lẻ, hành động cuối cùng, có thể xóa sạch sự tồn tại trước kia của hắn, phủ nhận toàn bộ cuộc đời hắn. Và, trên tất cả, chính là chuỗi hành động của chính tôi làm tôi sợ hãi nhất. Con người không là gì khác hơn cái mà tôi sợ hãi nhất.”

Ông chìa bàn tay cho tôi xem, nó phủ đầy bụi phấn. Chắc là ông đã vô ý sờ lên mặt mình, vì có cả một vệt trắng nhìn khá buồn cười trên trán ông.

“Tôi quay trở lại ngay thôi - tôi phải đi rửa tay,” ông nói. “Nếu đi xuống tầng dưới, anh sẽ thấy phòng ăn. Anh có thể lấy giùm tôi một cốc cà phê lớn không? Không bỏ đường.”

Tôi gọi hai ly cà phê. Seldom xuất hiện vừa đúng lúc để mang cốc của ông đến một chiếc bàn đặt hơi tách rời khỏi những chiếc còn lại, có thể nhìn ra vườn. Từ cánh cửa mở của phòng ăn, chúng tôi thấy được dòng chảy lũ lượt các du khách đi vào trường và hướng về phía sân trong.

“Tôi đã nói chuyện với thanh tra Petersen sáng nay,” Seldom nói. “Ông ta kể với tôi về một sự nan giải liên quan đến chuyện đếm người chiều hôm qua. Một đằng thì họ biết con số chính xác những người đã vào trong vườn lâu đài từ những cuống vé thu lại khi họ vào cửa, và một đằng họ biết con số ghế đã có người ngồi. Người phụ trách chỗ ngồi có tính rất kỹ càng, và đảm bảo với họ là ông ta chỉ bỏ vào đúng số ghế thực sự cần thiết. Và chuyện lạ lùng đây: khi đếm xong, họ mới thấy hóa ra có nhiều người hơn ghế. Ba người đã không dùng ghế ngồi của họ.”

Seldom nhìn tôi như chờ đợi một lời giải thích ngay lập tức. Tôi loay hoay một lúc, hơi ngượng ngùng.

“Tôi tưởng ở nước Anh người ta không bao giờ lẻn vào trong các buổi hòa nhạc mà không trả tiền chứ[11].”

Seldom cười to thoải mái.

“Ít nhất thì không vào các buổi hòa nhạc từ thiện. Ôi, đừng nghĩ ngợi làm gì; chuyện thật ra rất ngớ ngẩn. Petersen đùa với tôi đấy mà. Tâm tính ông ta hôm nay sáng sủa được một lần. Ba người dư ra kia là người tàn tật, ngồi xe lăn. Petersen rất hài lòng với kết quả đếm. Trong danh sách những người phụ tá ông ta đã kê ra, không có ai thiếu mặt cũng không ai thừa ra cả. Lần đầu tiên ông ta nghĩ rằng mình đã thu hẹp cuộc tìm kiếm lại được: thay vì năm trăm ngàn người ở Oxfordshire này, bây giờ ông ta chỉ cần quan tâm đến 800 người đã đi nghe hòa nhạc thôi. Ông ta tin rằng mình có thể còn thu hẹp thêm nữa một cách nhanh chóng.”

“Ba người trên xe lăn,” tôi nói.

Seldom mỉm cười.

“Đúng, trên lý thuyết thì ba người ngồi xe lăn cũng như một nhóm trẻ em bị hội chứng Down từ một trường đặc biệt, và một số quý bà cao tuổi - những người có khả năng nhất - đều đã có nguy cơ là nạn nhân.”

“Ông nghĩ yếu tố quyết định trong chọn lựa nạn nhân của hắn là tuổi tác sao?”

“Tôi biết anh có một lý thuyết khác: hắn lựa chọn những người đang sống thời gian vay mượn, sống lâu hơn dự đoán. Phải, trong trường hợp ấy thì tuổi tác cũng không phải một yếu tố loại trừ.”

“Petersen có nói gì với ông về cái chết hôm qua không? Ông ta có kết quả khám nghiệm chưa?”

“Có. Ông ta muốn loại trừ khả năng người này đã ăn phải cái gì trước buổi hòa nhạc tạo ra nghẽn hô hấp. Và hẳn nhiên, họ không tìm thấy gì cả. Cũng không có gì chứng tỏ bạo lực, không dấu vết trên cổ. Petersen nghĩ ông ta đã bị một kẻ quen thuộc với bản nhạc tấn công; hắn chọn khúc dài nhất không có tiếng gõ. Điều đó nghĩa là hắn có thể chắc chắn người nhạc công ở hẳn ngoài tầm đèn pha chiếu. Petersen cũng đã loại trừ việc đó có thể là một thành viên của dàn nhạc. Câu trả lời duy nhất, từ dữ kiện là vị trí người nhạc công ở tận cùng sân khấu, và không có dấu vết trên cổ ông ta, là có người trèo lên phía sau và…”

“Bịt miệng và mũi ông ta lại.”

Seldom nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.

“Đó là ý nghĩ của Lorna.”

Ông gật đầu.

