ần đầu tiên tôi gặp Gartred khi Kit, ông anh cả của tôi dẫn cô đến Lanrest và giới thiệu với chúng tôi người vợ mới cưới của anh ta. Gartred hai mươi hai tuổi, như thể tôi là người trẻ nhất, không kể Percy, một đứa trẻ mười tuổi. Gia đình chúng tôi vốn đông người, nhưng sống hạnh phúc và rất đoàn kết. Cha tôi, John Harris, không bôn ba ngoài xã hội nữa, chỉ chăm lo đàn ngựa và mấy con chó. Lanrest không phải là một lãnh địa lớn, nhưng sừng sững sau một hàng cây to che chở ngự trị trên thung lũng Looe. Đó là một trong những ngôi nhà yên tĩnh và hạnh phúc. Chúng tôi rất thích nó. Ngày hôm nay đây, sau ba mươi năm, chỉ cần nhắm mắt lại, và mơ mộng là đủ ngửi thấy mùi đồng cỏ thơm nồng do cơn gió thoảng đưa đến. Tôi còn thấy bánh xe lớn của cối xay Lametton đang bám đầy bụi. Bầu trời luôn luôn trắng vì phủ đầy cánh chim bồ câu. Chúng bay lượn, xoay quanh trên đầu chúng tôi. Chúng mạnh dạn đến nỗi sà xuống mổ hạt trên lòng bàn tay của chúng tôi. Chúng vênh vang hãnh diện gồng cánh, tạo nên một ngoại cảnh khoan khoái. Những buổi trưa mùa thu, nghe tiếng gù gù hiền hòa của chúng, lòng tôi cảm thấy bình yên trong khi những người khác đã lên đường đi săn chim ưng, bằng ngựa, cười cười nói nói và tôi không thể đi theo họ được. Nhưng tôi sẽ nói đến điều ấy trong một chương khác. Bây giờ tôi nói về lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với Gartred. Đám cưới đã diễn ra ở Stowe, nhà của cô ta. Tôi và Percy, vì lẽ bị cảm nên không thể tham dự. Bỗng nhiên tôi có hiềm khích với cô ta. Phải thừa nhận rằng tôi rất được cha mẹ và các anh chị nuông chiều, nên lúc ấy tôi có ý nghĩ trong đầu là người vợ của anh tôi không thích trẻ con làm rộn đám cưới và cô ta sợ bị lây bệnh chăng.
Tôi nhớ lại lúc ấy đang nằm trên giường, hai mắt long lanh vì sốt, và tôi cằn nhằn với mẹ: Hồi chị Cecilia lấy chồng (Cecilia là chị cả của tôi), con và Percy theo sau đỡ vạt áo cho chị. Cả đoàn đi tới Mothercombe nơi đó được gia đình Pollexefen đón tiếp rất tử tế và chúng con ăn nhiều đến bội thực. Mẹ tôi không biết trả lời thế nào ngoài câu: “Lần này thì khác, Stowe không phải là Mothercombe và gia đình Grenvile hoàn toàn không giống gia đình Pollexefen”. Tôi nghĩ rằng lý lẽ của mẹ quá yếu và nếu chúng tôi lây bệnh sốt cho Gartred, chắc mẹ sẽ không bao giờ tha thứ. Không ai bằng Gartred. Mọi người đều bị kích thích mạnh. Người ta lo chuẩn bị phòng cho đôi tân hôn, treo những tấm màn mới, trải thảm, tất cả chỉ để Gartred khỏi có cảm tưởng thiếu tiện nghi ở Lanrest. Các người hầu luôn tay quét nhà, phủi bụi. Ai cũng lăng xăng, xả thân vì Gartred.
