ột ngày cuối tháng tư 1644, Robin từ Ractfọrd đến thăm tôi, hối tôi rời Lanrest và về Menabilly ở một thời gian với chị Mary. Lúc ấy Robin đang chỉ huy một trung đoàn bộ binh và được phong đại tá, phục vụ dưới trướng của ngài John Dighy. Đạo quân của John Digby đang tham gia bao vây Plymouth thành phố duy nhất ở miền Tây còn theo phe Nghị Viện.
Anh Jo và anh đều nhất trí với nhau rằng không thể để em tiếp tục sống ở đây khi mà chiến tranh còn đang tiếp diễn. Jo, Percy và anh không thể an tâm tiếp tục làm nhiệm vụ được khi em còn lại đây.
Anh phải mất cả buổi thuyết phục tôi và cuối cùng tôi đành chấp nhận, nhưng không phải là không buồn khổ.
Mười lăm năm nay - từ sau khi ngã ngựa - tôi không hề rời Lanrest hay ở trong một ngôi nhà nào khác ngoài nhà của cha mẹ tôi.
Bà con của Rashleigh tới tị nạn rất đông trong nhà Jonathan ở Menabilỉy, viện cớ chiến tranh. Tôi hoàn toàn không thích đến đó chút nào. Tôi ghét người lạ mặt và chỗ đông người. Ngoài ra tôi có lối sống riêng của tôi, những tập quán của tôi.
Ở Menabilly, em có thể sống y như ở Lanrest - Robin bảo đảm với tôi như thế, còn tốt hơn ở đây. Matty vẫn theo phục vụ em. Em sẽ có một căn phòng biệt lập. Người ta sẽ mang đồ ăn lên tận phòng nếu em không thích ăn chung với người khác. Ngôi nhà tọa lạc trên một ngọn đồi và đón nhận không khí biển. Em có thể đẩy xe lăn dạo chơi khắp vườn đẹp. Theo ý anh, không nơi nào tốt hơn.
Tôi không đồng ý với Robin, nhưng không nói gì nữa hết, khi thấy anh quá lo lắng cho tôi. Một tuần sau, hành lý thu xếp xong, người ta cáng tôi đến Menabilly, trên một cái kiệu có mái và rèm che.
Cảm tường lạ lùng biết bao khi lại hành trình trên đường sau một thời gian dài không ra khỏi nhà!
Chị Mary đứng đón tôi trên bậc thềm trước nhà. Cùng với chị ta là Alice Courtney, Joan, con đỡ đầu của tôi, đứng giữa một bày trẻ đang níu váy mẹ.
Em Honor yêu dấu! Mừng em đến Menabilly - chị Mary nói, trong lòng cứ phập phồng lo sợ tôi phật ý.
Trong nhà toàn là con nít - Alice mỉm cười nói với tôi.
Từ sau đám cưới của Alice với Peter, cứ đều đều mỗi năm nó lại cho chào đời một đứa bé.
Chúng cháu đã nghĩ đến việc cột một sợi dây vào tháp chuông - Joan nói - để khi nào dì muốn, dì giật dây chuông, là cả nhà im lặng ngay.
Phải nhìn nhận rằng căn hộ dành cho tôi rất hợp ý tôi. Trần hơi thấp, nhưng phòng rộng và rất sáng sủa, nhờ có nhiều cửa sổ. Bên cạnh phòng tôi là một phòng nhỏ dành cho Matty. Để tạo tiện nghi cho tôi, người nhà không quên một thứ gì cả. Ở đây sẽ không có ai làm phiền em - Chị Mary trấn an tôi - Phía bên kia phòng vệ sinh là căn hộ dành cho gia đình Sawle, họ hàng của Jonathan. Họ là những người đứng đắn và kín đáo, không hề quấy rầy ai. Còn căn phòng bên trái của em thì không có ai ở.
Với sự giúp đỡ của Matty, tôi thay quần áo và lên giường nằm nghĩ, mệt mỏi vì cuộc hành trình nhưng sung sướng được một mình. Tôi sử dụng những ngày đầu tiên này để làm quen với môi trường mới như một con vật vừa dời tổ.