“Phải, tôi đáng ra phải đoán được: Lorna biết tất cả mọi thứ về tội ác. Người xét nghiệm cho rằng riêng việc chấn động vì bị tấn công là đủ kích thích sự tắc nghẽn hô hấp, trước cả khi người nhạc công cố chống cự. Ai đó đã trèo lên phía sau và tấn công ông ta trong bóng tối - nghe có vẻ như đó là lời giải thích hợp lý duy nhất. Nhưng chuyện chúng ta đã chứng kiến không phải như vậy.”

“Chắc chắn ông không nghiêng về giả thuyết bóng ma chứ?” tôi hỏi.

Trước sự bất ngờ của tôi, Seldom lại có vẻ xem xét câu hỏi của tôi rất nghiêm chỉnh. Ông gật đầu chầm chậm.

“Phải,” ông nói, “giữa hai sự lựa chọn, giờ phút này tôi thích giả thuyết bóng ma hơn.”

Ông uống một ít cà phê và lại nhìn tôi.

“Không nên để cho sự nhiệt thành muốn tìm lời giải thích của anh can dự vào hồi ức của anh về các sự kiện. Thật ra, tôi mời anh gặp hôm nay vì tôi muốn anh xem thử cái này.”

Ông mở ca táp lôi ra một phong bì.

“Petersen cho tôi xem những tấm hình này lúc tôi đến văn phòng ông ta hôm nay. Tôi có xin giữ chúng đến mai, để anh có thể xem xét kỹ càng. Tôi đặc biệt muốn anh nhìn thấy chúng: đó là hình hiện trường nhà bà Eagleton - vụ án mạng đầu tiên, bắt đầu cho mọi thứ. Viên thanh tra đã trở lại câu hỏi ban đầu: vòng tròn trên lời nhắn thứ nhất liên quan gì đến bà Eagleton? Như anh đã biết, tôi cho là anh còn thấy một cái gì khác nữa ở đó, cái mà anh chưa nhận ra là quan trọng, nhưng nó vẫn còn lưu lại trong ký ức của anh. Tôi nghĩ là những tấm hình này có thể giúp anh nhớ lại. Toàn bộ đều tái hiện trong này đây,” ông đưa chiếc phong bì ra,” căn phòng khách, chiếc đồng hồ cúc cu, tràng kỷ, bảng ghép chữ Scrabble. Chúng ta đã biết là trong vụ án đầu tiên, hắn đã phạm một sai lầm. Cái đó tất phải nói với ta thêm một điều gì…” Seldom bị phân tâm một thoáng chốc. Ông nhìn quanh những chiếc bàn khác và hành lang. Bỗng nhiên mặt ông đanh lại như đã bị cái gì đó đánh động.

“Có người vừa bỏ cái gì vào hộp thư của tôi,” ông nói. “Quái lạ là ở chỗ người phát thư đã đi khỏi hồi sáng rồi. Hy vọng Thượng sĩ thám tử Sacks vẫn còn loanh quanh đâu đây. Đợi một phút, tôi phải ra xem thử.”

Tôi xoay mình trên ghế và nhìn thấy từ chỗ Seldom đang ngồi, ông chỉ có thể nhìn thấy hàng dọc cuối cùng của những hộp thư gỗ trên tường. Vậy ra đây là chỗ ông nhận được lời nhắn đầu tiên. Tôi bị ấn tượng ngay về việc thư từ của các thành viên trường này được bày ra công khai như vậy ngoài hành lang. Hộp thư của Viện Toán học cũng không được bảo vệ y như vậy. Khi Seldom quay lại, ông đang xem xét một thứ bên trong cái phong bì, với nụ cười rộng mở trên gương mặt như thể ông vừa nhận được tin vui bất ngờ.

“Anh còn nhớ nhà ảo thuật tôi đã từng nhắc, René Lavand? Ông ta đến Oxford hôm nay và ngày mai. Tôi có vé buổi diễn chiều nay ở đây. Phải đi vào hôm nay vì ngày mai tôi sẽ đi Cambridge. Anh có đi chung chuyến với các nhà toán học không?”

“Không, tôi nghĩ không được. Ngày mai là ngày nghỉ của Lorna.”

Seldom khẽ nhướng mày.

“Lời giải đáp cho bài toán quan trọng nhất trong lịch sử toán học đấu với một cô gái đẹp. Cô gái vẫn thắng, tôi chắc thế.”

“Nhưng tôi vẫn rất mong muốn được xem biểu diễn ảo thuật tối nay.”

“Dĩ nhiên, dĩ nhiên,” Seldom đáp, sôi nổi một cách lạ thường. “Anh nhất định phải xem chứ. Bắt đầu lúc chín giờ. Còn bây giờ,” ông nói như đang giao cho tôi một bài tập ở nhà, “về nhà và xem xét kỹ mấy bức hình đi.”

 

[11] Nhận xét của người dịch: Nếu số vé nhiều hơn số ghế, làm sao lại có thể đoán là có người lẻn vào không mua vé? Ở chỗ này nhân vật lập luận hoàn toàn ngược logic, một điều lạ đối với một nhà toán học.