Nếu vì Kit, ông anh tốt bụng và yêu quí, tôi không tiếc gì cả. Nhưng Kit không được nhắc tới. Tất cả chỉ vì Gartred. Và như những trẻ con khác, tôi thích lắng tai nghe lời đàm tiếu của các người hầu. Người ta xầm xì ở nhà bếp, trong tiếng lách cách của chén đĩa: “Tại vì anh ta sẽ thừa kế gia tài của ngài Christopher de Radford, nên cô ta mới lấy ông chủ trẻ này”. Tôi ghi nhớ và suy nghĩ nhiều về câu nói đó kể cả câu trả lời của người hầu phòng của cha tôi: “Hiếm khi thấy một người Grenvile chịu hạ mình lấy một người Harris tầm thường ở Lanrest”.
Lời nói ấy chạm tự ái tôi, và làm tôi ngạc nhiên. Tôi không thể tưởng tượng nổi rằng ông anh đẹp đẽ của tôi lại bị đánh giá là “tầm thường”. Tại sao một người Harris ở Lanrest lại thấp kém so với một người đàn bà Grenvile? Kit đúng là người thừa hưởng gia tài của bác tôi Christopher de Radford, một ngôi nhà lớn ở bên kia Plymouth. Nhưng cho đến nay, tôi ít khi chú ý đến điểm đó. Lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng đám cưới không phải là chuyện tình cảm như tôi tưởng, mà là một sự mua bán giữa những gia đình có thế lực, một vấn đề tài sản. Khi Cecilia lấy John Pollexefen, một người bạn từ thời thơ ấu, sự việc không có gì đáng chú ý. Nhưng bây giờ, qua những chuyến đi liên tục của cha tôi đến Stowe để đàm phán với những Pháp quan, khi trở về nhìn ông nhíu mày suy nghĩ, tôi mới hiểu rằng hôn lễ của Kit đã trở thành một việc quốc sự, và biết chừng đâu, nếu không thành, sẽ khiến tình hình trong nước trở nên hỗn loạn. Nghe ngóng thêm những lời bàn khác, tôi nghe viên mục sư nói rằng: “Ngài Bernard Grenvile không dám bàn bạc gì cả, mọi sự đều do cô con gái sắp đặt”.
Tôi suy nghĩ một thời gian và lặp lại câu này cho chị Mary của tôi nghe:
- Một người hôn thê mà vượt quyền cha mẹ đích thân bàn đến những quyền lợi cho mình, như thế có phải là bình thường không? - Tôi hỏi, dĩ nhiên với vẻ khôn lanh quá sớm.
Chị Mary không trả lời ngay. Mặc dù đã hai mươi tuổi, nhưng chị chưa hề từng trải với đời và tôi nghĩ rằng chị cũng không biết gì hơn tôi. Nhưng chị có vẻ khó chịu:
- Gartred là con gái độc nhất trong gia đình - cuối cùng chị cho ý kiến - có lẽ cô ta cần phải lên tiếng đòi hỏi phần mình.
- Em tự hỏi anh Kit có biết được điều ấy chăng - tôi cố nói - Theo em nghĩ, anh Kit chẳng thích thế đâu.
Mary dặn tôi giữ kín miệng, tiên liệu rằng không chừng tôi sẽ thành đứa con gái lắm điều mà mọi người đều xa lánh. Không nản lòng, tôi quyết định dày vò Robin - ông anh hợp ý nhất của tôi - bằng cách buộc anh ta phải nói về gia đình Grenvile. Robin vừa mới đi săn bằng chim ưng về. Anh còn đứng trong chuồng ngựa khuôn mặt đẹp trai rạng rỡ và sung sướng, tay nắm con chim ưng. Tôi còn nhớ lúc ấy tôi chợt giật lùi lại khi nhìn thấy con vật hung ác, mỏ dính đầy máu. Chỉ có Robin mới dám vuốt ve lông nó. Chuồng ngựa khá ồn ào, các người hầu lo chải lông ngựa bằng bàn chải, còn trong một góc, đàn chó đang ăn.
- May mà Kit tự mình kiếm vợ, chứ không nhờ em giới thiệu - Robin vừa nói vừa mỉm cười, trong khi con chim ưng trừng mắt nhìn tôi.
Một tay Robin vuốt tóc tôi, còn tay kia anh vẫn giữ chặt con vật đang giận giữ vùng vẫy.