Phòng của tôi. Rất xinh xắn và tôi không muốn phải xa nó nữa. Tôi cũng thích cái hệ thống chuông. Và sau khi quyết định dứt khoái không nghĩ đến Lanrest nữa, tôi bắt đầu chú ý đến các lối đi ngang đọc rất nhiều trong nhà lớn này, đến những tiếng động bên dưới phòng tôi. Thỉnh thoảng, bọn trẻ lại vào phòng thăm hỏi tôi và nghe chúng nói chuyện, tôi được biết, giữa hai gia đình Sawte và Sparke, bà con của họ Rashleigh, có nhiều mối bất hòa. Khi anh rể tôi vắng nhà, chính con trai anh ta là Jolm gánh lấy nhiệm vụ duy trì hòa khí trong nhà, trách nhiệm nặng nề đối với một thanh niên. Không có đôi vai rộng và lực lưỡng. Không có gì bực bội cho bằng cứ phải luôn miệng can ngăn những cô gái già lắm chuyện và những người già khó tính. Chị Mary thì bận bịu với công việc nội trợ từ sáng đến tối lo quản lý, phân phối thực phẩm nuôi tất cả mọi người trong nhà. Lại còn phải chăm sóc các cháu - ba đứa con gái của Alice, một trai và một gái của Joan, mùa thu tới Joan lại sắp có thêm một bé sơ sinh nữa..
Thật ra thì Menabilly không khác gì một thuộc địa trong đó mỗi gia đình chiếm giữ một góc. Ngày thứ năm sau khi đến, tôi cảm thấy đã khá quen với không khí mới và lấy lại tự chủ tinh thần, để ra ngoài dạo chơi. John đẩy xe, Joan và Alice đi hai bên tôi, còn bầy trẻ thì chạy ở phía trước. Chúng tôi đi một vòng quanh lâu đài. Hoa viên khá rộng được bao quanh bằng những bức tường cao và thoai thoải lên tận đỉnh đồi. Từ trên đỉnh, có thể nhìn bao quát một vùng chi chít cây, những ngọn đồi khác, và con đường cái đi Forwey, cách đó ba dặm. Phía nam trải dài những đồng cỏ và các nông trại. Một con đường đắp cao lên dẫn đến ngôi nhà nghỉ mát mùa hè, trông như cái tháp với những cửa kính dài, từ đó nhìn ra biển rất đẹp.
Chỗ này là thánh địa của cha cháu - Alice nói - Cha cháu thường tới đây để viết hoặc kế toán sổ sách. Từ cửa sổ, dì có thể nhìn thấy tàu bè lưu thông bên dưới.
Alice đưa tay xoay nắm đấm, nhưng cửa khóa.
Để khi nào cha về, cháu sẽ hỏi chìa khoá - nó nói - Chỗ này thật hoàn toàn thích hợp với dì.
Chúng tôi đi một vòng trong lãnh địa, đoạn quay trở lại, đi ngang qua căn nhà của người quản gia, sân chơi cầu và chỗ nuôi thỏ.
Ngước mắt nhìn lên ngôi nhà, lần đầu tiên tôi chú ý đến cửa sổ đóng kín của căn phòng kế bên phòng tôi.
Tại sao phòng đó không có ai ở? - tôi hỏi, John suy nghĩ một hồi trước khi trả lời.
Thỉnh thoảng, cha của cháu đến đó để cất giữ một vài vật quý.
Trước đây là phòng của bác chúng cháu - Alice lưỡng lự nói, vừa liếc mắt nhìn John - bác đã chết đột ngột, chắc dì cũng đã biết, khi chúng cháu còn nhỏ.
Tôi chợt nhớ đến cái chết của người anh cả của Jonathan vì mắc bệnh đậu mùa, không đầy một tuần sau cái chết của người cha già. Cái chết bị Rob Bennét đặt điều xuyên tạc.
Chúng tôi bước qua dưới vòng cung của cánh cửa và tôi đành phải chào ra mắt hai họ bà con của gia đình Rashleigh. Họ đã tề tựu trong hành lang dài. Gia đình Sawte ngồi bên này, gia đình Sparke ngồi bên kia. John đẩy tôi vào hành lang và trịnh trọng giới thiệu tôi với hai họ thù địch nhau này.
Sau khi đi thăm phòng của Alice, của Joan và của Elisabeth, nhìn các cháu bé nô đùa vật lộn với nhau, tôi sung sướng trở lại phòng và tìm lại sự yên tĩnh.
Matty mang đồ ăn tối lên cho tôi. Cô ta chỉ khát khao được trò chuyện, kể cho tôi những gì nghe được từ miệng những người hầu và họ nghĩ gì về những chủ nhân của họ. Jonathan, anh rể tôi, được gia nhân kính nể và sợ, nhưng ít được thương. Ai cũng vui mừng khi biết tin ông chủ đang công tác ở xa. Jonathan điều hành sổ sách chi tiêu hàng ngày và người hầu nào phung phí một mẩu bánh mì sẽ bị ngưng việc ngay tức khắc. Mary, chị tôi, được thương hơn, mặc dù chị rất khắt khe trong việc nấu rượu. Các cô cậu trẻ thì được mến chuộng hơn, nhất là Alice với nét mặt hiền lành, tính tình thùy mị.