- Nếu anh là anh cả - Robin dịu dàng nói - Có lẽ anh đã là chồng cô ta.
Tôi thoáng nhìn thấy một vẻ buồn thay thế nụ cười mỉm của Robin.
- Có phải anh là người mà cô ta yêu hơn cả không? - tôi hỏi.
Anh quay mặt đi, chụp mũ lên đầu con vật và trao cho người hầu. Đoạn, cầm lấy tay tôi, mỉm cười trở lại.
- Chúng ta hãy đi hái cerises (xơ - ri) - Robin nói - và hãy gác qua chuyện người vợ của anh cả chúng ta.
- Nhưng còn gia đình Grenvile - tôi cố hỏi trong khi anh công kênh tôi lên vai để đi đến tận vườn trái cây - Tại sao chúng ta lại phải quá hãnh diện vì được thông gia với họ.
- Bevil Grenvile là một chàng trai dễ mến nhất xứ - Robin nói - Kit, Jo và anh đã từng học ở Oxford với anh ta. Em gái của Bevil rất đẹp.
Tôi không rút tỉa được điều gì thêm, nhưng ông anh Jo của tôi, với tinh thần sâu sắc và châm biếm hơn, tỏ ý ngạc nhiên trước sự không biết gì của tôi.
- Này Honor, em đã hơn mười tuổi rồi mà không biết rằng ở Cornouailles này, chỉ có hai gia đình uy thế nhất là Grenvile và Arudell sao? Lẽ dĩ nhiên, gia đình Harris tầm thường của chúng ta phải điên lên vì sung sướng khi được cô Gartred kiều diễm về làm dâu.
Nói xong, Jo lại chúi mũi vào cuốn sách đang đọc dở, và tôi không còn khai thác gì được thêm.
Tuần lễ sau đó, cả nhà lên đường đi Stowe để dự đám cưới. Tôi đành phải kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi họ trở về. Nhưng rồi lại sớm thất vọng: mẹ tôi và những người khác đều viện cớ mệt, không nói gì cả. Thật thế, ai cũng có vẻ mệt nhoài sau bao nghi lễ và vui chơi. Chỉ có người chị thứ ba của tôi là Bridget chịu kể. Chị ca ngợi vẻ nguy nga lộng lẫy của lâu đài Stowe và lòng hiếu khách của gia đình Grenvile:
- So với Stowe, nhà của chúng ta chỉ bằng chỗ ở của người gác cổng. Cả Lanrest này không thấm thía gì đối với Stowe. Em biết không, luôn luôn có hai người hầu đứng sau ghế của chị, còn trong hành lang, ban nhạc cứ chơi liên tục.
- Nhưng Gartred? - Tôi nóng lòng hỏi - Em muốn chị nói về Gartred.
- Thong thả đã! Này em, có hơn hai trăm thực khách. Mary và chị ngủ trong một căn phòng lớn hơn căn phòng này nhiều. Một bà hầu phòng luôn túc trực phục vụ và chải tóc cho tụi chị. Khăn trải giường được thay hằng ngày và tẩm dầu thơm.
- Còn gì nữa không chị? - tôi hỏi, lòng khô héo vì ghen tị.
- Cha của chúng ta như một bóng mờ - Bridget thở dài nói tiếp - Thỉnh thoảng chị thấy cha đang cố tìm lời bắt chuyện với người khác, nhưng trông cha chẳng thoải mái chút nào cả. Ai cũng ăn mặc sang trọng khiến cha có vẻ nghèo nàn khi đứng bên cạnh họ. Ngài Bernard rất đẹp lão. Ngài mặc một bộ áo vét ngắn, đeo lon bạc, còn bộ đồ xanh lá cây của cha trông hơi chật. Khi đứng bên cạnh cha của chúng ta, ngài Bernard nổi bật hẳn lên.
- Chuyện ấy không quan trọng - tôi nói - Hãy kể về Gartred cho em nghe.
Chị Bridget mỉm cười với vẻ bề trên.
- Bevil là người mà chị thích nhất và đó cũng là ý kiến của những người khác. Chàng luôn luôn có mặt giữa chúng ta, để xem có thiếu gì không. Chị nhận thấy điệu bộ của phu nhân Grenvile hơi cứng cỏi, nhưng Bevil mới là mẫu người lịch thiệp. Trong gia đình Grenvile, ai cũng có mái tóc hồng nâu, em biết đấy. Nếu gặp ai có màu tóc đó, chúng ta có thể quả quyết rằng người ấy thuộc giòng họ Grenvile. Chị không thích cái anh chàng mà người ta gọi là Richard lắm - Bridget bĩu môi nói thêm.
- Tại sao? Anh ta xấu lắm sao? - Tôi hỏi.
- Không, - Bridget bối rối trả lời - anh ta còn đẹp trai hơn Bevil. Nhưng anh ta nhìn tụi chị với vẻ ngạo mạn. Có lúc anh ta dẫm chân lên vạt áo của chị mà không ngỏ lời xin lỗi. Anh ta còn xấc xược nói: “Tại cô để vạc áo kéo lê trên đất”. Người ta đồn Richard là chiến binh.
- Nhưng còn Gartred? - Tôi lại hỏi - Chị không nói gì với em về cô ấy.
Mặc tôi nản lòng, Bridget vươn vai ngáp và đứng dậy:
- Ồ! Chị mệt quá rồi. Hãy đợi đến ngày mai. Nhưng Mary, Cecilia và chị đều đồng quan điểm với nhau rằng Gartred rất đẹp và tụi chị ước ao được như cô ta.
Cuối cùng tôi đành bằng lòng chờ đợi giây phút gặp Gartred, mới có nhận xét riêng của mình. Cả nhà chúng tôi tề tựu trong phòng khánh tiết để đón gia đình Grenvile - họ đã rời Stowe, trước hết đến ra mắt ông bác tôi ở Radford - và bây giờ thì đàn chó túa ra sân khi nghe tiếng vó ngựa.
Chúng tôi khá đông người, gia đình Pollexefen cũng đến với chúng tôi. Chị Cecilia bế bé sơ sinh trên tay - đứa con đỡ đầu lần đầu tiên của tôi. Tôi rất hãnh diện về vinh dự này. Tất cả chúng tôi đều rất vui vẻ, cười đùa với nhau, như cùng một gia đình, bởi vì chúng tôi rất hiểu rõ nhau.
Kit nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa - trông anh thật tươi tỉnh - và tôi thấy Gartred. Cô ta thỏ thẻ điều gì đó với Kit. Anh chàng bật cười, đỏ mặt, đưa tay đỡ người vợ mới cưới xuống ngựa. Trong chớp mắt, tôi hiểu điều mà Gartred vừa nói với Kit chỉ là một phần trong đời sống của hai người đó và không kiên hệ đến chúng tôi, đến gia đình. Anh Kit không thuộc về gia đình nữa, anh ta đã thuộc về Gartred.
Tôi cố ý đứng tách riêng ra, để hỏi bị giới thiệu tên, nhưng bất ngờ Gartred xuất hiện gần tôi, bàn tay mát rượi của cô ta nâng cằm tôi.
- Em Honor hả? - Cô ta nói, giọng ngụ ý cho rằng tôi còn con nít, hoặc yếu đuối, có thể nói, tôi làm cô ta thất vọng.
Gartred bước vào phòng khách, đi trước mẹ tôi, nụ cười dạn dĩ trên môi. Những người còn lại đi theo, như bị thu hút. Em trai tôi, Percy, hai mắt tròn xoe vì cảm phục, đến gần Gartred. Cô ta đặt một viên kẹo vào miệng nó. Hình như cô ta luôn cầm sẵn kẹo - tôi nghĩ thầm - để lấy lòng trẻ con chúng tôi như người ta nuôi dạy chó.
- Honor cũng muốn kẹo chớ? - Gartred nói, giọng hơi chế giễu, như thể cô ta biết rằng tôi rất ghét bị xem như trẻ con.