Cậu John và mợ Joan cũng rất được cảm tình mọi người - Matty nói - nhưng người ta nói rằng cậu John phải đỡ đần cho cha nhiều hơn nữa
Tôi nhớ lại buổi đi dạo hồi chiều và hỏi Matty xem cô ta có biết gì về căn phòng bên cạnh không.
Hình như là nơi chứa đồ lặt vặt - Matly trả lời - Ông Jonathan giữ chìa khóa và cất vào trong đó những đồ quý giá.
Tính tò mò bị kích thích, tôi nói với Matty thử nhìn qua lỗ khóa xem sao. Cô ta thi hành ngay nhưng không thấy gì hết. Tôi đưa cho cô ta một cái kéo - cả hai chúng tôi cười nắc nẻ như trẻ con - và trong mười phút Matty khoét một lỗ nhỏ trên cánh cửa, đủ để ghé mắt nhìn sang phòng bên. Cô ta dán mắt vào lỗ một hồi lâu và quay lại nói:
Thưa cô, chẳng có gì cả. Cũng như phòng này, chỉ có một chiếc giường trong góc và những tấm giấy hoa dán tường.
Tôi rất thất vọng. Trong trí tưởng tượng của tôi cừ ngỡ rằng sẽ khám phá ra một kho tàng. Tôi nói với Matty che lỗ bằng một bức tranh và bắt đầu dùng bữa ăn chiều. Nhưng sau đó, khi hoàng hôn và màn đêm buông xuống, Joan, vợ của John, đến ngồi bên tôi nói chuyện. Bất chợt nó rùng mình hỏi tôi:
Dì Honor biết không? có một lần cháu ngủ trong phòng này khi anh John bị sốt. Cháu không dám ngủ lại đây lần thứ hai.
Tại sao thế? - tôi vừa hỏi vừa nhấm nháp chút rượu nho.
Cháu tưởng chừng như nghe có tiếng bước chân ở phòng bên.
Tôi nhìn bức tranh che lỗ. Không ai có thể nghi ngờ việc chúng tôi làm.
Bước chân? - tôi nói - Bước chân nào?
Joan lắc đầu, lúng túng.
Những bước chân nhẹ, hình như bước chân của người nào đó mang giầy vải vì sợ bị nghe thấy.
Chuyện xảy ra lâu chưa?
Trong mùa đông. Cháu không nói cho ai biết cả.
Có thể là một người hầu tò mò.
Không phải. Chỉ có một mình cha chồng cháu có chìa khóa, nhưng hôm ấy cha lại không có nhà. Joan lặng im một lúc, đoạn đưa mắt nhìn về phía căn phòng bên.
Chắc là ma.
Ma tới Menabilly này để làm gì? - tôi nói - Nhà này chưa được năm mươi năm mà.
Nhưng mà đã có người chết trong đó - Joan nói - Ông nội và bác John của chúng cháu.
Thế cháu có nghe người ta đồn đại về chuyện đầu độc không?
Có, nhưng cháu chẳng tin. Theo cháu nghĩ, chắc có lẽ là hồn ma của bác John ; người anh cả trong gia đình.
Nhưng tại sao ông ta lại đi dạo trong phòng bằng giầy vải? - tôi hỏi. Joan im lặng một lúc. Sau đó, nó thì thầm:
Trong nhà, không bao giờ nhắc đến chuyện bác ấy nữa. Anh John buộccháu phải hứa không được hé môi, nhưng... Bác ấy điên và người ta phải nhốt bác ấy trong phòng.
Tôi chưa bao giờ nghe kể chuyện này. Thật là kinh khủng.
Cháu có chắc thế không? - tôi hỏi.
Chắc - nó trả lời - Anh John đã nói cho cháu biết. Trong di chúc cũng có nhắc đến. Ong M.Rashleigh trước khi chết đã buộc vợ chồng của cháu cam kết chăm sóc người anh cả, tức bác John, bảo đảm cuộc sống và chỗ ở cho bác ấy. Nghe đâu căn phòng bên được xây một cách riêng để bác ấy sử dụng. Nhưng rồi bác ấy chết bất ngờ vì bệnh đậu. John, Alice và Elisabeth không nhớ mặt bác vì lúc ấy cả ba người đều còn nhỏ.
Một câu chuyện đáng buồn - tôi nói - Hãy rót cho dì thêm một ít rượu và hãy quên nó đi.
Joan ra khỏi phòng. Tối hôm đó, không còn ai khác đến thăm tôi. Nhưng trời càng về khuya, chim cú mèo bắt đầu kêu lên ngoài hoa viên, tôi lại nghĩ đến John, người anh của Jonathan. Người điên bị nhốt nhiều năm trong phòng vì tinh thần, cũng như tôi về thể xác.
Sáng hôm sau, những tin tức bay về khiến tôi tạm quên câu chuyện những bước chân trong đêm nay.