Tôi chăm chú nhìn Gartred. Cô ta nhắc tôi nhớ lại điều gì đó, bất chợt tôi nhớ lại.
Lúc còn là một cô bé tí xíu ở Radford, trong nhà bác tôi, có lần chúng tôi đang ở trong nhà kiếng trồng cây. Tôi chợt thấy một cây hoa phong lan đơn độc, màu ngà nhạt với một đường chỉ đỏ sẫm giữa hai cánh hoa. Hương thơm của nó tỏa khắp nhà, một mùi mật, bệnh hoạn. Đó là hoa đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy và tôi đưa tay ra định vuốt ve vật mỹ lệ mơn mởn đó nhưng bác đã gạt tay tôi ra.
- Cháu chớ sờ vào nó, độc lắm!
Tôi sợ hãi lùi lại. Thật thế, tôi thấy vô số những sợi tua tủa như kim châm dựng đứng lên, sắc như kiếm. Gartred giống như hoa phong lan. Cô ta chìa kẹo cho tôi. Tôi quay mặt đi, lắc đầu. Ngay cả cha tôi chưa bao giờ nặng lời với tôi như lúc ấy:
- Honor, con học đâu những cử chỉ như thế? - Gartred cười và nhún vai. Ai cũng quay nhìn tôi bằng vẻ bất bình, kể cả Robin cũng chau mày. Mẹ tôi ra lệnh cho tôi đi lên phòng riêng. Ngày Gartred đến Lanrest là thế đấy.
Ba năm, sau ngày hôn lễ, biết bao nhiêu điều góp phần làm rõ nét cuộc đời của Gartred và chiến tranh đã dạy cho chúng tôi nhận định về những năm đen tối trải qua. Có điều chắc chắn rằng cả hai chúng tôi vẫn thù nghịch nhau. Cô ta thì trẻ, tự tin và kêu hãnh. Còn tôi vẫn là đứa trẻ hay hờn dỗi, núp sau cánh cửa hoặc bức bình phong để rình mò Gartred, và cả hai chúng tôi đều cùng ý thức rõ mối thù nghịch này. Vợ chồng Kit thường ở Radford và Stowe nhiều hơn ở Lanrest, nhưng sự hiện diện của họ chỉ gieo niềm u ám. Tôi chỉ là một đứa trẻ, tôi không biết lý luận, nhưng bản năng của một đứa trẻ hay một con vật không lầm. Hai vợ chồng mãi vẫn không có con. Đó là cú đầu tiên làm cha mẹ tôi nản lòng. Chị Cecilia của tôi vẫn tiếp tục sinh đẻ đều đặn, nhưng với Gartred, thì không bao giờ nghe đề cập đến vấn đề con cái. Cô ta vẫn leo lên lưng ngựa, đi săn như tất cả chúng tôi, không bao giờ thấy cô ta nằm phòng hay than mệt mà cả nhà mong mỏi như tình trạng của Cecilia. Một lần kia, mẹ tôi bạo miệng nói:
- Gartred con, ngay mẹ đây, từ sau khi lấy chồng, mẹ đã từ bỏ cưỡi ngựa và đi săn, vì sợ rủi ro xảy ra tai nạn.
vẫn cứ thản nhiên làm móng tay bằng một chiếc kéo nhỏ xíu bằng xà cừ, Gartred nhìn mẹ tôi và trả lời tỉnh bở.
- Con chẳng có gì phải sợ cả. Mẹ cứ quở trách con trai mẹ thì tốt hơn.
Cô ta nói bằng giọng trầm trầm, chứa đầy nọc độc. Mẹ tôi sửng sốt nhìn cô con dâu hồi lâu, đoạn bỏ ra khỏi phòng, vẻ tuyệt vọng. Lần đầu tiên bà cảm thấy thấm thía vì nọc độc này. Tôi không hiểu ý nghĩa câu chuyện giữa hai người nhưng tôi có cảm giác Gartred đổ lỗi cho anh tôi. Sau đó, Kit đi vào và trách vợ đã buộc tội anh ta trước mặt mẹ. Cả hai người quay lại nhìn tôi và tôi hiểu rằng phải tránh xa chỗ khác. Tôi ra ngoài vườn và cho bồ câu ăn thóc, nhưng sự bình yên đã lìa bỏ ngôi nhà. Từ lúc đó, giữa hai người không còn êm thắm nữa và ảnh hưởng đến tất cả chúng tôi. Tình hình của Kit như thay đổi. Nét mặt anh luôn có vẻ bực bội và đôi khi tỏ thái độ lạnh lùng cả với cha tôi, trái với trước đây hai cha con rất hợp ý nhau.
Kit càng ngày càng công kích cha tôi và mọi người trong nhà. Anh chê bai doanh nghiệp ở Lanrest và mang ra so sánh với Radford. Nhưng ngược lại, đối với vợ, anh lại hạ mình như kẻ hầu, mất hết cả tính cách quý phái trước đây ở con người anh ta và dưới đôi mắt không tha thứ nổi của tôi, anh ta thật đáng khinh. Năm sau, Kit được cử làm đại diện cho vùng West Looe ở Nghị Viện và cả hai vợ chồng thường đi Luân Đôn. Từ đó, chúng tôi ít khi có dịp thấy họ, nhưng mỗi khi trở về Lanrest, sự hiện diện của họ là nguyên nhân cho những căng thẳng mới. Vào một tối kia, trong khi cha mẹ chúng tôi vắng nhà, giữa Kit và Gartred, một cuộc gây gổ dữ dội đã nổ ra. Lúc ấy đang giữa mùa hè oi bức, tôi phải trốn khỏi căn phòng nóng nực và mặc đồ ngủ đi dạo ngoài vườn. Mọi người đang ngủ. Tôi như một bóng ma đi bách bộ ngang qua cửa sổ. Chỉ có cửa sổ phòng dành cho bạn bè lại mở toang, và tôi nghe giọng nói của Kit to hơn thường ngày. Như bị xui khiến, tôi tiến tới lắng tai nghe.
- Đi tới bất cứ chỗ nào cũng thế, cô làm tôi mất mặt trước mắt mọi người và ngay hồi nãy trước mặt em trai tôi. Tôi không thể chịu đựng hơn nữa đâu.
Tôi nghe Gartred bật cười và thấy bóng đen của Kit nhảy nhót trên trần nhà dưới ánh sáng chao đảo của ngọn đèn. Kế đó, họ nói nhỏ với nhau một hồi, đoạn Kit trở nên to tiếng:
- Bộ cô tưởng tôi không thấy sao? Cô tưởng tôi ngu đần đến nỗi nhắm mắt làm ngơ tất cả, hầu đạt mục đích giữ cô gần tôi và được sờ mó cô sao? Cô tưởng tôi sung sướng gì khi thấy cô ngoại tình với tên Antony Denys vào buổi tối mà tôi bất thần bắt gặp khi từ Luân Đôn trở về? Tưởng ai hóa ra một thằng mới chôn vợ chết và con cái thì đã lớn đùm đề cả rồi? Cô không thương xót tôi sao?
Cái giọng than vãn mà tôi ghét nhất lại trở về với ông anh của tôi và tôi nghe Gartred vẫn cười:
- Ngay cả hồi nãy - Kit nói tiếp - tôi thấy cô mỉm cười với em trai tôi.
Tôi sợ hãi, nhưng sự kích thích kỳ lạ xâm chiếm hồn tôi. Chợt tim tôi nhảy thót trong lồng ngực khi nghe có tiếng chân người tới gần bên, nhưng người ấy không phải ai khác hơn là Robin.
- Anh đi đi - tôi thì thầm - Đi ngay đi!
Tôi đưa ngón tay chỉ cửa sổ:
- Kit và Gartred đấy - tôi nói - Kit giận vợ vì đã mỉm cười với anh.
Robin làm điệu bộ bỏ đi, nhưng ngay lúc ấy giọng của Kit to lên như một đứa trẻ đang nức nở.
- Nếu đúng như thế, tôi sẽ giết cô. Tôi thề sẽ giết cô.
Bằng một động tác rất nhanh, Robin cúi xuống, lượm một hòn đá và ném vào khung cửa, làm bể một tấm kính.
- Cầu trời đày đọa anh! Anh hèn lắm - Robin la lên - Hãy xuống đây mà giết tôi!
Tôi ngước mắt lên, thấy khuôn mặt của Kit, trắng bệch và bối rối, đằng sau anh ta là Gartred, tóc xõa xuống vai. Một cảnh tượng mà tôi không bao giờ quên: hai cái đầu xuất hiện trên khung cửa sổ, còn Robin hoàn toàn không có vẻ gì là người anh đáng yêu nữa. Trông anh ta lúc ấy đầy sự thách đố và khinh bỉ. Tôi lấy làm xấu hổ cho anh ta, cho Kit và cho cả tôi. Nhất là, tôi thù hận Gartred, nguồn gốc của cơn bão tố này và cô ta vẫn ra vẻ thản nhiên.
Tôi trốn chạy, hai tay bịt tai, leo lên giường, không nói với ai một lời, úp mặt trên mền, cứ nơm nớp lo sợ sáng hôm sau bắt gặp xác ba người nằm chết trên cỏ. Tôi không bao giờ biết được điều gì đã xảy ra sau đó. Sáng hôm sau, mọi sự lại diễn ra bình thường, đúng hơn là Robin lên ngựa ra đi sau bữa điểm tâm và chỉ trở về nhà sau khi Kit và Gartred đi Radford khoảng năm ngày sau. Tôi cũng không bao giờ biết trong gia đình có ai khác thấy cảnh tượng hồi đêm hôm không. Tôi không dám hỏi. Từ khi Gartred hiện diện trong gia đình, chúng tôi đã mất đi thói quen chia xẻ với nhau những nỗi phiền muộn và bây giờ mỗi người trở nên lầm lì và bí mật hơn.
Năm tiếp theo, năm 1623, bệnh đậu mùa tàn phá vùng Cornouailles và ít gia đình nào mà không có người mắc bệnh. Ở Liskeard, nhà nào cũng đóng kín cửa, các cửa tiệm cũng thế, không chịu tiếp tục buôn bán vì sợ lây bệnh.
Một ngày tháng sáu, cha tôi trúng bệnh đậu và từ trần ít ngày sau. Nỗi buồn chưa kịp phôi pha thì tin tức của bác tôi từ Radford gửi về cho hay Kit cũng mắc bệnh và khó có hy vọng thoát chết.
Thế là cả cha lẫn con đều chết, cách nhau vài tuần. Jo, ông anh “mọt sách”, trở thành chủ gia đình. Chúng tôi quá đau buồn trước sự mất mát của hai người thân nên ít chú ý đến Gartred đã vội vàng bỏ về Stowe ngay sau khi có dấu hiệu bệnh dịch trong vùng, và cũng nhờ thế mà cô ta thoát chết. nhưng khi mọi người tham dự việc mở di chúc của hai người chết ra đọc - di chúc của Kit và di chúc của cha tôi - chúng tôi mới biết rằng nếu lãnh địa
Lanrest và sau này cả Radford do Jo thừa hưởng, thì những đồng cỏ phì nhiêu ở Lametton và cối xay thuộc về tay Gartred.
Gartred đến nghe đọc di chúc cùng với ông anh Bevil, Cecilia, người chị dịu dàng nhất của tôi, cũng có mặt và sau này chị phải tỏ ra ngạc nhiên vì thái độ của Gartred, lạnh lùng, bủn xỉn. Cô ta kiểm tra gắt gao việc đo đạc từng tấc đất ở Lametton. Bevil, anh cô ta, đã có vợ rồi, và trở thành người láng giềng của chúng tôi ở Killigarth, cố gắng làm mọi cách để xóa tan đi ấn tượng xấu trong lòng chúng tôi, và mặc dầu lúc ấy tuy còn nhỏ, tôi cũng thấy động lòng trắc ẩn trước tình thế khó khăn của anh ấy. Không ngạc nhiên gì khi mà ai cũng mến Bevil và tôi tự hỏi trong thâm tâm anh ta nghĩ gì về cô em gái của mình.
Công việc xong xuôi, hai anh em Bevil lại lên đường trở về và mỗi người trong gia đình - tôi nghĩ thế - mừng thầm vì tránh được sự gãy vỡ, mầm mống bất hòa giữa hai gia đình. Sự kiện Lanrest thuộc về Jo cũng làm khuây khỏa mẹ tôi phần nào tuy bà không nói gì hết.
Lúc ấy Robin không có nhà và không ai khác ngoài tôi ra, có thể đoán được lý do tại sao anh ta vắng mặt.
Ngày Gartred ra đi, cái gì đó xui khiến tôi đừng lại trước ngưỡng cửa phòng của vợ chồng ông anh tôi. Gartred đã tuyên bố rằng tất cả những gì trong phòng đều thuộc về Kit, và như thế thuộc về cô ta. Ngày hôm trước, các người hầu phải mất nguyên một ngày để gỡ những tấm màn cửa và thu dọn đồ đạc mà Gartred sẽ mang đi. Lúc ấy, chỉ còn một mình Gartred trong phòng cô ta đang loay hoay lấy hết đồ đạc ra khỏi một ngăn kéo bí mật trong một góc. Gartred không biết đang bị tôi quan sát và cuối cùng tôi thấy bộ mặt thật của cô ta. Đôi mày nhíu lại, môi trề ra, Gartred kéo mạnh ngăn kéo đến nỗi cái tay nắm tuột cả ra, ở đáy hộc, chỉ có vài ba món nữ trang nhỏ, không đáng giá - tôi nghĩ thế - nhưng cô ta quyết không để sót lại. Gartred nhìn thấy tôi qua tấm kiếng.
- Chị muốn mang thì mang nhưng nhớ để lại cho chúng tôi bốn bức tường nhé - tôi mỉa mai nói với Gartred khi cả hai chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Với lời lẽ như thế, trước đây tôi có thể bị cha và các anh đánh đòn, nhưng trong phòng bây giờ chỉ có hai chúng tôi.
- Em luôn luôn rình mò tôi ngay từ ngày đầu - Gartred nhẹ nhàng nói và bởi vì tôi không phải đàn ông, cô ta không mỉm cười duyên.
- Tôi sinh ra với cặp mắt mà - tôi trả đũa lại.
Gartred thong thả cất nữ trang vào một cái bao đeo ở thắt lưng.
- Em hãy mừng vì khỏi phải thấy tôi nữa - cô ta nói - Chúng ta ít có cơ may gặp lại nhau.
- Tôi cũng hy vọng thế - tôi trả lời.
Bất chợt, Gartred cười.
- Thật đáng tiếc cho ông anh của em không được phần tính của em.
- Anh nào? - Tôi hỏi.
Cô ta im lặng một lúc và cuối cùng vuốt má tôi bằng ngón tay dài mịn.
- Tất cả - cô ta trả lời trước khi quay lưng gọi người hầu.
Thong thả, tôi bước xuống cầu thang, đầu nóng bừng. Trong phòng đại sảnh, Jo đang sửa lại tấm bản đồ treo trên tường cho ngay ngắn. Tôi đi ngang gần anh ta nhưng không nói một lời nào và sau đó bước ra vườn.
Gartred rời khỏi Lanrest lúc giữa trưa trong tiếng vó ngựa ồn ào cùng với đám tùy tùng của cô ta mang theo đồ đạc và hành lý. Tôi núp sau những thân cây để quan sát họ. Cả bọn biến mất trong đám mấy bụi trên đường.
- Thế là xong - tôi tự nhủ - chúng tôi đã dứt khỏi những người thuộc giòng họ Grenvile.
Thế mà số phận lại quyết định cách khác.